A tale by Nguyễn Du
An adaptation by Nguyễn Thị Phương Trâm
Kiều mắc lừa Sở Khanh [1057-1274]
Khách du bỗng có một người,
Kỳ Tâm họ Thúc, cũng nòi thư hương.
Vốn người huyện Tích châu Thường,
Theo nghiêm đường mở ngôi hàng Lâm Truy.
Hoa khôi mộ tiếng Kiều nhi,
Thiếp hồng tìm đến hương khuê gửi vào.
Trướng tô giáp mặt hoa đào,
Vẻ nào chẳng mặn, nét nào chẳng ưa?
Hải đường mơn mởn cành tơ,
Ngày xuân càng gió, càng mưa càng nồng.
Nguyệt hoa, hoa nguyệt não nùng,
Đêm xuân ai dễ cầm lòng được chăng?
Lạ gì thanh khí lẽ hằng,
Một dây một buộc ai giằng cho ra?
Sớm đào tối mận lân la,
Trước còn trăng gió, sau ra đá vàng.
Dịp đâu may mắn lạ dường,
Lại vừa gặp khoảng xuân đường lại quê.
Sinh càng một tỉnh, mười mê,
Ngày xuân lắm lúc đi về với xuân.
Khi gió gác, khi trăng sân.
Bầu tiên chuốc rượu, câu thần nối thơ.
Khi hương sớm, lúc trà trưa,
Bàn vây điểm nước, đường tơ hoạ đàn.
Miệt mài trong cuộc truy hoan,
Càng quen thuộc nết, càng dan díu tình.
Lạ cho cái sóng khuynh thành,
Làm cho đổ quán siêu đình như chơi
[1275-1302]
[1275-1302]
Thúc sinh quen thói bốc rời,
Trăm nghìn đổ một trận cười như không
Mụ càng tô lục chuốt hồng,
Máu tham hễ thấy hơi đồng thì mê.
Dưới trăng quyên đã gọi hè
Đầu tường lửa lựu lập loè đâm bông
Buồng the phải buổi thong dong,
Thang lan rủ bức trướng hồng tẩm hoa.
Rõ ràng trong ngọc trắng ngà,
Dày dày sẵn đúc một toà thiên nhiên.
Sinh càng tỏ nét càng khen,
Ngụ tình tay thảo một thiên luật Đường.
Nàng rằng: “Vâng biết lòng chàng,
Lời lời châu ngọc, hàng hàng gấm thêu.
Hay hèn lẽ cũng nối điêu,
Nỗi quê nghĩ một hai điều ngang ngang.
Lòng còn gửi áng mây vàng,
Họa vần xin hãy chịu chàng hôm nay”.
[1303-1320]
Thúc Sinh was a big spender
Money, he spends like water
And Kiều’s madame’s words became sweeter
At the smell of money and that was all that mattered.
Echoed by the moonlight was the call of the quail for summer
Flickering flames pomegranate flowers
They took her time in their private chambers
Scented with orchid was the hot bath water
Bare and naked her skin shimmered
The fair colour of pearls
Thúc Sinh inspired by the sight retort a poem
In the house of Đường was the perfected form
Kiều: “Your words I know, come from the heart
Gems, exquisite silk, embroidered smart
But I have no words to impart
The person you say I am is no longer here
Left behind she was in a place not so near
Where the clouds were warm, a place I called home
Hence for the moment, pardon me”.
[1303-1320]
Rằng: “Sao nói lạ lùng thay!
Cành kia phải cội này mà ra?”
Nàng càng ủ dột thu ba,
Đoạn trường lúc ấy nghĩ mà buồn tênh.
Thiếp như hoa đã lìa cành,
Chàng như con bướm liệng vành mà chơi.
Chúa xuân đành đã có nơi,
Ngắn ngày thôi chớ dài lời làm chi!”
Sinh rằng: “Từ thuở tương tri,
Tấm riêng, riêng những nặng vì nước non.
