“Văn hóa hiếp dâm”: Mỹ học của bạo lực và đạo hạnh của sự báo thù | Nguyễn Hoàng Văn

Sydney Opera House, Australia. Photography by Nguyễn Thị Phương Trâm

Sydney, Australia January 19, 2025

“Đó là sự thật, đó là sự thật”, tiếng kêu gào trong vụ “nhà thơ hiếp nhà thơ” ở Việt Nam, cơ hồ, cũng là tên của vở kịch It’s True, It’s True, It’s True tại Anh, là tiếng thét gào đau đớn của Artemisia Gentileschi trước tòa, trong vụ “họa sĩ hiếp họa sĩ” ở Ý vào thế kỷ 17. [1]

Hai vụ, trên hai vùng đất và ở hai thời kỳ hoàn toàn khác nhau, cách xa hơn bốn thế kỷ, nhưng rất gần nhau ở thế cách xã hội đối xử với những nạn nhân mà, nói gọn, là “văn hóa hiếp dâm”: sau khi bị hãm hiếp về thể chất như một phụ nữ, nạn nhân còn tiếp tục bị hãm hiếp về mặt tinh thần như một công dân hay một thành viên của cộng đồng.

Gentileschi đã bị Agostino Tassi — một họa sĩ bề trên, bạn của bố và là thầy dạy vẽ của mình — hãm hiếp năm 17 tuổi mà không làm gì được bởi “văn hóa hiếp dâm” và sự bảo trợ chính trị nên, do đó, chỉ có thể trút hết căm hờn vào cây cọ để, giữa cái thời mà nữ giới bị cấm học hội hoạ, đã vươn lên thành một tên tuổi lớn vượt khỏi biên giới của nước Ý rồi, vượt qua thời gian để ngày nay được nhìn nhận như là nữ họa sĩ hàng đầu của thời kỳ Phục Hưng. [2]

Một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất của Gentileschi là “Judith chém đầu Holofernes”, thực hiện đến hai lần, dựa vào câu chuyện trong Cựu Ước. Nếu bộ kinh này, trên phương diện sử học, là “đại tự sự” đã giúp các bộ lạc Do Thái thống hợp thành Vương quốc Israel thì, khi tái tạo câu chuyện với ý đồ giải quyết oán thù bằng nghệ thuật, phải chăng Gentileschi đã mở đường cho “tự sự” của những nạn nhân hãm hiếp, với một mỹ học của bạo lực và đạo hạnh cho sự báo thù? [3]

Holofernes là viên tướng cầm đầu đoàn quân Assyria đang chuẩn bị làm cỏ thành Bethulia, quê hương của Judith, và góa phụ này đã trở thành một anh hùng khi vận dụng sắc đẹp và trí thông minh để cùng người hầu gái vào tận bản doanh kẻ thù cắt cổ kẻ thù. Sự tích này được nhiều họa sĩ Phục Hưng khai thác nhưng, trong khi toàn bộ những họa sĩ khác, đều là nam giới, kể lại câu chuyện bằng thì quá khứ với cái đầu của Holofernes đứt lìa khỏi cổ thì “ngữ pháp” trong tranh của Gentileschi lại là “hiện tại tiếp diễn”. Lúc này thì cái cổ của kẻ thù chỉ mới bị cắt có phân nửa và, trong bức thứ hai, máu đã phụt lên giữa lúc hai mắt trợn trừng, chưa chết hẳn.

Oán hờn từ vụ hãm hiếp đã được ký thác vào tác phẩm với nhân vật Holofernes mang khuôn mặt của kẻ hãm hiếp Agostino trong khi Judith lại giống hệt Gentileschi, thêm vào cái vòng đeo tay chạm hình nữ thần Artemis, gợi nhắc cái tên Artemisia Gentileschi. Sự dữ dội của cuộc báo thù còn bộc lộ trong sự tương phản ở khuôn mặt đau đớn và thất thần của Holofernes bên cái nhìn bình thản đến lạnh lùng pha lẫn sự khinh bỉ, nhờm tởm của Judith, lại còn chưng diện như dự vũ hội.

Trong khi bố cục hướng đến sự đau đớn của kẻ thù thì cách phối màu tô đậm sự bạo liệt và kịch tính. Chân Holofernes bên trái, cánh tay của người hầu gái và cánh tay của Holofernes ở giữa, hai cánh tay của Judith bên phải, làm thành sáu đường thẳng hướng về khuôn mặt đau đớn của Holofernes. Và tấm chăn đỏ sẫm, tay áo đỏ của người hầu gái, cùng viên đỏ trên tay áo Judith, tất cả tạo thành một vòng cung bao trùm trên những dòng máu phun lên theo hình vòng cung mà, nói theo Lê Anh Xuân, là “phun theo lửa đạn cầu vồng”.

Trong khi đó thì thanh gươm hóa kiếp Holofernes, trong tay Judith, được chĩa xuống như một cây Thánh Giá, biểu tượng của sự cứu chuộc và đạo hạnh. Nếu Thánh Giá luôn đi đôi với Kinh Thánh thì, ở đây, có ai mà không biết đến sự chứng nhận cho công lý báo thù: “Give life for life, eye for eye, tooth for tooth, hand for hand, foot for foot.”? [4] Nếu tác phẩm của thế kỷ 17 này thể hiện một “mỹ học của báo lực” và “đạo hạnh của sự báo thù” với tội phạm hiếp dâm thì, nhiều thế kỷ sau, chúng ta lại chứng kiến sự hình thành của nó như một thể loại riêng, trong văn học và đặc biệt là điện ảnh.

Đầu tiên là Tess of the D’Urbervilles của Thomas Hardy, tác phẩm kinh điển của văn học hiện thực Anh, xuất bản lần đầu năm 1891, phơi bày khúc chiết những bất công xã hội. [5] Tess Durbeyfield, một thôn nữ xinh đẹp, bị kết án treo cổ bởi đã giết chết Alec, một tên nhà giàu hãnh tiến và phóng đãng, đã hãm hiếp cô năm 16 tuổi rồi sử dụng quyền lực kinh tế để thao túng cô như một nô lệ tình dục. Sau nhiều biến chuyển éo le của cuộc đời, Tess đã dùng dao kết liễu kẻ đã làm tan nát đời mình nên bị thiết chế chính trị đáp trả bằng sợi dây thừng treo cổ.

Câu chuyện thảm khốc với “đạo hạnh của sự báo thù” này, dẫu “có hậu” trong cái nhìn của nhà cai trị, vẫn bị xã hội Anh phản ứng dữ dội, chưa thể chấp nhận nổi. Nhưng thế kỷ 20 thì khác và, đặc biệt, sau hai cuộc cách mạng — tình dục của thập niên 60 và nữ quyền của thập niên 70 — là sự bùng nổ của thể loại “trả thù hiếp dâm” trong điện ảnh mà, trong đó, gây tranh cãi nhất, có lẽ là I Spit on Your Grave, của đạo diễn Meir Zarchi, ra mắt năm 1978.

Jennifer Hills, một nhà văn, bị hãm hiếp tập thể và đã lần lượt trả thù, cực kỳ tàn khốc. Kẻ đầu tiên bị cô mồi chài, vờ vịt cho hắn làm tình rồi thừa cơ treo cổ. Tên thứ hai cũng bị dụ bằng bẫy tình: cô thủ dâm cho hắn và, đợi đến cao trào, khi hắn lim dim mơ màng chực lên mây, đã bị con dao bén đưa về thực tại, cơ quan sinh dục bị tùng xẻo đến nát bấy. Hai tên còn lại thì bị rửa hờn thù y như những phim hành động khác, đầy kịch tính trong bối cảnh sông nước. Phim này, do đó, gây nên nhiều tranh cãi và năm 2010, bị tạp chí The Time liệt vào danh sách “10 phim bạo lực lố bịch nhất” (Top 10 Ridiculously Violent Movies).

Như thế, xét về “mỹ học của bạo lực”, phim có thể non kém nhưng trên khía cạnh “đạo hạnh của sự báo thù” nó rất thành công nên mới sống dai, được nối dài với tập II vào năm 2013, tập III vào năm 2015 rồi, bốn năm sau, 2019, là I Spit on Your Grave: Déjà vu một phiên bản kế tục nguyên bản. Nếu “mỹ học của bạo lực” thuộc về tài năng của đạo diễn và diễn viên thì “đạo hạnh của sự báo thù” thuộc về sự chấp nhận của công chúng và đó là điều mà chúng ta có thể nhìn thấy ở hàng loạt tác phẩm, hạng A hay hạng B, trong hay ngoài Hollywood, với một đề tài. [6]

Nguyên thủy, I Spit on Your Grave mang tên Day of the woman và đây, có lẽ, cũng nên là tên của “Judith chém đầu Holofernes” bởi, chính trong tác phẩm thực hiện vào thế kỷ 17 này, chúng ta có thể nhìn ra những tín hiệu của chủ nghĩa nữ quyền.

Đó là vai trò của người hầu gái, rất khác với những nam họa sĩ ở cùng một đề tài. Thường thì người hầu gái vắng mặt và, nếu có, chỉ đóng vai rất phụ, bất quá chỉ là bê cái khay đặt thủ cấp Holofernes thế thôi. Nhưng với Gentileschi thì cô ta đã xắn tay áo hành động, ghì chặt, không cho kẻ thù vùng vẫy để Judith tóm tóc đè đầu mà cứa cổ.

Văn khố được bảo toàn trọn vẹn từ thế kỷ 17 cho thấy rằng khi bị hiếp Gentileschi đã cố sức kháng cự, dùng cả dao nhưng vẫn thua cuộc; rằng Gentileschi đã kêu cứu nhưng cô hầu gái vắng mặt mà, theo suy đoán, có thể đã bị Agostino mua chuộc. Vóc dáng võ biền của Holofernes lại hoàn toàn lấn át cho dù hai nhân vật nữ không hề nhỏ con và, phải chăng, thông điệp muốn phát ra, là sự bất cân xứng về thể chất giữa nữ giới và nam giới nên, do đó, muốn chiến thắng, nữ giới phải hợp lực, dứt khoát, và quyết đoán?

Nếu thế thì đây, nhất định, là sự khởi đầu của chủ nghĩa nữ quyền. Tác phẩm được thực hiện để trút bỏ sự căm hận của Gentileschi mà đỉnh cao là hơn bảy tháng xét xử đầy đau đớn, thể chất lẫn tinh thần. Theo pháp luật thời đó, Gentileschi đã bị nhục hình bằng sibille, công cụ siết ngón tay bằng nẹp gỗ và dây thừng, từng lời chất vấn của tòa “Đó có phải là sự thật?” là từng cú siết để nạn nhân bật lên tiếng gào đau đón mà năm thế kỷ sau trở thành tên của vở kịch, It’s True, It’s True, It’s True. [7]

Agostino không hề ra tòa như một nghi can hình sự bởi thời đó, ở Ý, hành vi này chưa bị xem là tội phạm và, nếu chấp nhận lấy nạn nhân làm vợ như đã hứa, sự việc sẽ ổn thỏa. Nhưng y đã nuốt lời, và y bị kiện ra tòa như một chuyện tranh chấp dân sự bởi làm ô uế danh tiếng gia đình Gentileschi, đã phá đời cô, khiến cô không thể lập gia đình. Trong khi Agostino rung đùi ở tòa như một bị đơn dân sự, nguyên đơn Gentileschi lại bị đối xử như là tội phạm khi bị nhục hình để bảo đảm rằng chỉ khai ra sự thật. Thậm chí, cả khi bị thua kiện, Agostino cũng chẳng hề hấn gì ngoài việc phải lánh mặt thành Rome một thời gian bởi được Giáo Hoàng Innocent X che chở. [8]

Nếu đó là “văn hóa hiếp dâm” ở Ý vào thế kỷ 17 thì, bây giờ, qua vụ “nhà thơ hiếp nhà thơ”, và qua cách ứng xử của Hội Nhà văn, xã hội chúng ta đã khá lên được bao nhiêu? Nhưng vấn đề không nên đóng khung trong câu chuyện này mà cần nhìn xa hơn như là “văn hóa hiếp dâm”.

Bắt đầu với một chuyện cười khá phổ biến về nữ nguyên đơn trong vụ án hãm hiếp nhưng trở thành trò cười trước tòa. Bị chất vấn rằng cô thấp thế mà bị đơn cao thế, làm sao hắn có thể hiếp cô bằng cách ép vào tường, cô giải thích là lúc đó có cô… nhón chân lên. Khi nghĩ ra, khi phổ biến hay, thậm chí, khi cười hô hố trước một một câu chuyện như thế, chúng ta vừa xúc phạm đến những nạn nhân thực sự, vừa xúc phạm đến nữ giới nói chung. Và khi chúng ta xem đó là bình thường, là chuyện vui thôi thì, nói theo thuật ngữ nữ quyền, chúng ta vẫn là tiếp tục bị kềm tỏa trong bóng tối của Phallocracy, nền “độc tài dương vật trị”.

