Sydney, Australia March 3, 2025
Dỗi hờn, từ tự ái cá nhân đến phẩm giá quốc gia
Đọc Thượng Đế thì cười của Nguyễn Khải, cuốn hồi ký như một thiên tùy bút với những hờn dỗi cá nhân khi từng phận đời bị cuốn vào vòng xoáy của thế thời, tôi chợt nghiệm ra những hệ lụy lớn lao liên quan đến cái tính khí thường tình này của con người.
Bắt đầu từ cái dỗi của những nạn nhân trong vụ án Nhân Văn khi được Hội Nhà văn mời hồi tịch vào năm 1987. Bị khai trừ và cấm xuất bản ba năm, tính từ năm 1958, thế mà mất ngót nghét ba mươi năm vật vờ bên lề xã hội, sau khi biến động chính trị glasnost và perestroika từ Moscow lan tới Hà Nội, câu chuyện oan khuất của họ mới được lật lại và, lúc này, họ đâm… dỗi. Vào lại Hội để làm gì? Hội có bảo vệ được chúng tôi khi hoạn nạn? Nhưng dỗi thì dỗi, làm người, họ khó mà thoát khỏi những ràng buộc của việc sống nên cuối cùng cũng thỏa hiệp để rồi, sau đó, lại lai rai những cái dỗi lặt vặt mà, nhìn kỹ, cũng sự cuộn quay của cái vòng xoáy thế thời. [1]
Như Trần Dần, khi ốm. Được Hội cho xe hơi đến tận nhà đưa đi khám bệnh, nhà thơ … lại dỗi, đòi đi xích lô, bảo chỉ “thích đi xe của dân chứ không thích đi xe của quan”. Nhưng khi đại diện của Hội, Nguyễn Khải, mang cuộc sống của vợ con đặt trên bàn cân, “Anh không thích nhưng vợ con anh thích. Ông Trần Dần đi khám bệnh bằng xe hơi thì của Hội thì người hàng phố sẽ nhìn gia đình anh bằng con mắt khác, nói năng với vợ con anh cũng bằng con mắt khác”, nhà thơ của chúng ta lại xiêu lòng. [2]
Chớ vội bảo đó là chuyện vặt bởi vẫn còn có những ý nghĩa xã hội và… vòng xoáy thế thời. Người ta dỗi là do nghĩ rằng mình, hay vợ con mình, không được tôn trọng. Cơn dỗi kia có xiêu đi là do cái “cận ảnh” về gia đình mình được sống ngửng đầu, không phải dè dặt cúi xuống dưới những ánh mắt xỉa xói hay e dè, không dám giây vào, như mấy chục năm qua. Nhưng “thế thời” phải thế nào thì con người mới ăn ở với nhau như thế, vừa hèn mạt với mình vừa tệ mạt với người không may, phải sống lủi thủi một bên lề? Và đó, có lẽ, cũng là lý do để Nguyễn Tuân, sau những lần “cúi đầu” trong các cuộc kiểm điểm ở cơ quan, lại tìm đến bạn bè để… dỗi: “Thế này thì mình xin ra khỏi đảng”? [3] Dỗi đảng sao không tìm đến đảng, lại lủi thủi dỗi suông bên lề, ở chỗ bạn bè thân tình? Đây, có lẽ, chỉ là cách để xả bớt những ẩn ức và nhà văn, như một người “biết sợ để sống”, cũng biết “cúi đầu” trong những cuộc họp kín của chi bộ để, trong cuộc sống mở với xã hội, có thể tồn tại với cái cổ được ngửng thẳng lên.
Nguyên Hồng thì khác. Bị kiểm điểm tơi bời như là Tổng biên tập tạp chí Văn, vốn bị cáo buộc là “Nhân Văn ngóc đầu dậy”, nhà văn cương quyết không nhận sai, không chịu kiểm điểm. Kiên nhẫn giải bày mà chẳng lọt được tai ai thì… dỗi, “Ông đéo chơi với chúng mày nữa”. Nguyên Hồng bỏ biên chế, bỏ hộ khẩu thành phố, đưa mẹ già cùng vợ và đàn con nheo nhóc trở lại vùng núi, nơi từng cư ngụ thời chống Pháp sống một cuộc đời gian nan, khổ sở. Sống khổ đến độ, khi qua đời, “nhà chỉ còn năm bơ gạo, một con gà nhỏ, trong túi còn đúng 20 đồng”, cả cỗ quan tài cũng phải vay của hàng xóm. [4]
Nếu đó là cái dỗi của cá nhân với thiết chế thì, giữa cá nhân với cá nhân, cái dỗi vẫn bị cuộn xoat trong vòng xoáy thế thời như khi Nguyễn Trọng Oánh gặp lại Nguyễn Khải. Từng là bạn bè thân thiết thuở đầu xanh, mới về tạp chí Văn nghệ Quân đội vào cuối thập niên 1950, chia tay năm 1966, người ở lại thủ đô, người tan loãng trong chiến trường Nam bộ và đến tháng Năm năm 1975 mới gặp lại tại Sài Gòn vậy mà chẳng có cái bừng bừng của niềm vui hội ngộ, chỉ là sự ghẻ lạnh với “ánh mắt cứ nhìn chéo đi như ghét lắm, giận lắm”. [5]
