Kiều & Hoạn Thư (cont) [1705-2028] | Nguyễn Du

Minh and Tâm

A tale by Nguyễn Du
An adaptation by Nguyễn Thị Phương Trâm


Kiều & Hoạn Thư [1473-1704]

Nước trôi hoa rụng đã yên,
Hay đâu địa ngục ở miền nhân gian!
Khuyển Ưng đã đắt mưu gian,
Vực nàng đưa xuống để an dưới thuyền.
Buồm cao lèo thẳng cánh xuyền,
Đè chừng huyện Tích băng miền vượt sang.
giã đò, lên trước sảnh đường
Khuyển Ưng hai đứa nộp nàng dâng công
vực nàng tạm xuống môn phòng
hãy còn thiêm thiếp giấc nồng chưa phai
hoàng lương chợt tỉnh hồn mai
cửa nhà đâu mất, lâu đài nào đây?
bàng hoàng dở tỉnh dở say
sảnh đường mảng tiếng đòi ngay lên hầu
ả hoàn liền xuống giục mau
hãi hùng nàng mới theo sau một người

[1705-1720]

[1705-1720]

ngước trông tòa rộng dãy dài
thiên quan trủng tể có bài treo trên
ban ngày sáp thắp hai bên
giữa giường thất bảo, ngồi trên một bà
gạn gùng ngọn hỏi ngành tra
sự mình nàng phải cứ mà gửi thưa
bất tình nổi trận mây mưa
quở rằng: “những giống bơ thờ quen thân
con này chẳng phải thiện nhân
chẳng phường trốn chúa thì quân lộn chồng
ra tuồng mèo mả gà đồng
ra tuồng lúng túng chẳng xong bề nào
đã đem mình bán cửa tao
lại còn khủng khỉnh làm cao thế này
nào là gia pháp nọ bay
hãy cho ba chục biết tay một lần”
ả hoàn trên dưới dạ rân
dẫu rằng trăm miệng, khôn phân lẽ nào
trúc côn ra sức đập vào
thịt nào chẳng nát, gan nào chẳng kinh
xót thay đào lý một cành
một phen mưa gió, tan tành một phen
hoa nô truyền dạy đổi tên
buồng the dạy ép vào phiên thị tỳ
ra vào theo lũ thanh y
dãi dầu tóc rối da chì quản bao

[1721-1746]

[1721-1746]

quản gia có một mụ nào
thấy người thấy nết, ra vào mà thương
khi chè chén, khi thuốc thang
đem lời phương tiện, mở đường hiếu sinh
dạy rằng: “may rủi đã đành
liễu bồ mình giữ lấy mình cho hay
cũng là oan nghiệp chi đây
sa cơ mới đến thế này, chẳng dưng
ở đây tai vách mạch rừng
thấy ai người cũ cũng đừng nhìn chi
kẻo khi sấm sét bất kỳ
con ong cái kiến kêu gì được oan”
nàng càng giọt ngọc như chan
nỗi lòng luống những bàn hoàn niềm tây
phong trần kiếp đã chịu đầy
lầm than lại có thứ này bằng hai
phận sao bạc chẳng vừa thôi
khăng khăng buộc mãi lấy người hồng nhan
đã đành túc trái tiền oan
cũng liều ngọc nát hoa tàn mà chi”
những là nương náu qua thì
tiểu thư phải buổi mới về ninh gia
mẹ con trò chuyện lân la
phu nhân mới gọi nàng ra dạy lời
“tiểu thư dưới trướng thiếu người
cho về bên ấy theo đòi lầu trang”

[1747-1772]

[1747-1772]

lĩnh lời nàng mới theo sang
biết đâu địa ngục thiên đàng là đâu
sớm khuya khăn mặt, lược đầu
phận con hầu giữ con hầu dám sai
phải đêm êm ả chiều trời
trúc tơ hỏi đến nghề chơi mọi ngày
lĩnh lời nàng mới lựa dây
nỉ non thánh thót dễ say lòng người
tiểu thư xem cũng thương tài
khuôn uy dường cũng bớt vài bốn phân
cửa người đày đọa chút thân
sớm năn nỉ bóng, đêm ân hận lòng
Lâm Truy chút nghĩa đèo bòng
nước non để chữ tương phùng kiếp sau
bốn phương mây trắng một màu
trông vời cố quốc biết đâu là nhà?
lần lần tháng trọn ngày qua
nỗi gần nào biết đường xa thế này?
Lâm Truy từ thuở uyên bay
phòng không thương kẻ tháng ngày chiếc thân
mày xanh trăng mới in ngần
phấn thừa hương cũ bội phần xót xa
sen tàn, cúc lại nở hoa
sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân
tìm đâu cho thấy cố nhân
lấy câu vận mệnh khuây dần nhớ thương
trạnh niềm nhớ cảnh gia hương
nhớ quê, chàng lại tìm đường thăm quê