Trong câu chuyện trên, cứ cho là thật, thì tên hiếp dâm đã hoàn toàn trắng tội bởi đã đánh thức bản năng nữ giới của nạn nhân. Nhưng rõ ràng là anh ta đã xâm phạm thân thể cô nên, trên phương diện pháp lý, đó là một tội phạm hình sự phải truy tố đến cùng, bất kể là nạn nhân muốn rút lui, bãi nại. Và nạn nhân, cho dù bản năng có bị đánh thức, đó đâu phải là tội lỗi? Mà dầu là tội, nó đâu thể nào cứu chuộc thủ phạm? Trong cái nhìn nữ quyền thì đây là sự mơ hồ về ranh giới giữa tội phạm và nạn nhân trong vấn đề hiếp dâm, vấn đề mà nhà phê bình Nguyễn Hưng Quốc đã phân tích khá tường tận trong tiểu luận “Chuyện hiếp dâm và vấn đề phái tính trong văn học Việt Nam”. [9]

Bắt đầu từ ca dao, với cảnh hiếp dâm:

Hôm qua em đi hái chè

Gặp thằng phải gió nó đè em ra

Em van mà nó chẳng tha

Nó đem nó đút đầu thằng cha nó vào

Nguyễn Hưng Quốc phân tích:

“Cô gái tức tối nhưng rõ ràng là cô không thù hận cái gã đàn ông đã hiếp dâm cô. Cô gọi nó là ‘thằng phải gió’; mà ‘phải gió’, theo Từ điển Tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên xuất bản tại Hà Nội năm 1992, là ‘tiếng dùng để rủa nhẹ nhàng’ còn theo Từ điển Tiếng Việt của Văn Tân, bản in năm 1994, thì việc rủa nhẹ nhàng ấy có khi chỉ ngụ ý đùa chơi mà thôi. Chửi kẻ đã hiếp dâm mình là ‘thằng phải gió’, do đó, là một cách… tha bổng nó. Chính vì ai cũng nhận ra điều đó cho nên ai cũng xem bài ca dao ấy là một bài ca dao hài hước. Có cái gì như nghịch lý: đọc một bài ca dao kể về chuyện hiếp dâm, tức một tội ác hay một bi kịch mà không ai phẫn nộ hay xót xa gì cả. Người ta chỉ cười. Cười hả hê.

Tiếng cười ấy không những làm trắng án kẻ hiếp dâm mà còn, oái oăm thay, đảo ngược hẳn công việc luận tội: kẻ bị chê trách không phải là tội phạm mà chính là nạn nhân. Dường như tất cả những thương tổn mà cô gái phải chịu đựng về phương diện tình cảm cũng như xã hội đều nhất loạt bị mọi người xem như không có chỉ vì một lý do duy nhất là xác thịt của cô không kềm chế được những xúc động trước sự đụng chạm dù một cách thô bạo của người khác phái. Dường như, dưới mắt người đời, những sự xúc động ấy còn đáng chê cười hơn cả việc làm tồi bại của gã đàn ông dâm đãng.”

Tác giả dẫn ra nhiều thí dụ khác, như Nam Cao đã xóa tội cho Chí Phèo bởi hắn đã khêu dậy những khoái lạc xác thịt cho Thị Nỡ; như Vũ Trọng Phụng, trong Giông Tố, xem cảnh Nghị Hách hiếp dâm Thị Mịch như thể là một cảnh thông dâm và, do đó, đã “làm mờ tính cách nạn nhân” người bị hãm hiếp:

“Mịch chợt nhớ đến lúc từ con gái mà trở nên đàn bà, trên chiếc xe hơi. Cái lúc ấy thật là gớm ghiếc, thật là bẩn thỉu, thật là đau đớn, nhưng trong cơn đau đớn không phải là không có một thứ khoái lạc trong xác thịt nó làm cho đỡ thấy đau..”

Những nạn nhân bị hãm hiếp như thế, chỉ được khai thác với ý nghĩa xã hội nhằm đả kích kẻ thống trị nên, ngoài bản năng ra, họ chỉ bị xem xét như một thành phần giai cấp hay một công dân chứ không phải là một con người và, đặc biệt, là một phụ nữ.

Nếu đó những nhân vật trong trang viết hay lời truyền khẩu của dân gian thì, bước ra đời sống, chúng ta có thể gặp những nhân vật bị “từ khước tư cách nạn nhân” như thế, ngay trong câu chuyện mới nhất về “nhà thơ hiếp nhà thơ” qua cách ứng xử của Hội Nhà văn. Mà, trong khi Hội tỏ ra thờ ơ hay bị động đối phó thì, giữa dư luận xã hội, như có thể thấy rõ trên truyền thông, đó đây vẫn thấp thoáng những cái nhìn hay cái cười khinh miệt, ra vẻ cao đạo, kiểu “Tại anh, tại ả, hay tại cả đôi bên?”.

Nếu đó là lề thói điển hình của những công dân thuần trị trong một nền “độc tài dương vật chế” thì cái Hội trên lại hành xử như những thư lại quan liêu của nền “dương vật trị”. Chính vì thế, sau khi bị hãm hiếp như một phụ nữ, nạn nhân đã bị Hội hiếp thêm lần nữa, trong tư thế một hội viên hay một công dân.

Điều này có vẻ như là một nghịch lý bởi, để hãm hiếp, dù là chỉ hãm hiếp về mặt tinh thần, ít nhất cũng phải có một dương vật ra dáng dương vật nhưng, xem cách họ giả mù và giả điếc để bao che, rồi rụt rè, giả câm giả điếc khi rút lại sự bao che ấy, có ai mà nghĩ được rằng những nhà quan liêu ấy có đầy đủ thứ này?

Nhưng gì chứ nghịch lý thì đất nước chúng ta rất thừa. Đại biểu tiền phong của giai cấp vô sản mà có thể hoang phí như những ông hoàng dầu lửa Ả Rập được, tại sao những nhà quan liêu thiếu dương vật không thể hiu hiu tự đắc hay cãi chày cãi cối cho cung cách dương vật trị của mình?


Chú thích & tài liệu tham khảo:

1. https://www.bbc.com/…/20180824-the-artist-who-triumphed…

2. https://www.theguardian.com/…/artemisia-gentileshi…

Thập niên 1970, với sự trỗi dậy của chủ nghĩa nữ quyền, nhiều nhà nữ quyền đã cố bác bỏ định kiến là trong lịch sử không có nữ danh họa nào và đã phát hiện Gentileschi. Từ đó trở đi, người ta mới tìm lại được các tác phẩm của cô. Và điều may mắn là biên bản tòa án được giữ hầu như nguyên vẹn, rõ đến từng lời khai. Các thư từ và biên nhận của sở thuế cũng khẳng định thêm sự thành công của Gentileschi như một họa sĩ.

3. Khi thời kỳ Baroque kết thúc, hai tác phẩm này bị cất vào kho vì nó quá sức tàn bạo, đến tận thế kỷ 20 mới được tìm ra. Hiện hai bức tranh này được trưng bày ỏ Naples và ở Florence. Xem chú thích số 2.

4. Exodus 21:23

5. Trước năm 1975, tác phẩm này đã được Nguyễn Đan Tâm dịch sang tiếng Việt là Người tình đầu tiên, người yêu cuối cùng.

6. Có thể liệt kê hàng loạt phim như: The Last House on the Left, Dogville, Irreversible, The Girl With the Dragon Tattoo, Once Upon A Time … In Hollywood, The Nightingale, Misbehavior..

7. Xem chú thích số 2.

8. Xem chú thích số 2.

9. https://www.tienve.org/home/literature/viewLiterature.do…

https://vanviet.info/…/van-hoa-hiep-dam-my-hoc-cua-bao…/


Nguyễn Hoàng Văn, born in 1965, Vietnam. The writer, journalist and essayist currently resides in Western Sydney, Australia.

Trump, nhìn từ Napoleon và Tần Thủy Hoàng | Nguyễn Hoàng Văn

Sydney Anzac Bridge, Australia. Photography by Nguyễn Thị Phương Trâm

Sydney, Australia, March 16, 2025

Theo dõi cuộc “đấu trí” của Donald Trump với hai láng giềng Canada và Mexico về thương mại tôi không thể không nghĩ đến sự chú trọng của Napoleon Bonaparte (1769 – 1821) với yếu tố thời gian trong những toan tính chiến lược.

Nhưng đầu tiên, với tôi, cách đấu trí của y lại gợi nhớ cái tuổi ấu thời với những “tối hậu thư hai rưỡi”. Cái tuổi trẻ ranh tập tành làm người hùng hay thủ lĩnh mafia, dõng dạc ra lệnh những đối thủ đồng trang lứa rằng tao đếm đến ba thì mày phải làm cái này, cái kia, tỷ như tránh qua một bên nhường đường, trả lại hòn bi đã giật, nhặt cái mũ trên đầu vừa hất xuống đất v.v. Mạnh miệng như thể đổ máu tới nơi nhưng, khi giây phút “tối hậu” đã cận kề mà đối phương vẫn không tỏ dấu hiệu nao núng, thì nhũn ra và chuyển sang… “thời kỳ quá độ”. “Hai” không mạnh dạn tiến thẳng lên “ba” mà chờn vờn ở giữa, đã rời bờ mà vẫn chưa tới bến đúng nghĩa “quá độ”: “Một, hai, … hai rưỡi”.

Cái trò hăm dọa “hai rưỡi” tưởng chỉ là của đám trẻ ranh vậy mà, bây giờ, cũng là trò chơi chính trị của con người quyền lực nhất thế giới. Khi hoãn tới hoãn lui việc áp dụng thuế quan với Canada hay Mexico, một Donald Trump từng hùng hùng hổ hổ cũng nhũn ra như thế, cũng “thời kỳ quá độ” như thế, bởi vì đối phương cho thấy họ không phải là thứ dễ bị bắt nạt.

Đến lượt Napoleon, một thiên tài quân sự với những di sản sống mãi về văn hóa, giáo dục, hành chánh và luật pháp. Khi nhìn vào cái chiến lược mà Trump đang thực hành thì thiên tài này sẽ đánh giá như thế nào?

Chiến lược, theo Napoleon, là “nghệ thuật vận dụng thời gian và không gian” trong đó thời gian phải là ưu tiên một bởi không gian mất vẫn có thể lấy được, còn thời gian mà mất thì mất luôn: “Strategy is the art of making use of time and space. I am less concerned about the later than the former. Space we can recover, lost time never.”

Như thế, nếu thực sự tin vào việc bảo toàn quyền lợi cho nước Mỹ bằng cuộc chiến thuế quan, tại sao Trump phải liên miên để mất thời gian bằng trò “tạm hoãn”?

Mà nói đến chiến lược thì phải nói đến ba yếu tố “thiên thời, địa lợi, nhân hòa” và, ở đây, Trump bị hỏng hết cả ba,

Nga đang kẹt ở Ukraine. Nếu Mỹ tiếp tục đóng vai trò của vị cứu tinh, không chỉ với Ukraine mà với cả Âu châu như đã từng làm thế dưới thời Joe Biden, ít ra cái khẩu hiệu “nước Mỹ vĩ đại” cũng thành tựu phần nào. Làm thế thì Mỹ sẽ vĩ đại ngời ngời như đấng anh hùng thống lĩnh thế giới, như đã từng thế vào Đệ nhất rồi Đệ nhị thế chiến. Mà đã thống lĩnh về an ninh – chính trị thì ưu thế kinh tế – thương mại sẽ là chuyện đương nhiên, như đã từng thấy sau hai cuộc đại chiến.

Không hiểu được cái lẽ đương nhiên này là một. Trump cũng hoàn toàn mù tịt về mắc mứu lịch sử chẳng có gì phức tạp lắm trong quan hệ Nga – Ukraine.

Ukaine từng được thế hệ trước của chúng ta gọi là Uy Kiên theo lối phiên âm Hán Việt, hay, phổ biến hơn, là Tiểu Nga và chính cái tên này chứng tỏ tầm quan trọng chiến lược của đất nước này với Nga. Hoàn toàn trống trãi với địa hình thảo nguyên nên khả năng phòng thủ của Nga rất yếu và, nhìn lại lịch sử, những đội kỵ binh của Napoleon hay đội quân cơ giới của Adolf Hitler đã tiến quân ào ào theo thế chẻ tre, xông thẳng đến thủ đô Moscow. Để chống cự thì, cả hai lần, Nga chủ yếu trông cậy vào cái lạnh cực kỳ khắc nghiệt của mùa Đông nhưng, “Đòi được vạ thì má đã sưng”, đợi đến lúc đó thì đất nước đã tan hoang ra rồi. Chính vì vậy nên, trong chiến lược lâu dài, Nga hiểu là mình phải tạo những vùng đệm an toàn từ xa mà điểm then chốt là Ukraine.