Trong cái nhìn của Nguyễn Khải thì đây là cái dỗi của kẻ bị đày ải chiến trường mấy mươi năm, lăn lộn với bao điều phải chống đỡ nên chỉ có thể làm một “người viết nghiệp dư” so với người hậu phương, không cần ra chiến trường mà có thể viết về chiến tranh như thật, thậm chí hay hơn. Nhưng, theo những gì mà Nguyên Ngọc kể lại trong Đồng Bằng, thì đó còn có thể là sự cay đắng của người trả giá với kẻ hưởng lợi trên sự thua thiệt của mình. Bệnh nặng giữa chiến trường gian khổ, khoảng năm 1970-71 Nguyễn Trọng Oánh được cấp trên cho về thủ đô chữa bệnh nhưng chỉ biết chờ, chờ và chờ, chờ mãi cho đến khi hết… chiến tranh bởi những đồng đội ở hậu phương như Nguyễn Khải luôn thoái thác, vịn cớ này cớ kia để bám chặt hậu phương, không chịu thay thế người anh em đang kiệt sức nơi đầu sóng ngọn gió. Năm năm chờ đợi với bệnh tật trong gian khổ, thiếu thốn thì sức đã cạn kiệt và, chút tình nghĩa ban đầu, nếu có, cũng khó mà nguyên vẹn. [6]
Cái dỗi đó, xa hơn, còn dẫn đến những đấu đá quyền lực phe phái gay gắt, tiền tuyến và hậu phương; cái giềng mối xung đột mà, ngay từ đầu, nhà lãnh đạo tối cao Lê Duẫn đã lo xa, khi cố nhấn mạnh với giới lãnh đạo miền Nam rằng chiến công là chung “của cả nước”. [7] Mà cả ông, người ở hậu phương, cũng có cái dỗi của mình, như khi không chịu ngồi vào bàn tiệc mà các cán bộ phụ nữ tại Sài Gòn bày sẵn. Huy Đức, trong Bên Thắng Cuộc, kể:
‘Sáng mùng Một Tết Bính Thìn (1976) bà Nguyễn Thị Thập bên Hội Phụ nữ mời tiệc, ông Lê Duẩn tới, mâm cỗ đã “bày la liệt” nhưng ông không ngồi vào bàn. Khi các nữ lãnh đạo hội mời, ông nói: “Ăn Tết làm gì, con cái miền Bắc chết ở Trường Sơn chưa ai nói tới đã nói là dân miền Bắc vào đây vơ vét hàng hóa”. Theo ông Đậu Ngọc Xuân thì trước đó khi nghe bên công an báo cáo “miền Bắc vào đây vơ vét từ cái quạt máy, xe đạp”, ông Lê Duẩn tức lắm nhưng ngay khi đó ông không nói gì.
Bà Bảy Huệ, phu nhân của ông Nguyễn Văn Linh, đỡ lời: “Thưa anh Ba, đấy chỉ là số ít. Chúng em không bao giờ nói thế”. Ông Lê Duẩn tiếp: “Các chị không nói nhưng nghe ai nói phải vả vào mặt họ chứ. Có những việc ở trong này tôi đã phải giấu đồng bào miền Bắc, ví dụ như chuyện các chị để cho bộ đội chết đói ở Trường Sơn. Xương máu con người ta, người ta không tiếc, giờ mua cái quạt thì các chị kêu ca”. Theo ông Đậu Ngọc Xuân, nghe ông Lê Duẩn nói đến đó, “các chị Nam Bộ khóc như mưa”.’ [8]
“Vả vào mặt”, vậy thì đâu là chỗ đứng của “pháp chế xã hội chủ nghĩa”? Khó mà tin rằng những lời đôi co như thế này lại bật ra từ miệng một nhà lãnh đạo, bật cả với những phụ nữ nên, ở đây, ông Duẫn đã “tức” một cách rất… bình thường:
‘Trước năm 1975, nhiều cán bộ miền Nam ra thăm miền Bắc đã hết sức ngỡ ngàng khi nhìn thấy cảnh nghèo nàn của “hậu phương lớn”. Một lần, Ban Thống nhất thấy tâm trạng của các đại biểu miền Nam không vui, lãnh đạo ban nói với ông Đậu Ngọc Xuân, thư ký của “anh Ba” Lê Duẩn: “Các đồng chí ấy nói không tốt về miền Bắc, anh về nói anh Ba nên gặp họ”.
Theo ông Đậu Ngọc Xuân: “Tôi về nói: ‘Có đoàn ra thăm’. Anh Ba gật đầu: ‘Tốt’. Tôi thưa: ‘Kết quả ngược lại, các đồng chí bên Ban Thống nhất nhờ anh gặp làm công tác tư tưởng trước khi họ về’. Anh Ba cho mời họ tới, đoàn gồm hai phụ nữ và ba nam. Anh Ba hỏi: “Các đồng chí ra thăm miền Bắc thấy gì?”. Họ thật lòng nói, đi thăm chợ Đồng Xuân mà không thấy hàng hóa gì cả, miền Bắc nghèo quá. Anh Ba nói: “Các đồng chí không hiểu. Cái giàu có, cái vĩ đại của Miền Bắc là ở chỗ gia đình nào cũng có bàn thờ, con họ vào Nam là đi vào chỗ chết, thế mà họ vẫn đi, trong khi ở lại thì được đi Liên Xô, Trung Quốc.”’ [9]
Không cần viện đến tâm lý học, chỉ theo nghĩa lý thông thường thôi, có thể thấy ngay rằng đó là căn cớ cho cái sự “tức lắm” của ông ta. Miền Bắc do ông lãnh đạo “nghèo quá”. Người miền Bắc, trong ghi nhận của Công an Sài Gòn năm 1976, có vào Nam thì, chủ yếu, là để “vơ vét”. Đề cập đến điều này là chạm đến điểm nhạy cảm nhất của ông, như là mặc cảm về sự bất tài. Ông “tức” nhưng chỉ biết im lặng bởi đó là sự thật, rành rành. Nhưng càng im lặng thì cảm xúc càng dồn nén và, trước cái mâm cỗ “la liệt” như gián tiếp nói lên sự phồn thịnh của miền Nam lúc ấy, nó có bục ra thành cơn dỗi, khiến ông chịu ngồi vào bàn tiệc cũng là điều dễ hiểu.