[1773-1800]

[1773-1800]

tiểu thư đón cửa giã giề
hàn huyên vừa cạn mọi bề gần xa
nhà hương cao cuốn bức là
phòng trong truyền gọi nàng ra lạy mừng
bước ra một bước một dừng
trông xa, nàng đã tỏ chừng nẻo xa:
“phải rằng nắng quáng đèn lòa
rõ ràng ngồi đó chẳng là Thúc Sinh?
bây giờ tình mới tỏ tình
thôi thôi đã mắc vào vành chẳng sai
chước đâu có chước lạ đời
người đâu mà lại có người tinh ma
rõ ràng thật đứa đôi ta
làm ra con ở, chúa nhà đôi nơi
bề ngoài thơn thớt nói cười
mà trong nham hiểm giết người không dao

[1801-1816]

[1801-1816]

Bây giờ đất thấp trời cao,
Ăn làm sao, nói làm sao bây giờ?”
Càng trông mặt, càng ngẩn ngơ,
Ruột tằm đòi đoạn như tơ rối bời.
Sợ uy, dám chẳng vâng lời,
Cúi đầu nép xuống sân mai một chiều.
Sinh đà phách lạc hồn xiêu,
“Thương ôi! Chẳng phải nàng Kiều ở đây?
Nhân làm sao đến thế này?
Thôi thôi, ta đã mắc tay ai rồi!”

[1817-1826]

Like the cries through the wilderness, who will hear it
How could anyone possibly eat or speak?”
The dumbfound numbness evident on one’s face,
The agonizing chaos and heart wrenching pain.
To go against one’s parent’s wishes,
To impulsively submit to one’s desire one beautiful afternoon.
The terrifying fear that could move heaven and earth,
“The pity! It’s not so much because of Kiều?
How could it ever be anyone’s intention?
Gosh, had it been a trap all along!”

[1817-1826]

Sợ quen dám hở ra lời,
Khôn ngăn giọt ngọc sụt sùi nhỏ sa.
Tiểu thư trông mặt hỏi tra:
“Mới về có việc chi mà động dong?”
Sinh rằng: Hiếu phục vừa xong,
Suy lòng trắc khởi(dĩ), đau lòng trung thiên!”
Khen rằng: Hiếu tử đã nên!
Tẩy trần mượn chén giải phiên đêm thu”.
Vợ chồng chén tạc chén thù,
Bắt nàng đứng chực trì hồ hai nơi.

[1827-1836]

[1827-1836]

bắt khoan bắt nhặt đến lời
bắt quì tận mặt, bặt mời tận tay
Sinh càng như dại như ngây
giọt dài giọt ngắn, chén đầy chén vơi
ngảnh đi, chợt nói chợt cười
cáo say, chàng đã kiếm bài lảng ra
tiểu thư vội hét: “con Hoa
khuyên chàng chẳng cạn thì ta có đòn”
Sinh càng nát ruột tan hồn
chén mời phải ngậm bồ hòn ráo ngay
tiểu thư cười nói tỉnh say
chưa xong cuộc rượu lại bày trò chơi
rằng: “Hoa nô đủ mọi tài
bản đàn thử dạo một bài chàng nghe”
nàng đà tán hoán tê mê
vâng lời ra trước bình the vặn đàn
bốn dây như khóc như than
khiến người trên tiệc cũng tan nát lòng

[1837-1854]