Âu châu đang nắm trong tay cái cơ hội ngàn năm một thuở nhằm bóc bỏ cái trái độn ấy, bảo vệ nền an ninh của mình và khiến Nga trở nên yếu thế hơn bao giờ hết, nhưng Trump lại ra tay phá bĩnh, nối giáo cho giặc!

Trong cái nhìn chiến lược, đã đánh mất thời gian, Trump còn để mất cả không gian. Nếu cha ông chúng ta chủ trương “Bán bà con xa mua láng giềng gần” thì Trump, thực sự, đang bán bà con gần chỉ để mua kẻ thù xa.

Gần là Canada, Mexico và là “bà con” bởi, từ năm 1992, đã cùng ký vào “Thỏa ước tự do mậu dịch Bắc Mỹ” (North American Free Trade Agreement: NAFTA). Kẻ thù xa là Nga nhưng nói “mua” thì quá vinh dự cho Trump. Thực chất, những gì đang diễn ra cho thấy Trump đang bán nước Mỹ cho Nga, nhưng bán với giá không đồng: Nga không tốn cái gì cả nhưng lại được rất nhiều!

Từ một góc độ khác thì, phải chăng, Trump đang học theo Tần Thủy Hoàng?

Để thôn tính lục quốc, Tần Thủy Hoàng đã theo lời Phạm Thư thực hiện chiến lược “Viễn giao cận công”: nước gần như Hàn thì đánh chiếm trước nhất, nước xa là Tề thì kết thân rồi đánh chiếm cuối cùng, sau một giai đoạn kéo dài đến 10 năm. Nhưng Trump? Chẳng lẽ ông ta điên rồ đến mức tính toán đến việc nuốt chửng Canada và Mexico trước, sau đó mới tính sổ với Nga?

Nuốt chửng lục quốc, Tần Thủy Hoàng đã tiến hành rất nhiều cải cách quan trọng để thống nhất Trung Hoa nhưng cần nhớ rằng, chỉ ba năm sau khi ông ta qua đời vì bệnh, ở tuổi 49, nhà Tần lại bị diệt vong. Cơ nghiệp khổ công xây dựng trong 37 năm làm vua, đặc biệt là trong 12 năm xưng hoàng đế, đã tan thành mây khói và, ngày nay, có nhắc lại, chủ yếu, người ta chỉ nói về Tần Thủy Hoàng như là một kẻ “phần thư khanh Nho”, đốt sách chôn học trò.

Và Trump. Vẫn chưa đến mức “phần thư” nhưng rõ ràng Trump là một kẻ “bài thư”, từ mà tôi nghĩ ra với hai tầng nghĩa khác nhau.

Đầu tiên thì “bài thư”, để tạm dịch từ dylexia hay bibliophobia mà giới quan sát cho rằng Trump đang mắc, cái hội chứng khó đọc hay nói gọn là bệnh chán chữ hay ngán chữ, sợ sách. Nếu đó là bệnh lý cá nhân thì chính căn bệnh cá nhân này đã gây ra nhiều tác hại nghiêm trọng đến nước Mỹ.

“If you’re reading this sentence, you’ve read more than the president has today.” (Nếu bạn đang đọc câu này, bạn đã đọc nhiều hơn tổng thống trong ngày hôm nay), nhà bình luận Winsor Mann đã viết thế vào tháng Năm năm 2020. Theo Mann thì chính căn bệnh này đã biến Trump trở thành một tội đồ với những phản ứng vô trách nhiệm nếu không nói là “ngu xuẩn” trong đại dịch Covid: trong hai tháng đầu năm, Trump đã phớt lờ hơn một tá những báo cáo tình báo về bệnh dịch này, chỉ vì quá ngán chữ hay sợ chữ, không chịu đọc! [1]

Và đây cũng là điều sẽ khiến Napoleon chê Trump. Thiên tài quân sự của Napoleon xây dựng trên cả nền tảng văn hóa bởi, ai cũng biết, ông ta là một con mọt sách, đọc rất nhiều: “Read over and over again the campaigns of Alexander, Hannibal, Caesar, Gustavus, Turenne, Eugene and Frederic. … This is the only way to become a great general and master the secrets of the art of war.” (Hãy đọc đi đọc lại các chiến dịch của Alexander, Hannibal, Caesar, Gustavus, Turenne, Eugene và Frederic… Đây là cách duy nhất để trở thành một tướng lãnh vĩ đại và thủ đắc nghệ thuật chiến tranh.)

Nhưng Trump còn “bài thư” trên ý nghĩa “phản trí thức” qua những chính sách thù hằn với tri thức và sự truyền bá tri thức. Trump đã “bài” như thế qua việc phá hoại nền giáo dục Mỹ như giải tán Bộ Giáo Dục liên bang. Trump đã “bài” như thế với những quyết định hành pháp thù địch với các đại học và sinh viên. Và Trump cũng đã “bài” như thế với việc xóa bỏ các cơ quan truyền thông có chức năng phổ biến giá trị Mỹ trên toàn cầu như VOA.

Sợ đọc nhưng Trump lại rất to mồm và đây cũng là điều để Napoleon chê: “You do not get peace by shouting: Peace. Peace is a meaningless word; what we need is a glorious peace.” (Bạn không thể đạt đến hòa bình bằng cách kêu gào: Hòa Bình. Hòa bình chỉ là một từ vô nghĩa; những gì mà bạn cần là một một nền hòa bình trong vinh quang.”

Nhưng đó chính là điều mà hai thầy tớ Trump và JD Vance làm cả thế giới văn minh sững sờ hay giận dữ khi đón ông Volodymyr Zelenskyy, Tổng thống Ukraine, tại Tòa Bạch ốc. Cả Vance và Trump thi nhau gào rống về một thứ hòa bình chỉ có trên lưỡi trong khi cái mà nhân dân Ukraine thực sự đòi hỏi một thứ hòa bình có thực, trong danh dự.

Thầy nào tớ đó, từ tổng thống đến phó tổng thống, rồi các ông bộ trưởng, cố vấn, phụ tá, ai cũng thế cả thì chúng ta còn có kỳ vọng nào về cái chính quyền này? Nói theo Napoleon: “ If you build an army of 100 lions and their leader is a dog, in any fight, the lions will die like a dog. But if you build an army of 100 dogs and their leader is a lion, all dogs will fight as a lion.” Nếu chúng ta xây dựng một đạo quân gồm 100 con sư tử đặt dưới trướng một con chó thì, trong bất cứ trận chiến nào, sư tử sẽ chết như chó. Nhưng nếu chúng ta xây dựng một đạo quân gồm 100 con chó đặt dưới trướng một con sư tử, cái đội quân toàn là chó này sẽ chiến đấu như một bầy sư tử.

Cái bi hài kịch của nước Mỹ hiện tại là nhà lãnh đạo tối cao không hề là sư tử, mà những kẻ răm rắp phục tùng ông chủ này cũng không đáng mặt sư tử! Và, dẫu rất hùng mạnh, rồi đây Quân đội Mỹ sẽ chiến đấu như thế nào với một ông tổng tư lệnh tối cao từng trốn lính, từng mạt sát những ăn hùng gặp nạn trong lửa đạn như John McCain, lại đang nhẫn tâm cắt giảm quyền lợi của các cựu chiến binh và bôi xóa lịch sử của nó khi chối bỏ các anh hùng và tử sĩ da màu?

Và nói đến quân đội, nói đến chiến đấu, ắt phải bàn đến những trường hợp diễn ra ngoài ý muốn, tình trạng tội phạm chiến tranh mà, trong cái nhìn của Napoleon: “In war, as in politics, no evil – even if it is permissible under the rules – is excusable unless it is absolutely necessary. Everything beyond that is a crime”. Trong chiến tranh hay chính trị, không có sự độc ác nào – cả khi được phép theo luật lệ — được tha thứ trừ phi nó tuyệt đối cần thiết. Bất cứ hành vi nào xâm phạm giới hạn này đều là tội phạm.

Còn Trump thì đã làm gì? Trump không chỉ “tha thứ” cho những tội ác man rợ của Vladimir Putin và Benjamin Netanyahu mà chúng ta chứng kiến ngày ngày trên ti vi. Trump thậm chí còn đóng vai đồng lõa và đồng minh đắc lực của hai tên tội phạm chiến tranh này.

Nhưng ít ra cũng có một sự tương đồng nào đó, trong thói quen ăn uống. Trump thì khét tiếng với thức ăn nhanh, McDonald’s, Burger King, KFC hay pizza và, thậm chí, có khi mời khách đến Tòa Bạch ốc, Trump chỉ đãi toàn… McDonald, đến mấy đống. [3] Còn Napoleon thì, với thói quen của giới võ biền, ăn uống rất nhanh, không bữa nào kéo dài mười phút và đây là cái dở của ông ta về chính trị.

Trong những tháng ngày lưu đày trên đảo Elba, có cơ hội suy gẫm về những vấp ngã của đời mình, Napoleon mới lấy làm hối tiếc đã không học theo Louise XIV (1638 – 1715), vị minh quân không chỉ làm nở rộ nghệ thuật ẩm thực Pháp mà còn có thể khai thác bàn tiệc như một cuộc duyệt binh. Âu châu thời ấy phát sốt với những gia vị và hương liệu phương Đông, tưởng không bao giờ thoả mãn nổi và, với bàn tiệc ăm ắp những miếng ngon hiếm có và đắt tiền ấy, Louis XIV đã chứng tỏ được quyền lực của người đang làm chủ những tuyến đường hàng hải chiến lược và, do đó, càng củng cố và thu hút các quan hệ đồng minh. [4]

Nhận ra điều này nên Napoleon mới tự trách mình. Nếu ông ta dứt bỏ được cái thói quen ăn uống chóng vánh? Nếu ông ta biết tổ chức những yến tiệc linh đình để, qua những bữa ăn khề khà kéo rê mà xây dựng đồng minh chính trị? Làm được như thế thì, biết đâu, sự nghiệp của ông ta đã không đứt ngang với một kết thúc buồn.

Nếu Napoleon hối hận vì đã không ăn chậm hơn thì, cơ hồ, cho đến nay, Trump vẫn chưa đoạn tuyệt với thức ăn nhanh và, liệu, mai này, Trump có hối hận như thế hay không?

Không ai biết trước cái gì sẽ xảy ra cả mà, hiện tại, bao nhiêu là nhà lãnh đạo dân túy với quyền lực nghiêng trời đang chờ ra tòa? Cựu Tổng thống Rodrigo Duterte của Philippines đã bị chính Cảnh sát Philippines tóm cổ để đưa ra Tòa án quốc tế với những cáo buộc chống lại con người. Cựu Tổng thống Brazil Jair Bolsonaro, từng được mệnh danh là Trump của Brazil, đang bị truy tố ra tòa với cáo buộc âm mưu đảo chính sau cuộc bầu cử năm 2022. Và Yoon Suk Yeol, Tổng thống Nam Hàn, đã bị bắt và tống giam giữa lúc đang nhậm chức vì hành vi lạm dụng quyền lực, xâm phạm hiến pháp và, hiện tại, dù được phóng thích, vẫn phải mất chức và chờ ra tòa.

Trong cái đà này thì, mai này, khi phải trả lời trước pháp luật về những hành vi tư lợi, xung đột lợi ích và, thậm chí, thông đồng với kẻ thù, Trump sẽ phải hối tiếc vì cái tật chỉ khoái khẩu với fast food?

Nếu thật sự có một ngày mai như thế thì, dẫu ngoái cổ nhìn trước nhìn sau, rồi nhìn trái nhìn phải, Trump chẳng thể nào tìm ra một đồng minh trung thành, là những cộng sự viên đã từng chia sẻ với mình không khí ấm áp của một bữa ăn gia đình chứ không phải là một đống fast food vô hồn…

Tham khảo:

1. https://theweek.com/…/trumps-lethal-aversion-reading

https://www.newsweek.com/trump-reading-dyslexic…

https://www.commondreams.org/…/why-trump-cant-learn…

2. https://www.msn.com/…/food-habits-of-78…/ar-AA1tCKiI\

https://www.businessinsider.com/what-trumps-diet-is-like…

3. https://www.buzzfeednews.com/…/trump-fast-food-burgers…

4.. Roy Strong (2002) Feast: A History of Grand Eating, London: Jonathan Cape, trang 276.