Nhưng có dỗi thì, bất quá, ông chỉ khiến những phụ nữ Nam Bộ “khóc như mưa”, cũng chẳng chết ai. Đáng nói là những cái dỗi cực kỳ nguy hiểm, có thể nướng sạch cả một sư đoàn, chưa kể những dân lành bị vạ lây bởi tên bay, đạn lạc.
Đó là Đà Nẵng trong cuộc “Tổng tấn công và nổi dậy” Tết Mậu Thân mà, trận mở màn vào đêm trừ tịch, đã bị thảm bại khi một tiểu đoàn tinh nhuệ của tỉnh Quảng Đà, gom lại, chỉ hơn hơn một trung đội. Nhưng Chính ủy Mặt Trận, ông Trương Chí Cương — bí danh Tư Thuận, Phó Bí thư Khu ủy Khu 5, Ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng – chỉ nhìn vấn đề qua lăng kính chính trị. Thời cơ lịch sử đã đến, phải nắm lấy ngay. Sài Gòn và Huế đã vùng lên, Đà Nẵng phải chia lửa và đơn vị chủ công, Sư đoàn 2, phải đánh thẳng vào mặt quân thù. Nhưng chỉ huy sư đoàn, ông Giáp Văn Cương, sau là Tư lệnh Hải quân, lại nhìn bằng con mắt quân sự. Đã mồng Năm Tết rồi, yếu tố bất ngờ không còn nữa. Đà Nẵng lại có lực lượng phòng thủ hải lục rất mạnh, đánh thẳng vào đó là tự sát. Nhưng một sư đoàn trưởng sao có thể cãi lệnh một “trung ương dự khuyết ủy viên” nên, ở đây, ông chỉ có thể… dỗi: nếu bị buộc phải đánh thì, được thôi, sẽ chơi luôn, chơi láng, chơi tới “người lính cuối cùng.”
Người ta dỗi là do tự ái và, ở đây, theo nhân chứng Nguyên Ngọc, thuộc tổ phái viên quân khu có nhiệm vụ theo dõi chiến trường và liên lạc: “Tự ái của hai người có thể giết sạch cả một sư đoàn.” Thảm họa không diễn ra nhờ vào sự dũng cảm và sáng suốt của một thuộc cấp rất bé, tổ trưởng phái viên với sự hậu thuẫn của toàn tổ, dám đối mặt với án tử hình tại mặt trận khi thủ tiêu lệnh “dứt khoát phải đánh ngay” của nhà chỉ huy chính trị. [10]
Mâu thuẫn nảy sinh là do sự khác nhau trong cách vận hành cuộc chiến và, đến đây, tôi lại nghĩ đến sự ra đi có thể vì lý do tương tự của ông Nguyễn Chí Thanh. Sự ra đi này, vào năm 1967, đã mở ra một chương đời bi thảm cho người vợ, bà Nguyễn Thị Cúc. [11] Từ khi chồng mất cho đến cuối đời góa phụ này không bao giờ nở được một nụ cười. Ngày 30/4/1975, theo người con trai, bà “ngồi ở một góc tối trong bếp, lặng lẽ khóc một mình” và phản ứng này, trong hoàn cảnh ấy, là chuyện thường tình. Nhưng đáng nói là phản ứng sau đó khi ông Văn Tiến Dũng mời cả nhà vào Sài Gòn dự lễ mừng chiến thắng vào ngày 15/5/1975 nhưng bà dỗi. Bà không chịu đi, chỉ để ba đứa con nhỏ mở mang tầm mắt và cái dỗi của cá nhân này, hẳn nhiên, chất chứa sức đè của những giềng mối chính trị phức tạp với tầm vóc quốc gia.
Tướng Thanh, trong lời lẽ của bà, là người “chưa hề bị bệnh tim” nhưng đã chết “tức tối” vì “lên cơn đau tim”, giữa những phân hóa nội bộ. Đầu tiên là sự phân hóa Xô -Trung mà phần thắng nghiêng về phái khuynh Trung chủ chiến, trong đó có ông Thanh. Nhưng đến lượt mình thì phái chủ chiến cũng phân hóa bởi cách thực hiện cuộc chiến; hoặc là “tổng công kích – tổng nổi dậy” tại các thành phố lớn theo chiến lược của Lê Duẫn; hoặc chỉ chờ thời, né tránh những thành phố có hệ thống phòng thủ kiên cố, chỉ công kích những vị trí lỏng lẻo như Tây Nguyên, theo Võ Nguyên Giáp? [12]
Là người trực tiếp điều hành cuộc chiến ở miền Nam nhưng ngả về đường lối quân sự của Võ Nguyên Giáp, ông Thanh, người chưa hề đau tim, đã bất ngờ “lên cơn đau tim” ngay trước khi trở lại miền Nam và, thế là, chỉ năm tháng sau đó, “học thuyết quân sự” của Lê Duẫn biến thành hiện thực với cuộc “tổng tiến công và nổi dậy” nói trên. Không biết bà vợ góa của ông Thanh có nhìn ra cơn cớ này hay không nhưng, rõ ràng, bà tin chắc rằng chồng mình đã chết một cách “tức tối” và “vô lý”.