Trăm năm tính cuộc vuông tròn,
Phải dò cho đến ngọn nguồn lạch sông”.
Nàng rằng “Muôn đội ơn lòng,
Chút e bên thú, bên tòng dễ đâu.
Bình khang nấn ná bấy lâu,
Yêu hoa, yêu được một màu điểm trang.
Rồi ra lạt phấn phai hương,
Lòng kia giữ được thường thường mãi chăng?
Vả trong thềm quế cung trăng,
Chủ trương đành đã chị Hằng ở trong.
Bấy lâu khăng khít dải đồng,
Thêm người, người cũng chia lòng riêng tây.
Vẻ chi chút phận bèo mây,
Làm cho bể ái khi đầy khi vơi.
Trăm điều ngang ngửa vì tôi,
Thân sau ai chịu tội trời ấy cho?
Như chàng có vững tay co,
Mười phần cũng đắp điếm cho một vài.
[1321-1348]
[1321-1348]
Thế trong dù lớn hơn ngoài,
Trước hàm sư tử gửi người đằng la.
Cúi đầu luồn xuống mái nhà,
Giấm chua lại tội bằng ba lửa nồng!
Ở trên còn có nhà thung,
Lượng trên trông xuống biết lòng có thương?
Sá chi liễu ngõ hoa tường,
Lầu xanh lại bỏ ra phường lầu xanh!
Lại càng dơ dáng dại hình,
Đành thân phận thiếp, ngại danh giá chàng.
Thương sao cho vẹn thì thương,
Tính sao cho trọn mọi đường thì vâng”.
Sinh rằng: “Hay nói đè chừng,
Lòng đây lòng đấy chưa từng hay sao?
Đường xa chớ ngại Ngô Lào,
Trăm điều hãy cứ trông vào một ta.
Đá vàng đã quyết, phong ba cũng liều!”
Cùng nhau căn đặn đến điều,
Chỉ non thề bể nặng gieo đến lời.
[1349-1368]
[1349-1368]
Nỉ non đêm ngắn tình dài,
Ngoài hiên thỏ đã non đoài ngậm gương.
Mượn điều trúc viện thừa lương,
Rước về hãy tạm giấu nàng một nơi.
Chiến hòa sắp sẵn hai bài,
Cậy tay thầy thợ, mượn người dò la.
Bắn tin đến mụ Tú bà,
Thua cơ, mụ cũng cầu hòa, dám sao!
Rõ ràng của dẫn tay trao,
Hoàn lương một thiếp thân vào cửa công.
Công tư đôi lẽ đều xong,
Gót tiên phút đã thoát vòng trần ai.
Một nhà sum họp trúc mai,
Càng sâu nghĩa bể, càng dài tình sông.
Hương càng đượm, lửa càng nồng,
Càng sôi vẻ ngọc, càng lồng màu sen.
Nửa năm hơi tiếng vừa quen,
Sân ngô cành biếc đã chen lá vàng.
Giậu thu vừa nảy giò sương,
Gối yên đã thấy xuân đường đến nơi.
Phong lôi nổi trận bời bời
Nặng lòng ăm ắp, tính bài phân chia.
[1369-1390]
[1369-1390]
Quyết ngay biện bạch một bề,
Dạy cho má phấn lại về lầu xanh!
Thấy lời nghiêm huấn rành rành,
Đánh liều, sinh mới lấy tình nài kêu.
Rằng: “Con biết tội đã nhiều,
Dẫu rằng sấm sét búa rìu cũng cam.
Trót vì tay đã nhúng chàm,
Dại rồi con biết khôn làm sao đây!
Cùng nhau vả tiếng một ngày,
Ôm cầm ai nỡ dứt dây cho đành.
Lượng trên quyết chẳng thương tình,
Bạc đen thôi có tiếc mình làm chi!
Thấy lời sắt đá tri tri,
Sốt gan ông mới cáo quì cửa công.