Nguyễn Hoàng Văn, born in 1965, Vietnam. The writer, journalist and essayist currently resides in Western Sydney, Australia.

Trump, nhìn từ Hitler và Machiavelli | Nguyễn Hoàng Văn

mưa Sydney, tôi chụp một ngày lang thang. Nguyễn Thị Phương Trâm

Sydney, Australia, March 28, 2025

Trump thắng cử là nhờ nói láo, bênh vực Trump đến đâu cũng không thể bác bỏ thực tế rành rành này. [1]

Và đó cũng là phương thức giúp Adolf Hitler thành công. Trong hồi ký Mein Kampf (Đời chiến đấu của tôi) Hitler thừa nhận rằng thành công của hắn đặt trên nền tảng của sự dối trá: sự dối trá càng lớn bao nhiêu thì càng trở nên dễ tin bấy nhiêu:

“A definite factor in getting a lie believed is the size of the lie, for the broad mass of the people in its primitive simplicity of heart more readily falls victim to a big lie than to a small one”

Người vận dụng chiến lược lừa dối chính trị của Hitler một cách bài bản là Joseph Goebbels, Bộ trưởng Tuyên Truyền. Theo tên này sự dối trá lớn này, nếu lập đi lập lại mãi, công chúng sẽ cho là thật:

“If you tell a lie big enough and keep repeating it, people will eventually come to believe it.”

Bên cạnh Hitler, Trump còn là một môn đệ của Niccolò Machiavelli (1469 – 1527) khi được mệnh danh là một “bậc thầy trong nghệ thuật hù dọa”. [2]

Hù dọa là để làm người ta sợ và, trong Quân Vương (The Prince), Chương 17, “Of cruelty and mercy, and whether it is better to be loved than to be feared or the contrary”, Machiavelli viết:

“Con người vốn vô ơn, tráo trở, giả tạo, lừa dối, hèn nhát và tham lam. Khi Điện hạ làm lợi cho họ thì họ toàn toàn thuộc về ngài, dâng hiến cả máu, tài sản, mạng sống và con cái, như hạ thần đã trình bày ở trên, khi Điện hạ chưa cần. Nhưng khi Điện hạ cần thì bọn họ sẽ tháo chạy. Bởi lẽ đó nên thà làm mình trở thành người để họ sợ hơn là để họ yêu thương. Người ta ít ngại ngần khi làm tổn thương người mà họ yêu mến hơn là người mà họ khiếp sợ.”

“Men are ‘ungrateful, fickle, simulators and deceivers, avoiders of danger, and greedy for gain. While you work for their benefit, they are completely yours, offering you their blood, their property, their lives, and their sons, as I said above, when the need is far away. But when it draws nearer to you, they turn away. It is therefore better to be feared than to be loved, if one cannot be both, because ‘men are less hesitant about injuring someone who makes himself loved than one who makes himself feared’.”

Và cách Trump hứa rồi nuốt lời hứa cũng là bài học mà Machiavelli đã trình bày, trong Chương 18 – “How a prince should keep his word”:

“Con người có đầu óc quá đơn sơ và rất hay bị những nhu cầu trước mắt thao túng nên bọn lừa dối luôn luôn tìm được hạng người tự cho phép mình bị lừa dối.”

(Men are so simple-minded and so controlled by their immediate needs that he who deceives will always find someone who will let himself be deceived.

Đó là bậc thầy của Trump, còn đám quân sĩ gọi dạ bảo vâng mà tôi gọi là “MAGA quân”, những kẻ cho phép mình bị kẻ nói láo vĩ đại nhất thế kỷ lừa dối mình thì sao?

Để biện minh cho kẻ ác, kẻ láo khoét và gian lận mà chứng cớ đã rành rành thì chỉ có thể ngụy biện.

Đó là xảo thuật diễn giải phi logic và phản khoa học, chỉ nhắm đến việc đánh lạc hướng, làm rối vấn đề, lái suy nghĩ của người nghe ra khỏi những chiều hướng bất lợi cho mình. Đầu tiên, Plato và Aristotle, hai nhà tư tưởng cổ đại đã nhận diện và hệ thống hoá các chiêu thức ngụy biện và, đến hôm nay, các nhà biện luận đã tổng kết được 45 chiêu như vậy.

Hiện tại, chiêu phổ biến nhất của những MAGA quân là Ignoratio Elenchi, tức gây nhiễu, đánh tráo vấn đề.

Cách đây mấy tuần, khi nền kinh tế Mỹ bắt đầu xáo trộn vì tốc độ lạm phát, đọc loáng thoáng đâu đó một MAGA quân gốc Việt, có danh xưng “ca nhạc sĩ”, cũng làm cái trò này, không dám đặt vấn đề trách nhiệm điều hành kinh tế mà chỉ kêu gọi người Mỹ nên thắt lưng buộc bụng, ráng chờ thêm hai năm nữa, mọi sự sẽ tốt lành!

Kiểu gì chứ kiểu này thì dân Việt đã nghe, đã chán tai từ mấy chục năm nay.

Bởi vậy, chẳng biết nói gì với thứ quân sĩ này của Trump, ngoài việc nhắc lại lời của Napoleon Bonaparte:

“Bọn ngu thì nói về quá khứ, người khôn ngoan nói về hiện tại, và những thằng đần thì nói về tương lai.” (The stupid speak of the past, the wise of the present, and fools of the future.)

Tham khảo:

1. “Six big lies that won the election: How Donald Trump gaslit America.”

https://www.salon.com/…/six-big-lies-that-won-the…/

và:

“Trump turns Republicans into liars and enablers. Will they ever admit the truth?” | Opinion

https://www.usatoday.com/…/trump-lies…/82672814007/

2. “Trump proves once again he’s a master of the art of intimidation”, Bill Blum

https://www.msn.com/…/trump-proves-once…/ar-AA1BL9Mo



Nguyễn Hoàng Văn, born in 1965, Vietnam. The writer, journalist and essayist currently resides in Western Sydney, Australia.

Tiếng đàn Ta Lư 1975: Ghẻ ngứa và ghẻ Tàu | Nguyễn Hoàng Văn

Sydney Harbour from the Sydney Harbour Bridge, photography by Nguyễn Thị Phương Trâm

Sydney, Australia, April 28, 2025

Sáng nay thức dậy tự nhiên thấy FB của tôi chia sẻ video clip cảnh cặp trẻ trình diễn bài Tiếng đàn Ta Lư, thoạt nghĩ rằng trang của mình đã bị hack, vì tôi chưa bao giờ thích nổi bài này. Tuy nhiên tôi vẫn xóa bỏ ngay được và sự thể, có lẽ, là một “tai nạn” khi tôi quờ quạng thế nào đó, giữa khuya, sau khi nhấm hơn một ly rượu vang.

Chuyện làm tôi nhớ đến hiện tượng “Tiếng đàn Ta Lư” sau tháng Tư năm 1975, như một thứ dịch, theo chân những đoàn quân từ trên núi tràn xuống. Đó là “dịch” ghẻ ngứa mà có lẽ ai sống qua thời ấy vẫn còn nhớ. Bệnh ghẻ tràn lan, đi đâu cũng thấy người ta gãi soàn soạt và, theo những nhạc khúc cách mạng, họ gọi đó là “tiếng đàn Ta Lư”.

Trong tình trạng thiếu thốn thuốc men ngày ấy thì, chủ yếu, nạn nhân chỉ biết dùng những thứ lá đắng như thầu đâu, lá quỳ để nấu nước tắm. Có người chăm chú dùng kim may mà “lễ”, khều khều mũi nhọn cây kim trên đường rảnh của bàn tay mà khui ra con ghẻ.

Và tôi nghĩ đến những chuyện khác, liên quan chút xíu, mà tôi đã nhắc, rải rác đâu đó.

Tôi nghĩ đến “dịch ghẻ Tàu”, đọc trong truyện của Duyên Anh, cái bệnh ngoài da hoành hành ở miền Bắc vào năm 1945 theo chân những đội quân ô hợp của Lư Hán, đến Việt Nam để giải giới quân Nhật theo Thỏa ước Postdam của Đồng Minh.

Cho tới nay tôi vẫn chưa tìm ra sử liệu khả tín nào để làm sáng tỏ câu chuyện này. Tuy nhiên những sử liệu khác và những gì đang xảy ra cho thấy rằng chúng ta hoàn toàn có thể thay đổi thành ngữ “Tai họa do miệng nói ra, bệnh tật do miệng đưa vào” với nội dung mới, thời sự hơn.

Không thể chối cãi, thảm họa Covid-19 xuất phát từ Trung Quốc. Những hành vi vụng về của nước này khi cản trở các cuộc điều tra, hung hăng trả thù nước Úc vì đứng kêu gọi mở điều tra quốc tế về gốc các của đại dịch càng cho thấy chính quyền nước này có nhiều điều muốn ém nhẹm. Hành động lấy thúng úp voi của Bắc Kinh hoàn toàn không giấu được sự thể “Thảm họa do Trung Quốc gây ra.”

Còn nhìn từ phối cảnh của chúng ta thì, không kể chuyện “ghẻ Tàu”, chúng ta có thể khẳng định theo chính một sử gia Trung Quốc rằng “Bệnh tật do Trung Quốc đưa vào”.

Đó là bệnh đậu mùa. Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã liệt kê đậu mùa như là một trong những bệnh truyền nhiễm kinh hoàng nhất mà nhân loại từng biết đến và nỗi hãi hùng mang tên đậu mùa này đã kéo dào nhiều thế kỷ, lập đi lập lại tại nhiều lục địa, tàn phá dân số và đã góp phần làm thay đổi dòng chảy của lịch sử.

Đến giữa thế kỷ 20 dân ta vẫn hãi hùng xem bệnh này do ma gây ra. Như nhà văn Bùi Hiển đã tả trong truyện ngắn “Ma Đậu” viết năm 1940, để ngăn cản ma đậu tấn công thì nhà giàu thời ấy phải thuê người canh gác, không cho ma đậu vào nhà, người trong nhà đi đâu về là bị buộc phải xông lá mỳ kỵ và bị vụt roi dâu tới tấp để trừ ma. Tính đến lúc này thì căn bệnh do Trung Quốc mang vào này đã hành hạ dân tộc ta suốt 2000 năm.

Sử gia Trương Giáp-Phong (Chia-Feng Chang), hiện là Giáo sư tại Đại học Quốc gia Đài Loan – trong luận án tiến sĩ “Những khía cạnh của bệnh đậu mùa và vai trò của nó trong lịch sử Trung Quốc” (Aspects of Smallpox and Its Significance in Chinese History) trình tại Viện Đại học London năm 1996 – đã kết luận rằng đoàn quân xâm lược của Mã Viện (Ma Yuan) đã gieo rắc bệnh đậu mùa tại vùng Hoa Nam và Việt Nam trong cuộc hành quân trấn áp cuộc nổi dậy của Hai Bà Trưng.

Do thiếu tài liệu, chúng ta không biết dịch này phát tán ra sao khi tên tướng họ Mã tiến vào. Phải đợi đến mười mấy thế kỷ sau, các danh y Việt Nam như Tuệ Tĩnh, Hải Thượng Lãn Ông, mới bắt đầu mô tả về bệnh này.

Kể ra, căn bệnh này cũng đã gây những tác động nào đó đến lịch sử cận đại Việt Nam.

Hoàng tử Cảnh, con trưởng của Gia Long, đã mất vì đậu mùa năm 1801, một năm trước khi cha mình chiến thắng Tây Sơn và lên ngôi vua.

Vua Tự Đức (1829 –1883) cũng bị đậu mùa từ nhỏ, dẫn đến thể trạng yếu đuổi và yếu sinh lý, không có con. Ông vua yếu ớt về thể trạng này lại trị vì giữa lúc đất nước bước vào một giai đoạn khó khăn, chưa bị xâm lăng thì phân vân giữa xu hướng cải cách và bảo thủ, bị xâm lược rồi thì lại giằng xé giữa hai phe chủ chiến và chủ hòa.

Không con, Tự Đức phải tự dựng văn bia tại lăng mộ mình, trong đó đã tự trách mình về việc để mất nước: “Ngu mà mong yên ổn, mờ tối không lo phòng bị từ khi việc chưa phát, tôi hay tướng giỏi cũng đã rơi rụng quá nửa, không ai nhắc nhở lời dạy của vua cha về việc đề phòng mặt biển đến giúp ta tránh khỏi chỗ lỗi lầm”.

Ông còn tự phê về triều đại mình: “Thanh dung thịnh nhi võ bị suy, nghị luận đa nhi thành công thiểu”, nghĩa là “Bề ngoài hào nhoáng nhưng quân sự suy yếu, bàn luận nhiều mà thành công ít.”