Người được góa phụ này tỏ bày gan ruột là Giáo sư Nguyễn Thị Ngọc Toản, lúc ấy là Bác sĩ tại Quân y viện 108, là người được chính ông Thanh “giác ngộ” khi còn trẻ, lại là người tham gia chữa trị, chứng kiến cảnh ông Thanh trút hơi thở cuối cùng và cũng người ngờ vực “chưa nghe anh bị tim mạch bao giờ”. [13]
Lần theo dấu chân nhân chứng đặc biệt này sẽ khám phá những cái dỗi tương tự, khi từng cá nhân phải lặn hụp trong vòng xoáy đầy bất trắc của thiết chế . Bà là vợ tướng Cao Văn Khánh, người mà, bất kể những chiến công lẫy lừng, lẹt đẹt mãi với lon đại tá từ năm 1947 đến năm 1971 vì thành phần gia đình và, sau đó dẫu có lên tướng, vẫn luôn là cấp phó mà, thậm chí, còn phải sống e dè vì bị đưa vào “danh sách đen” trong cuộc phân hóa Xô – Trung. [14] Những oan trái như thế, phải chăng, là lý do để bà dỗi, từ chối mộ phần “tiêu chuẩn” mà thiết chế dành cho chồng, tại Nghĩa trang Mai Dịch? [15]
Và cả người con trai, một sĩ quan không quân tốt nghiệp ở Liên Xô nhưng từ bỏ tương lai hứa hẹn “xin ra khỏi quân đội làm một công dân bình thường, làm những gì mình tin tưởng và tôn trọng”. Sĩ quan này đã dỗi như thế sau khi tướng Lê Trọng Tấn, được anh xem như là người cha thứ hai, qua đời một cách tức tưởi vào cuối năm 1986 giữa lúc sắp sửa thay ông Văn Tiến Dũng ở vị trí Bộ trưởng Quốc phòng. [16] Có dỗi thì người con này, qua chính lời anh ta, đã dỗi vì niềm tin của mình đã bị chà đạp, phản bội. Những cái dỗi như thế không hề là lối hành xử của trẻ con hay của những người già quá “hóa trẻ con” mà chúng ta thường cho là không nên. Dỗi, trong những trường hợp như thế, chính là biểu hiện của lòng tự trọng, của một niềm tin sắt đá. Dửng dưng, không biết dỗi trước những điều như thế, mới là điều không nên.
Và tôi, chợt, nghĩ ngay đến sự thản nhiên không nên có của những thực khách ăn mặc lịch lãm nhưng lại gằm mặt xuống sì sụp miếng ngon giữa trong tiếng mắng chửi xối xả của những hàng quán ‘bún mắng, cháo chửi”. [17]
Chuyện như thế, nếu chỉ nghe suông, thì thấy khó tin bởi làm sao con người có thể vì miếng ăn mà tự hạ thấp phẩm giá của mình đến thế? Khó tin nhưng lại rất thực trên một xứ sở có quá nhiều chuyện khó tin. Với quyền lực trong tay, kẻ có quyền thản nhiên thao túng sinh kế của người bất đồng với mình, dẫm đạp không thương tiếc cả gia đình họ được thì, với quyền lực từ một bí quyết nấu nướng nào đó, tại sao bọn này không thể cửa quyền, không thể dẫm lên nhân phẩm của kẻ đang cầu cạnh miếng ăn ngon?
Khó tin nhưng có thực, vấn đề càng đáng báo động khi nó được xem như một thứ “văn hóa đặc thù” bởi, nếu thế, điều đó đã trở thành là thói quen của tập thể, cộng đồng. [18] Như một cộng đồng, khi đã dưng dưng để cho người khác chà đạp phẩm giá của mình chỉ vì miếng ngon thôi thì, vì những lợi lộc cao hơn, cũng sẽ dễ dàng cho phép kẻ khác cướp đoạt phẩm giá của dân tộc mình.
Mà, từ chỗ dửng dưng trước cảnh phẩm giá của quốc gia bị chà đạp đến sự dửng dưng, vô cảm khi chủ quyền tổ quốc bị tước đoạt hay phát mại, chỉ là một chặng đường rất ngắn.
Tham khảo:
- Nguyễn Khải (2012) Thượng đế thì cười, NXB Trẻ, (trang 163-164)
- Nguyễn Khải, sđd, trang 164
- Tô Hoài (2013), Cát bụi chân ai, Hội nhà văn – Công ty sách Phương Nam, chương 7, trang trang 78
- https://www.vinadia.org/hoi-ky-nguyen-dang-manh/hoi-ky-nguyen-dang-manh-nguyen-hong/
- Nguyễn Khải, sđd, (173-174)
- https://vanviet.info/van/nguyen-trong-onh/
- Huy Đức (2012), Bên Thắng Cuộc I – Giải phóng, Osinbook, trang 252
Sau năm 1975, việc bố trí cán bộ tại miền Nam hình thành theo nguyên tắc bất thành văn “Nhất trụ, nhì khu, tam tù, tứ kết”. Ưu tiên một là cán bộ đã “bám trụ” tại chiến trường; thứ hai là cán bộ làm việc ở Trung ương cục (R) hay các khu ủy, tỉnh ủy; ba là cán bộ đã đi tù. Cán bộ tập kết là hạng bét.