Đất bằng nổi sóng đùng đùng,
Phủ đường sai lá phiếu hồng thôi tra.
Cùng nhau theo gót sai nha,
Song song vào trước sân hoa lạy quì.
Trông lên mặt sắt đen sì,
Lập nghiêm trước đã ra uy nặng lời:
“Gã kia dại nết trơi bời,
Mà con người thế là người đong đưa!
Tuồng chi hoa thải hương thừa,
Mượn màu son phấn đánh lừa con đen!
Suy trong tình trạng nguyên đơn,
Bề nào thì cũng chưa yên bề nào.
[1391-1416]
[1391-1416]
Phép công chiếu án luận vào,
Có hai đường ấy muốn sao mặc mình:
“Một là cứ phép gia hình,
Một là lại cứ lầu xanh phó về!”
Nàng rằng: Đã quyết một bề,
Nhện này vương lấy tơ kia mấy lần!
Đục trong thân cũng là thân,
Yếu thơ vâng chịu trước sân lôi đình”.
Dạy rằng: “Cứ phép gia hình!”
Ba cây chập lại một cành mẫu đơn.
Phận đành chi dám kêu oan,
Đào hoen quẹn má, liễu tan tác mày.
Một sân lầm cát đã đầy,
Gương lờ nước thủy, mai gầy vóc sương.
Nghĩ tình chàng Thúc mà thương,
Nẻo xa trông thấy lòng càng xót xa.
Khóc rằng: “Oan khốc vì ta,
Có nghe lời trước, chẳng đà lụy sau.
Cạn lòng chẳng biết nghĩ sâu,
Để ai trăng tủi hoa sầu vì ai?”
Phủ đường nghe thoảng vào tai,
Động lòng lại gạn đến lời riêng tây.
Sụt sùi, chàng mới thưa ngay,
Đầu đuôi kể lại sự ngày cầu thân.
“Nàng đà tính hết xa gần,
Từ xưa nàng đã biết thân có rày!
Tạ tôi hứng lấy một tay,
Để nàng cho đến nỗi này vì tôi”.
Nghe lời nói cũng thương lời,
Dẹp uy mới dạy cho bài giải vi.
[1417-1446]
[1417-1446]
Rằng: “Như hẳn có thế thì,
Trăng hoa, song cũng thị phi biết điều!
Sinh rằng: “Chút phận bọt bèo,
Theo đòi vả cũng ít nhiều bút nghiên”.
Cười rằng: “Đã thế thì nên!
Mộc già hãy thử một thiên trình nghề”.
Nàng vâng cất bút tay đề,
Tiên hoa trình trước án phê, xem tường.
Khen rằng: “Giá đáng Thịnh Đường,
Tài này sắc ấy nghìn vàng chưa cân!
Thực là tài tử giai nhân,
Châu Trần, còn có Châu Trần nào hơn!
Thôi đừng rước dữ, cưu hờn,
Làm chi lỡ nhịp cho đờn ngang cung.
Đã đưa đến trước cửa công,
Ngoài thì là lý, song trong là tình,
Dâu con trong đạo gia đình,
Thôi thì dẹp nỗi bất bình là xong!”
Kíp truyền sắm sửa lễ công,
Kiệu hoa cất gió, đuốc hồng ruổi sao.
Bày hàng cổ xúy xôn sao.
Song song đưa tới trướng đào sánh đôi.
Thương vì hạnh, trọng vì tài,
Thúc ông thôi cũng dẹp lời phong ba.
Huệ lan sực nức một nhà,
Từng cay đắng lại mặn mà hơn xưa.
[1447-1472]
[1447-1472]
Kiều & Hoạn Thư [1473-1704]
Nguyến Du [1766-1820] courtesy name Tố Như and art name Thanh Hiên, is a celebrated Vietnamese poet and musician. He is most known for writing the epic poem The Tale of Kiều.
Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.