Lời tự phê này hẳn là, nói bằng ngôn ngữ thời thượng trên báo chí nước ta, vẫn “còn nguyên tính thời sự”.

Như cuộc diễu binh “hoành tráng” nhân dịp 50 năm ghẻ ngứa tung hoành.

Rầm rầm rộ rộ tướng quân để mà làm gì khi để mặc cho Trung Quốc lẳng lặng mang cờ lên đảo ta tuyên bố chủ quyền?

Nói theo Tự Đức thì đó là “ngu mà mong yên ổn”, là “nói rất nhiều mà công dụng chẳng bao nhiêu ..”


Nguyễn Hoàng Văn, born in 1965, Vietnam. The writer, journalist and essayist currently resides in Western Sydney, Australia.

Dỗi hờn, từ tự ái cá nhân đến phẩm giá quốc gia | Nguyễn Hoàng Văn

Sydney Harbour Bridge, Sydney, Australia. Photography by Nguyễn Thị Phương Trâm

Sydney, Australia March 3, 2025

Dỗi hờn, từ tự ái cá nhân đến phẩm giá quốc gia

Đọc Thượng Đế thì cười của Nguyễn Khải, cuốn hồi ký như một thiên tùy bút với những hờn dỗi cá nhân khi từng phận đời bị cuốn vào vòng xoáy của thế thời, tôi chợt nghiệm ra những hệ lụy lớn lao liên quan đến cái tính khí thường tình này của con người.

Bắt đầu từ cái dỗi của những nạn nhân trong vụ án Nhân Văn khi được Hội Nhà văn mời hồi tịch vào năm 1987. Bị khai trừ và cấm xuất bản ba năm, tính từ năm 1958, thế mà mất ngót nghét ba mươi năm vật vờ bên lề xã hội, sau khi biến động chính trị glasnost và perestroika từ Moscow lan tới Hà Nội, câu chuyện oan khuất của họ mới được lật lại và, lúc này, họ đâm… dỗi. Vào lại Hội để làm gì? Hội có bảo vệ được chúng tôi khi hoạn nạn? Nhưng dỗi thì dỗi, làm người, họ khó mà thoát khỏi những ràng buộc của việc sống nên cuối cùng cũng thỏa hiệp để rồi, sau đó, lại lai rai những cái dỗi lặt vặt mà, nhìn kỹ, cũng sự cuộn quay của cái vòng xoáy thế thời. [1]

Như Trần Dần, khi ốm. Được Hội cho xe hơi đến tận nhà đưa đi khám bệnh, nhà thơ … lại dỗi, đòi đi xích lô, bảo chỉ “thích đi xe của dân chứ không thích đi xe của quan”. Nhưng khi đại diện của Hội, Nguyễn Khải, mang cuộc sống của vợ con đặt trên bàn cân, “Anh không thích nhưng vợ con anh thích. Ông Trần Dần đi khám bệnh bằng xe hơi thì của Hội thì người hàng phố sẽ nhìn gia đình anh bằng con mắt khác, nói năng với vợ con anh cũng bằng con mắt khác”, nhà thơ của chúng ta lại xiêu lòng. [2]

Chớ vội bảo đó là chuyện vặt bởi vẫn còn có những ý nghĩa xã hội và… vòng xoáy thế thời. Người ta dỗi là do nghĩ rằng mình, hay vợ con mình, không được tôn trọng. Cơn dỗi kia có xiêu đi là do cái “cận ảnh” về gia đình mình được sống ngửng đầu, không phải dè dặt cúi xuống dưới những ánh mắt xỉa xói hay e dè, không dám giây vào, như mấy chục năm qua. Nhưng “thế thời” phải thế nào thì con người mới ăn ở với nhau như thế, vừa hèn mạt với mình vừa tệ mạt với người không may, phải sống lủi thủi một bên lề? Và đó, có lẽ, cũng là lý do để Nguyễn Tuân, sau những lần “cúi đầu” trong các cuộc kiểm điểm ở cơ quan, lại tìm đến bạn bè để… dỗi: “Thế này thì mình xin ra khỏi đảng”? [3] Dỗi đảng sao không tìm đến đảng, lại lủi thủi dỗi suông bên lề, ở chỗ bạn bè thân tình? Đây, có lẽ, chỉ là cách để xả bớt những ẩn ức và nhà văn, như một người “biết sợ để sống”, cũng biết “cúi đầu” trong những cuộc họp kín của chi bộ để, trong cuộc sống mở với xã hội, có thể tồn tại với cái cổ được ngửng thẳng lên.

Nguyên Hồng thì khác. Bị kiểm điểm tơi bời như là Tổng biên tập tạp chí Văn, vốn bị cáo buộc là “Nhân Văn ngóc đầu dậy”, nhà văn cương quyết không nhận sai, không chịu kiểm điểm. Kiên nhẫn giải bày mà chẳng lọt được tai ai thì… dỗi, “Ông đéo chơi với chúng mày nữa”. Nguyên Hồng bỏ biên chế, bỏ hộ khẩu thành phố, đưa mẹ già cùng vợ và đàn con nheo nhóc trở lại vùng núi, nơi từng cư ngụ thời chống Pháp sống một cuộc đời gian nan, khổ sở. Sống khổ đến độ, khi qua đời, “nhà chỉ còn năm bơ gạo, một con gà nhỏ, trong túi còn đúng 20 đồng”, cả cỗ quan tài cũng phải vay của hàng xóm. [4]

Nếu đó là cái dỗi của cá nhân với thiết chế thì, giữa cá nhân với cá nhân, cái dỗi vẫn bị cuộn xoat trong vòng xoáy thế thời như khi Nguyễn Trọng Oánh gặp lại Nguyễn Khải. Từng là bạn bè thân thiết thuở đầu xanh, mới về tạp chí Văn nghệ Quân đội vào cuối thập niên 1950, chia tay năm 1966, người ở lại thủ đô, người tan loãng trong chiến trường Nam bộ và đến tháng Năm năm 1975 mới gặp lại tại Sài Gòn vậy mà chẳng có cái bừng bừng của niềm vui hội ngộ, chỉ là sự ghẻ lạnh với “ánh mắt cứ nhìn chéo đi như ghét lắm, giận lắm”. [5]

Trong cái nhìn của Nguyễn Khải thì đây là cái dỗi của kẻ bị đày ải chiến trường mấy mươi năm, lăn lộn với bao điều phải chống đỡ nên chỉ có thể làm một “người viết nghiệp dư” so với người hậu phương, không cần ra chiến trường mà có thể viết về chiến tranh như thật, thậm chí hay hơn. Nhưng, theo những gì mà Nguyên Ngọc kể lại trong Đồng Bằng, thì đó còn có thể là sự cay đắng của người trả giá với kẻ hưởng lợi trên sự thua thiệt của mình. Bệnh nặng giữa chiến trường gian khổ, khoảng năm 1970-71 Nguyễn Trọng Oánh được cấp trên cho về thủ đô chữa bệnh nhưng chỉ biết chờ, chờ và chờ, chờ mãi cho đến khi hết… chiến tranh bởi những đồng đội ở hậu phương như Nguyễn Khải luôn thoái thác, vịn cớ này cớ kia để bám chặt hậu phương, không chịu thay thế người anh em đang kiệt sức nơi đầu sóng ngọn gió. Năm năm chờ đợi với bệnh tật trong gian khổ, thiếu thốn thì sức đã cạn kiệt và, chút tình nghĩa ban đầu, nếu có, cũng khó mà nguyên vẹn. [6]

Cái dỗi đó, xa hơn, còn dẫn đến những đấu đá quyền lực phe phái gay gắt, tiền tuyến và hậu phương; cái giềng mối xung đột mà, ngay từ đầu, nhà lãnh đạo tối cao Lê Duẫn đã lo xa, khi cố nhấn mạnh với giới lãnh đạo miền Nam rằng chiến công là chung “của cả nước”. [7] Mà cả ông, người ở hậu phương, cũng có cái dỗi của mình, như khi không chịu ngồi vào bàn tiệc mà các cán bộ phụ nữ tại Sài Gòn bày sẵn. Huy Đức, trong Bên Thắng Cuộc, kể:

‘Sáng mùng Một Tết Bính Thìn (1976) bà Nguyễn Thị Thập bên Hội Phụ nữ mời tiệc, ông Lê Duẩn tới, mâm cỗ đã “bày la liệt” nhưng ông không ngồi vào bàn. Khi các nữ lãnh đạo hội mời, ông nói: “Ăn Tết làm gì, con cái miền Bắc chết ở Trường Sơn chưa ai nói tới đã nói là dân miền Bắc vào đây vơ vét hàng hóa”. Theo ông Đậu Ngọc Xuân thì trước đó khi nghe bên công an báo cáo “miền Bắc vào đây vơ vét từ cái quạt máy, xe đạp”, ông Lê Duẩn tức lắm nhưng ngay khi đó ông không nói gì.

Bà Bảy Huệ, phu nhân của ông Nguyễn Văn Linh, đỡ lời: “Thưa anh Ba, đấy chỉ là số ít. Chúng em không bao giờ nói thế”. Ông Lê Duẩn tiếp: “Các chị không nói nhưng nghe ai nói phải vả vào mặt họ chứ. Có những việc ở trong này tôi đã phải giấu đồng bào miền Bắc, ví dụ như chuyện các chị để cho bộ đội chết đói ở Trường Sơn. Xương máu con người ta, người ta không tiếc, giờ mua cái quạt thì các chị kêu ca”. Theo ông Đậu Ngọc Xuân, nghe ông Lê Duẩn nói đến đó, “các chị Nam Bộ khóc như mưa”.’ [8]

“Vả vào mặt”, vậy thì đâu là chỗ đứng của “pháp chế xã hội chủ nghĩa”? Khó mà tin rằng những lời đôi co như thế này lại bật ra từ miệng một nhà lãnh đạo, bật cả với những phụ nữ nên, ở đây, ông Duẫn đã “tức” một cách rất… bình thường:

‘Trước năm 1975, nhiều cán bộ miền Nam ra thăm miền Bắc đã hết sức ngỡ ngàng khi nhìn thấy cảnh nghèo nàn của “hậu phương lớn”. Một lần, Ban Thống nhất thấy tâm trạng của các đại biểu miền Nam không vui, lãnh đạo ban nói với ông Đậu Ngọc Xuân, thư ký của “anh Ba” Lê Duẩn: “Các đồng chí ấy nói không tốt về miền Bắc, anh về nói anh Ba nên gặp họ”.

Theo ông Đậu Ngọc Xuân: “Tôi về nói: ‘Có đoàn ra thăm’. Anh Ba gật đầu: ‘Tốt’. Tôi thưa: ‘Kết quả ngược lại, các đồng chí bên Ban Thống nhất nhờ anh gặp làm công tác tư tưởng trước khi họ về’. Anh Ba cho mời họ tới, đoàn gồm hai phụ nữ và ba nam. Anh Ba hỏi: “Các đồng chí ra thăm miền Bắc thấy gì?”. Họ thật lòng nói, đi thăm chợ Đồng Xuân mà không thấy hàng hóa gì cả, miền Bắc nghèo quá. Anh Ba nói: “Các đồng chí không hiểu. Cái giàu có, cái vĩ đại của Miền Bắc là ở chỗ gia đình nào cũng có bàn thờ, con họ vào Nam là đi vào chỗ chết, thế mà họ vẫn đi, trong khi ở lại thì được đi Liên Xô, Trung Quốc.”’ [9]

Không cần viện đến tâm lý học, chỉ theo nghĩa lý thông thường thôi, có thể thấy ngay rằng đó là căn cớ cho cái sự “tức lắm” của ông ta. Miền Bắc do ông lãnh đạo “nghèo quá”. Người miền Bắc, trong ghi nhận của Công an Sài Gòn năm 1976, có vào Nam thì, chủ yếu, là để “vơ vét”. Đề cập đến điều này là chạm đến điểm nhạy cảm nhất của ông, như là mặc cảm về sự bất tài. Ông “tức” nhưng chỉ biết im lặng bởi đó là sự thật, rành rành. Nhưng càng im lặng thì cảm xúc càng dồn nén và, trước cái mâm cỗ “la liệt” như gián tiếp nói lên sự phồn thịnh của miền Nam lúc ấy, nó có bục ra thành cơn dỗi, khiến ông chịu ngồi vào bàn tiệc cũng là điều dễ hiểu.

Nhưng có dỗi thì, bất quá, ông chỉ khiến những phụ nữ Nam Bộ “khóc như mưa”, cũng chẳng chết ai. Đáng nói là những cái dỗi cực kỳ nguy hiểm, có thể nướng sạch cả một sư đoàn, chưa kể những dân lành bị vạ lây bởi tên bay, đạn lạc.