- Huy Đức, sđd, trang 253
- Huy Đức, sđd, trang 252
- Tổ phái viên đồng ý với quan điểm của ông Giáp Văn Cương và ông Lê Viết Thanh, tổ trưởng, đã xé bỏ lệnh đánh, tuyên bố sẽ nhận trách nhiệm (có thể sẽ bị xử bắn), và cả tổ đồng ý sẽ nhận trách nhiệm tập thể. Thay vào đó, họ truyền lệnh miệng là chỉ dùng hai đại đội đánh thăm dò ven sông Hàn. Sau này ông Thanh đã thú nhận trong hội nghị tổng kết chiến dịch, tuyên bố sẵn sàng nhận mức kỷ luật cao nhất và vấn đề được bỏ qua.
- https://dantri.com.vn/xa-hoi/loi-hua-nuoi-nguyen-chi-vinh-nen-nguoi-cua-cac-uy-vien-bo-chinh-tri-20220426015734706.htm
- Cao Bảo Vân (2021), Tướng Cao Văn Khánh, NXB Tri thức, trang 467-468
- Cao Bảo Vân, sđd, trang 465
- Cao Bảo Vân, sđd, trang 465
- Cao Bảo Vân (sđd), trang 33
Lời bà Nguyễn Thị Cúc, ngay sau khi Nguyễn Chí Thanh chết: “Sao mà vô lý thế Toản ơi, anh có khi mô bị tim. Chiều nay là chuẩn bị đi vào B. răng lại chết tức tối thế.” - Cao Bảo Vân (sđd), trang 775.
- https://vnexpress.net/https-vnexpress-net-chap-nhan-nghe-chu-quan-chui-de-duoc-an-ngon-4447237-html-4447237.html
https://vietnamnet.vn/vn/kinh-doanh/thi-truong/bun-mang-chao-chui-tren-duong-pho-ha-noi-678489.html - https://spiderum.com/bai-dang/Bun-mang-chao-chui-net-van-hoa-doc-la-giua-long-thu-do-k3z
https://vanviet.info/van/doi-hon-tu-tu-ai-ca-nhan-den-pham-gia-quoc-gia/
Hai vụ, trên hai vùng đất và ở hai thời kỳ hoàn toàn khác nhau, cách xa hơn bốn thế kỷ, nhưng rất gần nhau ở thế cách xã hội đối xử với những nạn nhân mà, nói gọn, là “văn hóa hiếp dâm”: sau khi bị hãm hiếp về thể chất như một phụ nữ, nạn nhân còn tiếp tục bị hãm hiếp về mặt tinh thần như một công dân hay một thành viên của cộng đồng.
Gentileschi đã bị Agostino Tassi — một họa sĩ bề trên, bạn của bố và là thầy dạy vẽ của mình — hãm hiếp năm 17 tuổi mà không làm gì được bởi “văn hóa hiếp dâm” và sự bảo trợ chính trị nên, do đó, chỉ có thể trút hết căm hờn vào cây cọ để, giữa cái thời mà nữ giới bị cấm học hội hoạ, đã vươn lên thành một tên tuổi lớn vượt khỏi biên giới của nước Ý rồi, vượt qua thời gian để ngày nay được nhìn nhận như là nữ họa sĩ hàng đầu của thời kỳ Phục Hưng. [2]
Một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất của Gentileschi là “Judith chém đầu Holofernes”, thực hiện đến hai lần, dựa vào câu chuyện trong Cựu Ước. Nếu bộ kinh này, trên phương diện sử học, là “đại tự sự” đã giúp các bộ lạc Do Thái thống hợp thành Vương quốc Israel thì, khi tái tạo câu chuyện với ý đồ giải quyết oán thù bằng nghệ thuật, phải chăng Gentileschi đã mở đường cho “tự sự” của những nạn nhân hãm hiếp, với một mỹ học của bạo lực và đạo hạnh cho sự báo thù? [3]
Holofernes là viên tướng cầm đầu đoàn quân Assyria đang chuẩn bị làm cỏ thành Bethulia, quê hương của Judith, và góa phụ này đã trở thành một anh hùng khi vận dụng sắc đẹp và trí thông minh để cùng người hầu gái vào tận bản doanh kẻ thù cắt cổ kẻ thù. Sự tích này được nhiều họa sĩ Phục Hưng khai thác nhưng, trong khi toàn bộ những họa sĩ khác, đều là nam giới, kể lại câu chuyện bằng thì quá khứ với cái đầu của Holofernes đứt lìa khỏi cổ thì “ngữ pháp” trong tranh của Gentileschi lại là “hiện tại tiếp diễn”. Lúc này thì cái cổ của kẻ thù chỉ mới bị cắt có phân nửa và, trong bức thứ hai, máu đã phụt lên giữa lúc hai mắt trợn trừng, chưa chết hẳn.
Oán hờn từ vụ hãm hiếp đã được ký thác vào tác phẩm với nhân vật Holofernes mang khuôn mặt của kẻ hãm hiếp Agostino trong khi Judith lại giống hệt Gentileschi, thêm vào cái vòng đeo tay chạm hình nữ thần Artemis, gợi nhắc cái tên Artemisia Gentileschi. Sự dữ dội của cuộc báo thù còn bộc lộ trong sự tương phản ở khuôn mặt đau đớn và thất thần của Holofernes bên cái nhìn bình thản đến lạnh lùng pha lẫn sự khinh bỉ, nhờm tởm của Judith, lại còn chưng diện như dự vũ hội.