[1837-1854]
[1855-1878]

cùng trong một tiếng tơ đồng
người ngoài cười nụ, người trong khóc thầm
giọt châu lã chã khôn cầm
cúi đầu chàng những gạt thầm giọt sương
tiểu thư lại thét lấy nàng;
“cuộc vui gảy khúc đoạn tràng ấy chi?
sao chẳng biết ý tứ gì?
cho chàng buồn bã tội thì tại ngươi”
Sinh càng thảm thiết bồi hồi
vội vàng gượng nói, gượng cười cho qua
giọt rồng canh đã điểm ba
tiểu thư nhìn mặt dường đà cam tâm
lòng riêng khấp khởi mừng thầm:
“vui này đã bõ đau ngầm xưa nay”
Sinh thì gan héo ruột đầy
nỗi lòng càng nghĩ càng cay đắng lòng
người vào chung gối loan phòng
nàng ra tựa bóng đèn chong canh dài
bây giờ mới rõ tăm hơi
máu ghen đâu có lạ đời nhà ghen
chước đâu rẽ thúy chia uyên
ai ra đường nấy, ai nhìn được ai?
bây giờ một vực một trời
hết điều khinh trọng, hết lời thị phi

[1855-1878]

nhẹ như bấc, nặng như chì
gỡ cho ra nữa còn gì là duyên?
lỡ làng chút phận thuyền quyên
bể sâu sóng cả có tuyền được vay?
một mình âm ỉ đêm chầy
đĩa dầu vơi, nước mắt đầy năm canh
sớm khuya hầu hạ đài doanh
tiểu thư chạm mặt, đè tình hỏi tra
lựa lời, nàng mới thưa qua
“phải khi mình lại xót xa nỗi mình”
tiểu thư hỏi lại Thúc Sinh:
“cậy chàng tra lấy thực tình cho nao”
Sinh đà rát ruột như bào
nói ra chẳng tiện, trông vào chẳng đang
những e lại lụy đến nàng
đánh liều mới sẽ lựa đường hỏi tra
cúi đầu quỳ trước sân hoa
thân cung nàng mới dâng qua một tờ
diện tiền trình với tiểu thư
thoắt xem dường cũng ngẩn ngơ chút tình
liền tay trao lại Thúc Sinh
rằng: “tài nên trọng mà tình nên thương
ví chăng có số giàu sang
giá này dẫu đúc nhà vàng cũng nên
bể trần chìm nổi thuyền quyên
hữu tài thương nỗi vô duyên lạ đời”
Sinh rằng: “thật có như lời
hồng nhan bạc mệnh một người nào vay
nghìn xưa âu cũng thế này
từ bi âu liệu bớt tau mới vừa”

[1879-1908]

[1879-1908]
[1909-1928]

tiểu thư rằng: “ý trong tờ
rắp đem mệnh bạc xin nhờ cửa không
thôi thì thôi cũng chiều lòng
cũng cho khỏi lụy trong vòng bước ra
sẵn Quan Âm các vườn ta
có cây trăm thước, có hoa bốn mùa
có cổ thụ, có sơn hồ
cho nàng ra đó, giữ chùa tụng kinh”
tâng tâng trời mới bình minh
hương hoa ngũ cúng, sắm sanh lễ thường
đưa nàng đến thước Phật đường
tam qui ngũ giới, cho nàng xuất gia
áo xanh đổi lấy cà sa
pháp danh lại đổi tên ra Trạc Tuyền
sớm khuya tính đủ dầu đèn
Xuân, Thu cắt sẵn hai tên hương trà
nàng từ lánh gót vườn hoa
dường gần rừng tía, dường xa bụi hồng
nhân duyên đâu lại còn mong
khỏi điều thẹn phấn tủi hồng thì thôi

[1909-1928]

Phật tiền thảm lấp sầu vùi
ngày pho thủ tự, đêm nồi tâm hương
cho hay giọt nước cành dương
lửa lòng tưới tắt mọi đường trần duyên
nâu sồng từ trở màu thiền
sân thu trăng đã vài phen đứng đầu
quan phòng then nhặt lưới mau
nói lời trước mặt, rơi châu vắng người
gác kinh viện sách đôi nơi
trong gang tấc lại gấp mười quan san
những là ngậm thở ngùi than
tiểu thư phải buổi vấn an về nhà
thừa cơ Sinh mới lẻn ra
xăm xăm đến mé vườn hoa với nàng
sụt sùi giở nỗi đoạn trường
giọt châu tầm tã đượm tràng áo xanh
“đã cam chịu bạc với tình
chúa xuân để tội một mình cho hoa
thấp cơ thua trí đàn bà
trông vào đau ruột, nói ra ngại lời
vì ta cho lụy đến người
cát lầm ngọc trắng, thiệt đời xuân xanh
quản chi lên thác xuống ghềnh
cũng toan sống thác với tình cho xong
tông đường chút chửa cam lòng
cắn răng bẻ một chữ đồng làm hai