Đó là Đà Nẵng trong cuộc “Tổng tấn công và nổi dậy” Tết Mậu Thân mà, trận mở màn vào đêm trừ tịch, đã bị thảm bại khi một tiểu đoàn tinh nhuệ của tỉnh Quảng Đà, gom lại, chỉ hơn hơn một trung đội. Nhưng Chính ủy Mặt Trận, ông Trương Chí Cương — bí danh Tư Thuận, Phó Bí thư Khu ủy Khu 5, Ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng – chỉ nhìn vấn đề qua lăng kính chính trị. Thời cơ lịch sử đã đến, phải nắm lấy ngay. Sài Gòn và Huế đã vùng lên, Đà Nẵng phải chia lửa và đơn vị chủ công, Sư đoàn 2, phải đánh thẳng vào mặt quân thù. Nhưng chỉ huy sư đoàn, ông Giáp Văn Cương, sau là Tư lệnh Hải quân, lại nhìn bằng con mắt quân sự. Đã mồng Năm Tết rồi, yếu tố bất ngờ không còn nữa. Đà Nẵng lại có lực lượng phòng thủ hải lục rất mạnh, đánh thẳng vào đó là tự sát. Nhưng một sư đoàn trưởng sao có thể cãi lệnh một “trung ương dự khuyết ủy viên” nên, ở đây, ông chỉ có thể… dỗi: nếu bị buộc phải đánh thì, được thôi, sẽ chơi luôn, chơi láng, chơi tới “người lính cuối cùng.”

Người ta dỗi là do tự ái và, ở đây, theo nhân chứng Nguyên Ngọc, thuộc tổ phái viên quân khu có nhiệm vụ theo dõi chiến trường và liên lạc: “Tự ái của hai người có thể giết sạch cả một sư đoàn.” Thảm họa không diễn ra nhờ vào sự dũng cảm và sáng suốt của một thuộc cấp rất bé, tổ trưởng phái viên với sự hậu thuẫn của toàn tổ, dám đối mặt với án tử hình tại mặt trận khi thủ tiêu lệnh “dứt khoát phải đánh ngay” của nhà chỉ huy chính trị. [10]

Mâu thuẫn nảy sinh là do sự khác nhau trong cách vận hành cuộc chiến và, đến đây, tôi lại nghĩ đến sự ra đi có thể vì lý do tương tự của ông Nguyễn Chí Thanh. Sự ra đi này, vào năm 1967, đã mở ra một chương đời bi thảm cho người vợ, bà Nguyễn Thị Cúc. [11] Từ khi chồng mất cho đến cuối đời góa phụ này không bao giờ nở được một nụ cười. Ngày 30/4/1975, theo người con trai, bà “ngồi ở một góc tối trong bếp, lặng lẽ khóc một mình” và phản ứng này, trong hoàn cảnh ấy, là chuyện thường tình. Nhưng đáng nói là phản ứng sau đó khi ông Văn Tiến Dũng mời cả nhà vào Sài Gòn dự lễ mừng chiến thắng vào ngày 15/5/1975 nhưng bà dỗi. Bà không chịu đi, chỉ để ba đứa con nhỏ mở mang tầm mắt và cái dỗi của cá nhân này, hẳn nhiên, chất chứa sức đè của những giềng mối chính trị phức tạp với tầm vóc quốc gia.

Tướng Thanh, trong lời lẽ của bà, là người “chưa hề bị bệnh tim” nhưng đã chết “tức tối” vì “lên cơn đau tim”, giữa những phân hóa nội bộ. Đầu tiên là sự phân hóa Xô -Trung mà phần thắng nghiêng về phái khuynh Trung chủ chiến, trong đó có ông Thanh. Nhưng đến lượt mình thì phái chủ chiến cũng phân hóa bởi cách thực hiện cuộc chiến; hoặc là “tổng công kích – tổng nổi dậy” tại các thành phố lớn theo chiến lược của Lê Duẫn; hoặc chỉ chờ thời, né tránh những thành phố có hệ thống phòng thủ kiên cố, chỉ công kích những vị trí lỏng lẻo như Tây Nguyên, theo Võ Nguyên Giáp? [12]

Là người trực tiếp điều hành cuộc chiến ở miền Nam nhưng ngả về đường lối quân sự của Võ Nguyên Giáp, ông Thanh, người chưa hề đau tim, đã bất ngờ “lên cơn đau tim” ngay trước khi trở lại miền Nam và, thế là, chỉ năm tháng sau đó, “học thuyết quân sự” của Lê Duẫn biến thành hiện thực với cuộc “tổng tiến công và nổi dậy” nói trên. Không biết bà vợ góa của ông Thanh có nhìn ra cơn cớ này hay không nhưng, rõ ràng, bà tin chắc rằng chồng mình đã chết một cách “tức tối” và “vô lý”.

Người được góa phụ này tỏ bày gan ruột là Giáo sư Nguyễn Thị Ngọc Toản, lúc ấy là Bác sĩ tại Quân y viện 108, là người được chính ông Thanh “giác ngộ” khi còn trẻ, lại là người tham gia chữa trị, chứng kiến cảnh ông Thanh trút hơi thở cuối cùng và cũng người ngờ vực “chưa nghe anh bị tim mạch bao giờ”. [13]

Lần theo dấu chân nhân chứng đặc biệt này sẽ khám phá những cái dỗi tương tự, khi từng cá nhân phải lặn hụp trong vòng xoáy đầy bất trắc của thiết chế . Bà là vợ tướng Cao Văn Khánh, người mà, bất kể những chiến công lẫy lừng, lẹt đẹt mãi với lon đại tá từ năm 1947 đến năm 1971 vì thành phần gia đình và, sau đó dẫu có lên tướng, vẫn luôn là cấp phó mà, thậm chí, còn phải sống e dè vì bị đưa vào “danh sách đen” trong cuộc phân hóa Xô – Trung. [14] Những oan trái như thế, phải chăng, là lý do để bà dỗi, từ chối mộ phần “tiêu chuẩn” mà thiết chế dành cho chồng, tại Nghĩa trang Mai Dịch? [15]

Và cả người con trai, một sĩ quan không quân tốt nghiệp ở Liên Xô nhưng từ bỏ tương lai hứa hẹn “xin ra khỏi quân đội làm một công dân bình thường, làm những gì mình tin tưởng và tôn trọng”. Sĩ quan này đã dỗi như thế sau khi tướng Lê Trọng Tấn, được anh xem như là người cha thứ hai, qua đời một cách tức tưởi vào cuối năm 1986 giữa lúc sắp sửa thay ông Văn Tiến Dũng ở vị trí Bộ trưởng Quốc phòng. [16] Có dỗi thì người con này, qua chính lời anh ta, đã dỗi vì niềm tin của mình đã bị chà đạp, phản bội. Những cái dỗi như thế không hề là lối hành xử của trẻ con hay của những người già quá “hóa trẻ con” mà chúng ta thường cho là không nên. Dỗi, trong những trường hợp như thế, chính là biểu hiện của lòng tự trọng, của một niềm tin sắt đá. Dửng dưng, không biết dỗi trước những điều như thế, mới là điều không nên.

Và tôi, chợt, nghĩ ngay đến sự thản nhiên không nên có của những thực khách ăn mặc lịch lãm nhưng lại gằm mặt xuống sì sụp miếng ngon giữa trong tiếng mắng chửi xối xả của những hàng quán ‘bún mắng, cháo chửi”. [17]

Chuyện như thế, nếu chỉ nghe suông, thì thấy khó tin bởi làm sao con người có thể vì miếng ăn mà tự hạ thấp phẩm giá của mình đến thế? Khó tin nhưng lại rất thực trên một xứ sở có quá nhiều chuyện khó tin. Với quyền lực trong tay, kẻ có quyền thản nhiên thao túng sinh kế của người bất đồng với mình, dẫm đạp không thương tiếc cả gia đình họ được thì, với quyền lực từ một bí quyết nấu nướng nào đó, tại sao bọn này không thể cửa quyền, không thể dẫm lên nhân phẩm của kẻ đang cầu cạnh miếng ăn ngon?

Khó tin nhưng có thực, vấn đề càng đáng báo động khi nó được xem như một thứ “văn hóa đặc thù” bởi, nếu thế, điều đó đã trở thành là thói quen của tập thể, cộng đồng. [18] Như một cộng đồng, khi đã dưng dưng để cho người khác chà đạp phẩm giá của mình chỉ vì miếng ngon thôi thì, vì những lợi lộc cao hơn, cũng sẽ dễ dàng cho phép kẻ khác cướp đoạt phẩm giá của dân tộc mình.

Mà, từ chỗ dửng dưng trước cảnh phẩm giá của quốc gia bị chà đạp đến sự dửng dưng, vô cảm khi chủ quyền tổ quốc bị tước đoạt hay phát mại, chỉ là một chặng đường rất ngắn.

Tham khảo:

  1. Nguyễn Khải (2012) Thượng đế thì cười, NXB Trẻ, (trang 163-164)
  2. Nguyễn Khải, sđd, trang 164
  3. Tô Hoài (2013), Cát bụi chân ai, Hội nhà văn – Công ty sách Phương Nam, chương 7, trang trang 78
  4. https://www.vinadia.org/hoi-ky-nguyen-dang-manh/hoi-ky-nguyen-dang-manh-nguyen-hong/
  5. Nguyễn Khải, sđd, (173-174)
  6. https://vanviet.info/van/nguyen-trong-onh/
  7. Huy Đức (2012), Bên Thắng Cuộc I – Giải phóng, Osinbook, trang 252

Sau năm 1975, việc bố trí cán bộ tại miền Nam hình thành theo nguyên tắc bất thành văn “Nhất trụ, nhì khu, tam tù, tứ kết”. Ưu tiên một là cán bộ đã “bám trụ” tại chiến trường; thứ hai là cán bộ làm việc ở Trung ương cục (R) hay các khu ủy, tỉnh ủy; ba là cán bộ đã đi tù. Cán bộ tập kết là hạng bét.

  1. Huy Đức, sđd, trang 253
  2. Huy Đức, sđd, trang 252
  3. Tổ phái viên đồng ý với quan điểm của ông Giáp Văn Cương và ông Lê Viết Thanh, tổ trưởng, đã xé bỏ lệnh đánh, tuyên bố sẽ nhận trách nhiệm (có thể sẽ bị xử bắn), và cả tổ đồng ý sẽ nhận trách nhiệm tập thể. Thay vào đó, họ truyền lệnh miệng là chỉ dùng hai đại đội đánh thăm dò ven sông Hàn. Sau này ông Thanh đã thú nhận trong hội nghị tổng kết chiến dịch, tuyên bố sẵn sàng nhận mức kỷ luật cao nhất và vấn đề được bỏ qua.
  1. https://dantri.com.vn/xa-hoi/loi-hua-nuoi-nguyen-chi-vinh-nen-nguoi-cua-cac-uy-vien-bo-chinh-tri-20220426015734706.htm
  2. Cao Bảo Vân (2021), Tướng Cao Văn Khánh, NXB Tri thức, trang 467-468
  3. Cao Bảo Vân, sđd, trang 465
  4. Cao Bảo Vân, sđd, trang 465
  5. Cao Bảo Vân (sđd), trang 33
    Lời bà Nguyễn Thị Cúc, ngay sau khi Nguyễn Chí Thanh chết: “Sao mà vô lý thế Toản ơi, anh có khi mô bị tim. Chiều nay là chuẩn bị đi vào B. răng lại chết tức tối thế.”
  6. Cao Bảo Vân (sđd), trang 775.
  7. https://vnexpress.net/https-vnexpress-net-chap-nhan-nghe-chu-quan-chui-de-duoc-an-ngon-4447237-html-4447237.html
    https://vietnamnet.vn/vn/kinh-doanh/thi-truong/bun-mang-chao-chui-tren-duong-pho-ha-noi-678489.html
  8. https://spiderum.com/bai-dang/Bun-mang-chao-chui-net-van-hoa-doc-la-giua-long-thu-do-k3z

https://vanviet.info/van/doi-hon-tu-tu-ai-ca-nhan-den-pham-gia-quoc-gia/

Hai vụ, trên hai vùng đất và ở hai thời kỳ hoàn toàn khác nhau, cách xa hơn bốn thế kỷ, nhưng rất gần nhau ở thế cách xã hội đối xử với những nạn nhân mà, nói gọn, là “văn hóa hiếp dâm”: sau khi bị hãm hiếp về thể chất như một phụ nữ, nạn nhân còn tiếp tục bị hãm hiếp về mặt tinh thần như một công dân hay một thành viên của cộng đồng.