Trong khi bố cục hướng đến sự đau đớn của kẻ thù thì cách phối màu tô đậm sự bạo liệt và kịch tính. Chân Holofernes bên trái, cánh tay của người hầu gái và cánh tay của Holofernes ở giữa, hai cánh tay của Judith bên phải, làm thành sáu đường thẳng hướng về khuôn mặt đau đớn của Holofernes. Và tấm chăn đỏ sẫm, tay áo đỏ của người hầu gái, cùng viên đỏ trên tay áo Judith, tất cả tạo thành một vòng cung bao trùm trên những dòng máu phun lên theo hình vòng cung mà, nói theo Lê Anh Xuân, là “phun theo lửa đạn cầu vồng”.
Trong khi đó thì thanh gươm hóa kiếp Holofernes, trong tay Judith, được chĩa xuống như một cây Thánh Giá, biểu tượng của sự cứu chuộc và đạo hạnh. Nếu Thánh Giá luôn đi đôi với Kinh Thánh thì, ở đây, có ai mà không biết đến sự chứng nhận cho công lý báo thù: “Give life for life, eye for eye, tooth for tooth, hand for hand, foot for foot.”? [4] Nếu tác phẩm của thế kỷ 17 này thể hiện một “mỹ học của báo lực” và “đạo hạnh của sự báo thù” với tội phạm hiếp dâm thì, nhiều thế kỷ sau, chúng ta lại chứng kiến sự hình thành của nó như một thể loại riêng, trong văn học và đặc biệt là điện ảnh.
Đầu tiên là Tess of the D’Urbervilles của Thomas Hardy, tác phẩm kinh điển của văn học hiện thực Anh, xuất bản lần đầu năm 1891, phơi bày khúc chiết những bất công xã hội. [5] Tess Durbeyfield, một thôn nữ xinh đẹp, bị kết án treo cổ bởi đã giết chết Alec, một tên nhà giàu hãnh tiến và phóng đãng, đã hãm hiếp cô năm 16 tuổi rồi sử dụng quyền lực kinh tế để thao túng cô như một nô lệ tình dục. Sau nhiều biến chuyển éo le của cuộc đời, Tess đã dùng dao kết liễu kẻ đã làm tan nát đời mình nên bị thiết chế chính trị đáp trả bằng sợi dây thừng treo cổ.
Câu chuyện thảm khốc với “đạo hạnh của sự báo thù” này, dẫu “có hậu” trong cái nhìn của nhà cai trị, vẫn bị xã hội Anh phản ứng dữ dội, chưa thể chấp nhận nổi. Nhưng thế kỷ 20 thì khác và, đặc biệt, sau hai cuộc cách mạng — tình dục của thập niên 60 và nữ quyền của thập niên 70 — là sự bùng nổ của thể loại “trả thù hiếp dâm” trong điện ảnh mà, trong đó, gây tranh cãi nhất, có lẽ là I Spit on Your Grave, của đạo diễn Meir Zarchi, ra mắt năm 1978.
Jennifer Hills, một nhà văn, bị hãm hiếp tập thể và đã lần lượt trả thù, cực kỳ tàn khốc. Kẻ đầu tiên bị cô mồi chài, vờ vịt cho hắn làm tình rồi thừa cơ treo cổ. Tên thứ hai cũng bị dụ bằng bẫy tình: cô thủ dâm cho hắn và, đợi đến cao trào, khi hắn lim dim mơ màng chực lên mây, đã bị con dao bén đưa về thực tại, cơ quan sinh dục bị tùng xẻo đến nát bấy. Hai tên còn lại thì bị rửa hờn thù y như những phim hành động khác, đầy kịch tính trong bối cảnh sông nước. Phim này, do đó, gây nên nhiều tranh cãi và năm 2010, bị tạp chí The Time liệt vào danh sách “10 phim bạo lực lố bịch nhất” (Top 10 Ridiculously Violent Movies).
Như thế, xét về “mỹ học của bạo lực”, phim có thể non kém nhưng trên khía cạnh “đạo hạnh của sự báo thù” nó rất thành công nên mới sống dai, được nối dài với tập II vào năm 2013, tập III vào năm 2015 rồi, bốn năm sau, 2019, là I Spit on Your Grave: Déjà vu một phiên bản kế tục nguyên bản. Nếu “mỹ học của bạo lực” thuộc về tài năng của đạo diễn và diễn viên thì “đạo hạnh của sự báo thù” thuộc về sự chấp nhận của công chúng và đó là điều mà chúng ta có thể nhìn thấy ở hàng loạt tác phẩm, hạng A hay hạng B, trong hay ngoài Hollywood, với một đề tài. [6]
Nguyên thủy, I Spit on Your Grave mang tên Day of the woman và đây, có lẽ, cũng nên là tên của “Judith chém đầu Holofernes” bởi, chính trong tác phẩm thực hiện vào thế kỷ 17 này, chúng ta có thể nhìn ra những tín hiệu của chủ nghĩa nữ quyền.
Đó là vai trò của người hầu gái, rất khác với những nam họa sĩ ở cùng một đề tài. Thường thì người hầu gái vắng mặt và, nếu có, chỉ đóng vai rất phụ, bất quá chỉ là bê cái khay đặt thủ cấp Holofernes thế thôi. Nhưng với Gentileschi thì cô ta đã xắn tay áo hành động, ghì chặt, không cho kẻ thù vùng vẫy để Judith tóm tóc đè đầu mà cứa cổ.
Văn khố được bảo toàn trọn vẹn từ thế kỷ 17 cho thấy rằng khi bị hiếp Gentileschi đã cố sức kháng cự, dùng cả dao nhưng vẫn thua cuộc; rằng Gentileschi đã kêu cứu nhưng cô hầu gái vắng mặt mà, theo suy đoán, có thể đã bị Agostino mua chuộc. Vóc dáng võ biền của Holofernes lại hoàn toàn lấn át cho dù hai nhân vật nữ không hề nhỏ con và, phải chăng, thông điệp muốn phát ra, là sự bất cân xứng về thể chất giữa nữ giới và nam giới nên, do đó, muốn chiến thắng, nữ giới phải hợp lực, dứt khoát, và quyết đoán?