[1929-1954]

[1929-1954]

thẹn mình đá nát vàng phai
trăm thân dễ chuộc một lời được sao?
nàng rằng: “chiếc bách sóng đào
nổi chìm cũng mặc lúc nào rủi may
chút thân quằn quại vũng lầy
sống thừa còn tưởng đến rày nữa sao?
cũng liều một giọt mưa rào
mà cho thiên hạ trông vào cũng hay
xót vì cầm đã bén dây
chẳng trăm năm cũng một ngày duyên ta
liệu bài mở cửa cho ra
ấy là tình nặng, ấy là ân sâu”
Sinh rằng: “riêng tưởng bấy lâu
lòng người nham hiểm biết đâu mà lường
nữa khi dông tố phũ phàng
thiệt riêng đấy, cũng càng cực đây
liệu mà xa chạy cao bay
ái ân ta có ngẩn này mà thôi
bây giờ kẻ ngược người xuôi
biết bao giờ lại nối lời nước non?
dẫu rằng sông cạn đá mòn
con tằm đến thác vẫn còn vương tơ”
cùng nhau kể lể sau xưa
nói rồi lại nói, lời chưa hết lời
mặt trông tay chẳng nỡ rời
hoa tì đã động tiếng người nẻo xa
nhận ngừng nuốt tủi đứng ra
tiểu thư đâu đã rẽ hoa bước vào.

[1955-1982]

[1955-1982]
[1983-2010]

cười cười nói nói ngọt ngào
hỏi: “chàng mới ở chốn nào lại chơi?”
dối quanh Sinh mới liệu lời:
“tìm hoa quá bước, xem người viết kinh”
khen rằng: “bút pháp đã tinh
so vào với thiếp Lan đình nào thua
tiếc thay lưu lạc giang hồ
nghìn vàng thực cũng nên mua lấy tài”
thiền trà cạn nước hồng mai
thong dong nối gót thư trai cùng về
nàng càng e lệ ủ ê
rỉ tai hỏi lại hoa tì trước sau
hoa rằng: “bà đến đã lâu
dón chân đứng núp độ đâu nửa giờ
rành rành kẽ tóc chân tơ
mấy lời nghe hết, đã dư tỏ tường
bao nhiêu đoạn khổ tình thương
nỗi ông vật vã, nỗi nàng thở than
ngăn tôi đứng lại một bên
chán tai rồi mới bước lên trên lầu
nghe thôi, kinh hãi xiết đâu:
“đàn bà thế ấy, thấy âu một người
ấy mới gan ấy mới tài
nghĩ càng thêm nỗi sởn gai rụng rời
người đâu sâu sắc nước đời
mà chàng Thúc phải ra người bó tay
thực tang, bắt được dường này
máu ghen ai cũng chau mày nghiến răng.

[1983-2010]

thế mà im chẳng đãi đằng
chào mời vui vẻ, nói năng dịu dàng
giận dầu ra dạ thế thường
cười dầu mới thực khôn lường hiểm sâu
thân ta, ta phải lo âu
miệng hùm, nọc rắn ở đâu chốn này
ví chăng chắp cánh cao bay
rào cây lâu cũng có ngày bẻ hoa
phận bèo bao quản nước sa
lênh đênh đâu nữa cũng là lênh đênh
chỉn e quê khách một mình
tay không chưa dễ tìm vành ấm no”
nghĩ đi, nghĩ lại quanh co
phật tiền sẵn có mọi đồ kim ngân
bên mình giắt để hộ thân
lần nghe canh đã , một phần trống ba
cất mình qua ngọn tường hoa
lần đường theo bóng trăng tà về tây.

[2011-2028]

[2011-2028]

Kiều met/gặp Từ Hải [2029-2288]


Nguyến Du [1766-1820] courtesy name Tố Như and art name Thanh Hiên, is a celebrated Vietnamese poet and musician. He is most known for writing the epic poem The Tale of Kiều.

Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.

Nguyễn Thị Phương Trâm's avatar

By Nguyễn Thị Phương Trâm

There's magic in translating a body of work from one language to another.

Leave a comment