Gentileschi đã bị Agostino Tassi — một họa sĩ bề trên, bạn của bố và là thầy dạy vẽ của mình — hãm hiếp năm 17 tuổi mà không làm gì được bởi “văn hóa hiếp dâm” và sự bảo trợ chính trị nên, do đó, chỉ có thể trút hết căm hờn vào cây cọ để, giữa cái thời mà nữ giới bị cấm học hội hoạ, đã vươn lên thành một tên tuổi lớn vượt khỏi biên giới của nước Ý rồi, vượt qua thời gian để ngày nay được nhìn nhận như là nữ họa sĩ hàng đầu của thời kỳ Phục Hưng. [2]

Một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất của Gentileschi là “Judith chém đầu Holofernes”, thực hiện đến hai lần, dựa vào câu chuyện trong Cựu Ước. Nếu bộ kinh này, trên phương diện sử học, là “đại tự sự” đã giúp các bộ lạc Do Thái thống hợp thành Vương quốc Israel thì, khi tái tạo câu chuyện với ý đồ giải quyết oán thù bằng nghệ thuật, phải chăng Gentileschi đã mở đường cho “tự sự” của những nạn nhân hãm hiếp, với một mỹ học của bạo lực và đạo hạnh cho sự báo thù? [3]

Holofernes là viên tướng cầm đầu đoàn quân Assyria đang chuẩn bị làm cỏ thành Bethulia, quê hương của Judith, và góa phụ này đã trở thành một anh hùng khi vận dụng sắc đẹp và trí thông minh để cùng người hầu gái vào tận bản doanh kẻ thù cắt cổ kẻ thù. Sự tích này được nhiều họa sĩ Phục Hưng khai thác nhưng, trong khi toàn bộ những họa sĩ khác, đều là nam giới, kể lại câu chuyện bằng thì quá khứ với cái đầu của Holofernes đứt lìa khỏi cổ thì “ngữ pháp” trong tranh của Gentileschi lại là “hiện tại tiếp diễn”. Lúc này thì cái cổ của kẻ thù chỉ mới bị cắt có phân nửa và, trong bức thứ hai, máu đã phụt lên giữa lúc hai mắt trợn trừng, chưa chết hẳn.

Oán hờn từ vụ hãm hiếp đã được ký thác vào tác phẩm với nhân vật Holofernes mang khuôn mặt của kẻ hãm hiếp Agostino trong khi Judith lại giống hệt Gentileschi, thêm vào cái vòng đeo tay chạm hình nữ thần Artemis, gợi nhắc cái tên Artemisia Gentileschi. Sự dữ dội của cuộc báo thù còn bộc lộ trong sự tương phản ở khuôn mặt đau đớn và thất thần của Holofernes bên cái nhìn bình thản đến lạnh lùng pha lẫn sự khinh bỉ, nhờm tởm của Judith, lại còn chưng diện như dự vũ hội.

Trong khi bố cục hướng đến sự đau đớn của kẻ thù thì cách phối màu tô đậm sự bạo liệt và kịch tính. Chân Holofernes bên trái, cánh tay của người hầu gái và cánh tay của Holofernes ở giữa, hai cánh tay của Judith bên phải, làm thành sáu đường thẳng hướng về khuôn mặt đau đớn của Holofernes. Và tấm chăn đỏ sẫm, tay áo đỏ của người hầu gái, cùng viên đỏ trên tay áo Judith, tất cả tạo thành một vòng cung bao trùm trên những dòng máu phun lên theo hình vòng cung mà, nói theo Lê Anh Xuân, là “phun theo lửa đạn cầu vồng”.

Trong khi đó thì thanh gươm hóa kiếp Holofernes, trong tay Judith, được chĩa xuống như một cây Thánh Giá, biểu tượng của sự cứu chuộc và đạo hạnh. Nếu Thánh Giá luôn đi đôi với Kinh Thánh thì, ở đây, có ai mà không biết đến sự chứng nhận cho công lý báo thù: “Give life for life, eye for eye, tooth for tooth, hand for hand, foot for foot.”? [4] Nếu tác phẩm của thế kỷ 17 này thể hiện một “mỹ học của báo lực” và “đạo hạnh của sự báo thù” với tội phạm hiếp dâm thì, nhiều thế kỷ sau, chúng ta lại chứng kiến sự hình thành của nó như một thể loại riêng, trong văn học và đặc biệt là điện ảnh.

Đầu tiên là Tess of the D’Urbervilles của Thomas Hardy, tác phẩm kinh điển của văn học hiện thực Anh, xuất bản lần đầu năm 1891, phơi bày khúc chiết những bất công xã hội. [5] Tess Durbeyfield, một thôn nữ xinh đẹp, bị kết án treo cổ bởi đã giết chết Alec, một tên nhà giàu hãnh tiến và phóng đãng, đã hãm hiếp cô năm 16 tuổi rồi sử dụng quyền lực kinh tế để thao túng cô như một nô lệ tình dục. Sau nhiều biến chuyển éo le của cuộc đời, Tess đã dùng dao kết liễu kẻ đã làm tan nát đời mình nên bị thiết chế chính trị đáp trả bằng sợi dây thừng treo cổ.

Câu chuyện thảm khốc với “đạo hạnh của sự báo thù” này, dẫu “có hậu” trong cái nhìn của nhà cai trị, vẫn bị xã hội Anh phản ứng dữ dội, chưa thể chấp nhận nổi. Nhưng thế kỷ 20 thì khác và, đặc biệt, sau hai cuộc cách mạng — tình dục của thập niên 60 và nữ quyền của thập niên 70 — là sự bùng nổ của thể loại “trả thù hiếp dâm” trong điện ảnh mà, trong đó, gây tranh cãi nhất, có lẽ là I Spit on Your Grave, của đạo diễn Meir Zarchi, ra mắt năm 1978.

Jennifer Hills, một nhà văn, bị hãm hiếp tập thể và đã lần lượt trả thù, cực kỳ tàn khốc. Kẻ đầu tiên bị cô mồi chài, vờ vịt cho hắn làm tình rồi thừa cơ treo cổ. Tên thứ hai cũng bị dụ bằng bẫy tình: cô thủ dâm cho hắn và, đợi đến cao trào, khi hắn lim dim mơ màng chực lên mây, đã bị con dao bén đưa về thực tại, cơ quan sinh dục bị tùng xẻo đến nát bấy. Hai tên còn lại thì bị rửa hờn thù y như những phim hành động khác, đầy kịch tính trong bối cảnh sông nước. Phim này, do đó, gây nên nhiều tranh cãi và năm 2010, bị tạp chí The Time liệt vào danh sách “10 phim bạo lực lố bịch nhất” (Top 10 Ridiculously Violent Movies).

Như thế, xét về “mỹ học của bạo lực”, phim có thể non kém nhưng trên khía cạnh “đạo hạnh của sự báo thù” nó rất thành công nên mới sống dai, được nối dài với tập II vào năm 2013, tập III vào năm 2015 rồi, bốn năm sau, 2019, là I Spit on Your Grave: Déjà vu một phiên bản kế tục nguyên bản. Nếu “mỹ học của bạo lực” thuộc về tài năng của đạo diễn và diễn viên thì “đạo hạnh của sự báo thù” thuộc về sự chấp nhận của công chúng và đó là điều mà chúng ta có thể nhìn thấy ở hàng loạt tác phẩm, hạng A hay hạng B, trong hay ngoài Hollywood, với một đề tài. [6]

Nguyên thủy, I Spit on Your Grave mang tên Day of the woman và đây, có lẽ, cũng nên là tên của “Judith chém đầu Holofernes” bởi, chính trong tác phẩm thực hiện vào thế kỷ 17 này, chúng ta có thể nhìn ra những tín hiệu của chủ nghĩa nữ quyền.

Đó là vai trò của người hầu gái, rất khác với những nam họa sĩ ở cùng một đề tài. Thường thì người hầu gái vắng mặt và, nếu có, chỉ đóng vai rất phụ, bất quá chỉ là bê cái khay đặt thủ cấp Holofernes thế thôi. Nhưng với Gentileschi thì cô ta đã xắn tay áo hành động, ghì chặt, không cho kẻ thù vùng vẫy để Judith tóm tóc đè đầu mà cứa cổ.

Văn khố được bảo toàn trọn vẹn từ thế kỷ 17 cho thấy rằng khi bị hiếp Gentileschi đã cố sức kháng cự, dùng cả dao nhưng vẫn thua cuộc; rằng Gentileschi đã kêu cứu nhưng cô hầu gái vắng mặt mà, theo suy đoán, có thể đã bị Agostino mua chuộc. Vóc dáng võ biền của Holofernes lại hoàn toàn lấn át cho dù hai nhân vật nữ không hề nhỏ con và, phải chăng, thông điệp muốn phát ra, là sự bất cân xứng về thể chất giữa nữ giới và nam giới nên, do đó, muốn chiến thắng, nữ giới phải hợp lực, dứt khoát, và quyết đoán?

Nếu thế thì đây, nhất định, là sự khởi đầu của chủ nghĩa nữ quyền. Tác phẩm được thực hiện để trút bỏ sự căm hận của Gentileschi mà đỉnh cao là hơn bảy tháng xét xử đầy đau đớn, thể chất lẫn tinh thần. Theo pháp luật thời đó, Gentileschi đã bị nhục hình bằng sibille, công cụ siết ngón tay bằng nẹp gỗ và dây thừng, từng lời chất vấn của tòa “Đó có phải là sự thật?” là từng cú siết để nạn nhân bật lên tiếng gào đau đón mà năm thế kỷ sau trở thành tên của vở kịch, It’s True, It’s True, It’s True. [7]

Agostino không hề ra tòa như một nghi can hình sự bởi thời đó, ở Ý, hành vi này chưa bị xem là tội phạm và, nếu chấp nhận lấy nạn nhân làm vợ như đã hứa, sự việc sẽ ổn thỏa. Nhưng y đã nuốt lời, và y bị kiện ra tòa như một chuyện tranh chấp dân sự bởi làm ô uế danh tiếng gia đình Gentileschi, đã phá đời cô, khiến cô không thể lập gia đình. Trong khi Agostino rung đùi ở tòa như một bị đơn dân sự, nguyên đơn Gentileschi lại bị đối xử như là tội phạm khi bị nhục hình để bảo đảm rằng chỉ khai ra sự thật. Thậm chí, cả khi bị thua kiện, Agostino cũng chẳng hề hấn gì ngoài việc phải lánh mặt thành Rome một thời gian bởi được Giáo Hoàng Innocent X che chở. [8]

Nếu đó là “văn hóa hiếp dâm” ở Ý vào thế kỷ 17 thì, bây giờ, qua vụ “nhà thơ hiếp nhà thơ”, và qua cách ứng xử của Hội Nhà văn, xã hội chúng ta đã khá lên được bao nhiêu? Nhưng vấn đề không nên đóng khung trong câu chuyện này mà cần nhìn xa hơn như là “văn hóa hiếp dâm”.

Bắt đầu với một chuyện cười khá phổ biến về nữ nguyên đơn trong vụ án hãm hiếp nhưng trở thành trò cười trước tòa. Bị chất vấn rằng cô thấp thế mà bị đơn cao thế, làm sao hắn có thể hiếp cô bằng cách ép vào tường, cô giải thích là lúc đó có cô… nhón chân lên. Khi nghĩ ra, khi phổ biến hay, thậm chí, khi cười hô hố trước một một câu chuyện như thế, chúng ta vừa xúc phạm đến những nạn nhân thực sự, vừa xúc phạm đến nữ giới nói chung. Và khi chúng ta xem đó là bình thường, là chuyện vui thôi thì, nói theo thuật ngữ nữ quyền, chúng ta vẫn là tiếp tục bị kềm tỏa trong bóng tối của Phallocracy, nền “độc tài dương vật trị”.