Nếu thế thì đây, nhất định, là sự khởi đầu của chủ nghĩa nữ quyền. Tác phẩm được thực hiện để trút bỏ sự căm hận của Gentileschi mà đỉnh cao là hơn bảy tháng xét xử đầy đau đớn, thể chất lẫn tinh thần. Theo pháp luật thời đó, Gentileschi đã bị nhục hình bằng sibille, công cụ siết ngón tay bằng nẹp gỗ và dây thừng, từng lời chất vấn của tòa “Đó có phải là sự thật?” là từng cú siết để nạn nhân bật lên tiếng gào đau đón mà năm thế kỷ sau trở thành tên của vở kịch, It’s True, It’s True, It’s True. [7]
Agostino không hề ra tòa như một nghi can hình sự bởi thời đó, ở Ý, hành vi này chưa bị xem là tội phạm và, nếu chấp nhận lấy nạn nhân làm vợ như đã hứa, sự việc sẽ ổn thỏa. Nhưng y đã nuốt lời, và y bị kiện ra tòa như một chuyện tranh chấp dân sự bởi làm ô uế danh tiếng gia đình Gentileschi, đã phá đời cô, khiến cô không thể lập gia đình. Trong khi Agostino rung đùi ở tòa như một bị đơn dân sự, nguyên đơn Gentileschi lại bị đối xử như là tội phạm khi bị nhục hình để bảo đảm rằng chỉ khai ra sự thật. Thậm chí, cả khi bị thua kiện, Agostino cũng chẳng hề hấn gì ngoài việc phải lánh mặt thành Rome một thời gian bởi được Giáo Hoàng Innocent X che chở. [8]
Nếu đó là “văn hóa hiếp dâm” ở Ý vào thế kỷ 17 thì, bây giờ, qua vụ “nhà thơ hiếp nhà thơ”, và qua cách ứng xử của Hội Nhà văn, xã hội chúng ta đã khá lên được bao nhiêu? Nhưng vấn đề không nên đóng khung trong câu chuyện này mà cần nhìn xa hơn như là “văn hóa hiếp dâm”.
Bắt đầu với một chuyện cười khá phổ biến về nữ nguyên đơn trong vụ án hãm hiếp nhưng trở thành trò cười trước tòa. Bị chất vấn rằng cô thấp thế mà bị đơn cao thế, làm sao hắn có thể hiếp cô bằng cách ép vào tường, cô giải thích là lúc đó có cô… nhón chân lên. Khi nghĩ ra, khi phổ biến hay, thậm chí, khi cười hô hố trước một một câu chuyện như thế, chúng ta vừa xúc phạm đến những nạn nhân thực sự, vừa xúc phạm đến nữ giới nói chung. Và khi chúng ta xem đó là bình thường, là chuyện vui thôi thì, nói theo thuật ngữ nữ quyền, chúng ta vẫn là tiếp tục bị kềm tỏa trong bóng tối của Phallocracy, nền “độc tài dương vật trị”.
Trong câu chuyện trên, cứ cho là thật, thì tên hiếp dâm đã hoàn toàn trắng tội bởi đã đánh thức bản năng nữ giới của nạn nhân. Nhưng rõ ràng là anh ta đã xâm phạm thân thể cô nên, trên phương diện pháp lý, đó là một tội phạm hình sự phải truy tố đến cùng, bất kể là nạn nhân muốn rút lui, bãi nại. Và nạn nhân, cho dù bản năng có bị đánh thức, đó đâu phải là tội lỗi? Mà dầu là tội, nó đâu thể nào cứu chuộc thủ phạm? Trong cái nhìn nữ quyền thì đây là sự mơ hồ về ranh giới giữa tội phạm và nạn nhân trong vấn đề hiếp dâm, vấn đề mà nhà phê bình Nguyễn Hưng Quốc đã phân tích khá tường tận trong tiểu luận “Chuyện hiếp dâm và vấn đề phái tính trong văn học Việt Nam”. [9]
Bắt đầu từ ca dao, với cảnh hiếp dâm:
Hôm qua em đi hái chè
Gặp thằng phải gió nó đè em ra
Em van mà nó chẳng tha
Nó đem nó đút đầu thằng cha nó vào
Nguyễn Hưng Quốc phân tích:
“Cô gái tức tối nhưng rõ ràng là cô không thù hận cái gã đàn ông đã hiếp dâm cô. Cô gọi nó là ‘thằng phải gió’; mà ‘phải gió’, theo Từ điển Tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên xuất bản tại Hà Nội năm 1992, là ‘tiếng dùng để rủa nhẹ nhàng’ còn theo Từ điển Tiếng Việt của Văn Tân, bản in năm 1994, thì việc rủa nhẹ nhàng ấy có khi chỉ ngụ ý đùa chơi mà thôi. Chửi kẻ đã hiếp dâm mình là ‘thằng phải gió’, do đó, là một cách… tha bổng nó. Chính vì ai cũng nhận ra điều đó cho nên ai cũng xem bài ca dao ấy là một bài ca dao hài hước. Có cái gì như nghịch lý: đọc một bài ca dao kể về chuyện hiếp dâm, tức một tội ác hay một bi kịch mà không ai phẫn nộ hay xót xa gì cả. Người ta chỉ cười. Cười hả hê.
Tiếng cười ấy không những làm trắng án kẻ hiếp dâm mà còn, oái oăm thay, đảo ngược hẳn công việc luận tội: kẻ bị chê trách không phải là tội phạm mà chính là nạn nhân. Dường như tất cả những thương tổn mà cô gái phải chịu đựng về phương diện tình cảm cũng như xã hội đều nhất loạt bị mọi người xem như không có chỉ vì một lý do duy nhất là xác thịt của cô không kềm chế được những xúc động trước sự đụng chạm dù một cách thô bạo của người khác phái. Dường như, dưới mắt người đời, những sự xúc động ấy còn đáng chê cười hơn cả việc làm tồi bại của gã đàn ông dâm đãng.”
Tác giả dẫn ra nhiều thí dụ khác, như Nam Cao đã xóa tội cho Chí Phèo bởi hắn đã khêu dậy những khoái lạc xác thịt cho Thị Nỡ; như Vũ Trọng Phụng, trong Giông Tố, xem cảnh Nghị Hách hiếp dâm Thị Mịch như thể là một cảnh thông dâm và, do đó, đã “làm mờ tính cách nạn nhân” người bị hãm hiếp:
“Mịch chợt nhớ đến lúc từ con gái mà trở nên đàn bà, trên chiếc xe hơi. Cái lúc ấy thật là gớm ghiếc, thật là bẩn thỉu, thật là đau đớn, nhưng trong cơn đau đớn không phải là không có một thứ khoái lạc trong xác thịt nó làm cho đỡ thấy đau..”
Những nạn nhân bị hãm hiếp như thế, chỉ được khai thác với ý nghĩa xã hội nhằm đả kích kẻ thống trị nên, ngoài bản năng ra, họ chỉ bị xem xét như một thành phần giai cấp hay một công dân chứ không phải là một con người và, đặc biệt, là một phụ nữ.
Nếu đó những nhân vật trong trang viết hay lời truyền khẩu của dân gian thì, bước ra đời sống, chúng ta có thể gặp những nhân vật bị “từ khước tư cách nạn nhân” như thế, ngay trong câu chuyện mới nhất về “nhà thơ hiếp nhà thơ” qua cách ứng xử của Hội Nhà văn. Mà, trong khi Hội tỏ ra thờ ơ hay bị động đối phó thì, giữa dư luận xã hội, như có thể thấy rõ trên truyền thông, đó đây vẫn thấp thoáng những cái nhìn hay cái cười khinh miệt, ra vẻ cao đạo, kiểu “Tại anh, tại ả, hay tại cả đôi bên?”.
Nếu đó là lề thói điển hình của những công dân thuần trị trong một nền “độc tài dương vật chế” thì cái Hội trên lại hành xử như những thư lại quan liêu của nền “dương vật trị”. Chính vì thế, sau khi bị hãm hiếp như một phụ nữ, nạn nhân đã bị Hội hiếp thêm lần nữa, trong tư thế một hội viên hay một công dân.
Điều này có vẻ như là một nghịch lý bởi, để hãm hiếp, dù là chỉ hãm hiếp về mặt tinh thần, ít nhất cũng phải có một dương vật ra dáng dương vật nhưng, xem cách họ giả mù và giả điếc để bao che, rồi rụt rè, giả câm giả điếc khi rút lại sự bao che ấy, có ai mà nghĩ được rằng những nhà quan liêu ấy có đầy đủ thứ này?
Nhưng gì chứ nghịch lý thì đất nước chúng ta rất thừa. Đại biểu tiền phong của giai cấp vô sản mà có thể hoang phí như những ông hoàng dầu lửa Ả Rập được, tại sao những nhà quan liêu thiếu dương vật không thể hiu hiu tự đắc hay cãi chày cãi cối cho cung cách dương vật trị của mình?
Chú thích & tài liệu tham khảo:
1.
https://www.bbc.com/…/20180824-the-artist-who-triumphed…
2.
https://www.theguardian.com/…/artemisia-gentileshi…
Thập niên 1970, với sự trỗi dậy của chủ nghĩa nữ quyền, nhiều nhà nữ quyền đã cố bác bỏ định kiến là trong lịch sử không có nữ danh họa nào và đã phát hiện Gentileschi. Từ đó trở đi, người ta mới tìm lại được các tác phẩm của cô. Và điều may mắn là biên bản tòa án được giữ hầu như nguyên vẹn, rõ đến từng lời khai. Các thư từ và biên nhận của sở thuế cũng khẳng định thêm sự thành công của Gentileschi như một họa sĩ.
3. Khi thời kỳ Baroque kết thúc, hai tác phẩm này bị cất vào kho vì nó quá sức tàn bạo, đến tận thế kỷ 20 mới được tìm ra. Hiện hai bức tranh này được trưng bày ỏ Naples và ở Florence. Xem chú thích số 2.
4. Exodus 21:23
5. Trước năm 1975, tác phẩm này đã được Nguyễn Đan Tâm dịch sang tiếng Việt là Người tình đầu tiên, người yêu cuối cùng.
6. Có thể liệt kê hàng loạt phim như: The Last House on the Left, Dogville, Irreversible, The Girl With the Dragon Tattoo, Once Upon A Time … In Hollywood, The Nightingale, Misbehavior..
7. Xem chú thích số 2.
8. Xem chú thích số 2.
9.
https://www.tienve.org/home/literature/viewLiterature.do…
Nguyễn Hoàng Văn, born in 1965, Vietnam. The writer, journalist and essayist currently resides in Western Sydney, Australia.