Trong câu chuyện trên, cứ cho là thật, thì tên hiếp dâm đã hoàn toàn trắng tội bởi đã đánh thức bản năng nữ giới của nạn nhân. Nhưng rõ ràng là anh ta đã xâm phạm thân thể cô nên, trên phương diện pháp lý, đó là một tội phạm hình sự phải truy tố đến cùng, bất kể là nạn nhân muốn rút lui, bãi nại. Và nạn nhân, cho dù bản năng có bị đánh thức, đó đâu phải là tội lỗi? Mà dầu là tội, nó đâu thể nào cứu chuộc thủ phạm? Trong cái nhìn nữ quyền thì đây là sự mơ hồ về ranh giới giữa tội phạm và nạn nhân trong vấn đề hiếp dâm, vấn đề mà nhà phê bình Nguyễn Hưng Quốc đã phân tích khá tường tận trong tiểu luận “Chuyện hiếp dâm và vấn đề phái tính trong văn học Việt Nam”. [9]

Bắt đầu từ ca dao, với cảnh hiếp dâm:

Hôm qua em đi hái chè

Gặp thằng phải gió nó đè em ra

Em van mà nó chẳng tha

Nó đem nó đút đầu thằng cha nó vào

Nguyễn Hưng Quốc phân tích:

“Cô gái tức tối nhưng rõ ràng là cô không thù hận cái gã đàn ông đã hiếp dâm cô. Cô gọi nó là ‘thằng phải gió’; mà ‘phải gió’, theo Từ điển Tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên xuất bản tại Hà Nội năm 1992, là ‘tiếng dùng để rủa nhẹ nhàng’ còn theo Từ điển Tiếng Việt của Văn Tân, bản in năm 1994, thì việc rủa nhẹ nhàng ấy có khi chỉ ngụ ý đùa chơi mà thôi. Chửi kẻ đã hiếp dâm mình là ‘thằng phải gió’, do đó, là một cách… tha bổng nó. Chính vì ai cũng nhận ra điều đó cho nên ai cũng xem bài ca dao ấy là một bài ca dao hài hước. Có cái gì như nghịch lý: đọc một bài ca dao kể về chuyện hiếp dâm, tức một tội ác hay một bi kịch mà không ai phẫn nộ hay xót xa gì cả. Người ta chỉ cười. Cười hả hê.

Tiếng cười ấy không những làm trắng án kẻ hiếp dâm mà còn, oái oăm thay, đảo ngược hẳn công việc luận tội: kẻ bị chê trách không phải là tội phạm mà chính là nạn nhân. Dường như tất cả những thương tổn mà cô gái phải chịu đựng về phương diện tình cảm cũng như xã hội đều nhất loạt bị mọi người xem như không có chỉ vì một lý do duy nhất là xác thịt của cô không kềm chế được những xúc động trước sự đụng chạm dù một cách thô bạo của người khác phái. Dường như, dưới mắt người đời, những sự xúc động ấy còn đáng chê cười hơn cả việc làm tồi bại của gã đàn ông dâm đãng.”

Tác giả dẫn ra nhiều thí dụ khác, như Nam Cao đã xóa tội cho Chí Phèo bởi hắn đã khêu dậy những khoái lạc xác thịt cho Thị Nỡ; như Vũ Trọng Phụng, trong Giông Tố, xem cảnh Nghị Hách hiếp dâm Thị Mịch như thể là một cảnh thông dâm và, do đó, đã “làm mờ tính cách nạn nhân” người bị hãm hiếp:

“Mịch chợt nhớ đến lúc từ con gái mà trở nên đàn bà, trên chiếc xe hơi. Cái lúc ấy thật là gớm ghiếc, thật là bẩn thỉu, thật là đau đớn, nhưng trong cơn đau đớn không phải là không có một thứ khoái lạc trong xác thịt nó làm cho đỡ thấy đau..”

Những nạn nhân bị hãm hiếp như thế, chỉ được khai thác với ý nghĩa xã hội nhằm đả kích kẻ thống trị nên, ngoài bản năng ra, họ chỉ bị xem xét như một thành phần giai cấp hay một công dân chứ không phải là một con người và, đặc biệt, là một phụ nữ.

Nếu đó những nhân vật trong trang viết hay lời truyền khẩu của dân gian thì, bước ra đời sống, chúng ta có thể gặp những nhân vật bị “từ khước tư cách nạn nhân” như thế, ngay trong câu chuyện mới nhất về “nhà thơ hiếp nhà thơ” qua cách ứng xử của Hội Nhà văn. Mà, trong khi Hội tỏ ra thờ ơ hay bị động đối phó thì, giữa dư luận xã hội, như có thể thấy rõ trên truyền thông, đó đây vẫn thấp thoáng những cái nhìn hay cái cười khinh miệt, ra vẻ cao đạo, kiểu “Tại anh, tại ả, hay tại cả đôi bên?”.

Nếu đó là lề thói điển hình của những công dân thuần trị trong một nền “độc tài dương vật chế” thì cái Hội trên lại hành xử như những thư lại quan liêu của nền “dương vật trị”. Chính vì thế, sau khi bị hãm hiếp như một phụ nữ, nạn nhân đã bị Hội hiếp thêm lần nữa, trong tư thế một hội viên hay một công dân.

Điều này có vẻ như là một nghịch lý bởi, để hãm hiếp, dù là chỉ hãm hiếp về mặt tinh thần, ít nhất cũng phải có một dương vật ra dáng dương vật nhưng, xem cách họ giả mù và giả điếc để bao che, rồi rụt rè, giả câm giả điếc khi rút lại sự bao che ấy, có ai mà nghĩ được rằng những nhà quan liêu ấy có đầy đủ thứ này?

Nhưng gì chứ nghịch lý thì đất nước chúng ta rất thừa. Đại biểu tiền phong của giai cấp vô sản mà có thể hoang phí như những ông hoàng dầu lửa Ả Rập được, tại sao những nhà quan liêu thiếu dương vật không thể hiu hiu tự đắc hay cãi chày cãi cối cho cung cách dương vật trị của mình?


Chú thích & tài liệu tham khảo:

1. https://www.bbc.com/…/20180824-the-artist-who-triumphed…

2. https://www.theguardian.com/…/artemisia-gentileshi…

Thập niên 1970, với sự trỗi dậy của chủ nghĩa nữ quyền, nhiều nhà nữ quyền đã cố bác bỏ định kiến là trong lịch sử không có nữ danh họa nào và đã phát hiện Gentileschi. Từ đó trở đi, người ta mới tìm lại được các tác phẩm của cô. Và điều may mắn là biên bản tòa án được giữ hầu như nguyên vẹn, rõ đến từng lời khai. Các thư từ và biên nhận của sở thuế cũng khẳng định thêm sự thành công của Gentileschi như một họa sĩ.

3. Khi thời kỳ Baroque kết thúc, hai tác phẩm này bị cất vào kho vì nó quá sức tàn bạo, đến tận thế kỷ 20 mới được tìm ra. Hiện hai bức tranh này được trưng bày ỏ Naples và ở Florence. Xem chú thích số 2.

4. Exodus 21:23

5. Trước năm 1975, tác phẩm này đã được Nguyễn Đan Tâm dịch sang tiếng Việt là Người tình đầu tiên, người yêu cuối cùng.

6. Có thể liệt kê hàng loạt phim như: The Last House on the Left, Dogville, Irreversible, The Girl With the Dragon Tattoo, Once Upon A Time … In Hollywood, The Nightingale, Misbehavior..

7. Xem chú thích số 2.

8. Xem chú thích số 2.

9. https://www.tienve.org/home/literature/viewLiterature.do…

https://vanviet.info/…/van-hoa-hiep-dam-my-hoc-cua-bao…/


Nguyễn Hoàng Văn, born in 1965, Vietnam. The writer, journalist and essayist currently resides in Western Sydney, Australia.

Donald Trump: Thượng Đế, Thiên Đàng và vết ố của Đức Tin | Nguyễn Hoàng Văn

Vivid Festival, Sydney Harbour, Australia. Photography by Nguyễn Thị Phương Trâm

Sydney, Australia, March 11, 2025

“Thank you, God bless you, and God bless America”, một lần nữa, trong thông điệp liên bang ngày 4/3/2025, Donald Trump lại réo tên Thượng Đế nên tôi cứ thắc mắc là, mai này, sau khi đã trút bỏ hơi thở cuối cùng, kẻ liên tục làm phiền đấng tối cao này có được phép bắt đầu cuộc đời mới ở cõi Thiên Đàng? [1]

Ai cũng mơ về cái cõi phúc vĩnh hằng này nhưng không ai thực sự có thẩm quyền mô tả cụ thể đời sống nơi đó ngoài chút manh mối từ các tài liệu truyền đạo với hình ảnh các thiên thần vỗ cánh bay bay. Nhưng chính từ cái manh mối nhỏ nhoi này mà Lâm Ngữ Đường mới cho rằng cuộc sống ở đó cũng chán chết đi được bởi, đến đó, ngoài việc bay qua bay lại rồi hát thánh ca, chúng ta biết làm gì hơn? [2] Bay chán thì hội nhóm hát thánh ca, hát chán thì lại bay, bay chán thì lại hát và khó mà tin rằng một người như Trump có thể thích ứng với cuộc sống bay bay hát hát này.

Nhưng đó chỉ là suy diễn từ hình ảnh minh họa trong các tài liệu truyền đạo và vấn đề chính là Trump có lên được trên đó hay không và tôi, qua google, phát hiện câu trả lời KHÔNG bởi, các Cơ Đốc nhân, đa số, không tin vào đức tin của Trump. [3]

Để được cứu rỗi thì phải có đức tin và tín lý này hình thành sau cuộc cải cách tôn giáo do Martin Luther (1483 -1546) khởi xướng vào thế kỷ 16, hình thành nên hệ phái Tin Lành mà, tại các vùng quê nước Mỹ, đã góp phần chính đưa Trump lên đỉnh cao quyền lực. Trước đó, Giáo Hội Vatican cổ xúy cho niềm tin về sự cứu rỗi dựa trên công quả, càng đóng góp vật chất cho Giáo hội bao nhiêu, sẽ càng có cơ hội lên Thiên Đàng bấy nhiêu và quan niệm này đã đẻ ra tệ mua bán “chứng chỉ xá tội” (indulgence), lôi cuốn giới quý tộc Âu châu, khiến họ ào ào bỏ tiền ra xây dựng hay tu bổ nhà thờ nhằm đặt cọc một chỗ ở cõi vĩnh hằng. Nhưng Luther tố cáo rằng đó là một hình thức tham nhũng và cho mấu chốt của sự cứu rỗi là đức tin. Mà xét về đức tin thì, như đã nói, không Cơ Đốc nhân nào tin là Trump có. Mà lùi lại thời kỳ “tiền – Tin Lành”, chỉ tính vào “công quả” thì Trump vẫn thiếu, dù tiền bạc có thừa. Cứ xem những việc xây dựng hay tu bổ nhà thờ, Trump chưa hề bỏ ra một cắc bạc nào nên hoàn toàn không thể chìa “chứng chỉ xá tội” nhằm vào cửa Thiên Đàng.

Còn “tội” thì, căn cứ vào Thập giới của Moses, tổng cộng mười điều, Trump đã xâm phạm nghiêm trọng đến ít nhất là năm rồi. Mà không phải nói chuyện xa xôi, chỉ căn cứ vào thông điệp liên bang nói trên thôi, đã nhận ra điều này.

Trước hết là Thập giới:

1. Thờ phượng một Đức Chúa Trời và kính mến người trên hết mọi sự

2. Chớ kêu tên Đức Chúa Trời vô cớ

3. Giữ ngày Chúa Nhật

4. Thảo kính cha mẹ

5. Chớ giết người

6. Chớ làm sự dâm dục

7. Chớ lấy của người

8. Chớ làm chứng gian

9. Chớ muốn vợ chồng người

10. Chớ tham của người

Đức Chúa Trời là một cách gọi khác của Thượng Đế và, ở đây, có thể xét tội của Trump qua điều thứ hai, kêu tên Người vô cớ.

Thượng Đế rất công bằng nên, có ban phước, Người không thiên vị kẻ giàu hay mạnh mà dẫm đạp lên người nghèo hay yếu. Hoàn toàn không có chuyện Thượng Đế ban phước cho nước Mỹ mà chà đạp lên Ukraine, hay lấy đất của Đan Mạch ban cho Mỹ. Cũng không có chuyện Thượng Đế bác bỏ Liên Hiệp Quốc và Tổ Chức Y Tế Thế Giới bởi, theo lý, Người phải ủng hộ bất cứ ai, cá nhân hay tập thể, hằng làm việc tốt cho nhân loại.

Vậy mà Trump lại viện tên Người để biện minh cho những việc ngược lại.

Thượng Đế cấm chúng ta không được làm chứng gian, thế mà, không kể những lần ra tòa cãi chày cãi cối hay dối trá triền miên trước đây, chỉ trong bài diễn văn trên thôi, Trump cũng lộ mặt gian dối qua các hệ thống fact-checker khi nói về nhiệm kỳ của Joe Biden và về thành tích của mình.

Thượng Đế cấm con chiên không được “tham của người” thế mà, trong bài diễn văn trên, Trump lại đòi chiếm hữu đảo Greenland của Đan Mạch, “bằng cách này hay cách khác” mà không buồn rào đón bằng “những biện pháp hòa bình, hợp với công pháp quốc tế” hay, theo lẽ đạo, là “hợp với Kinh Thánh”. Nói như thế có nghĩa là Trump sẽ không từ bỏ thủ đoạn nào.

Không hợp với lẽ đạo, thông điệp trên thậm chí còn trái với lẽ đời nên, do đó, sự xâm phạm còn nghiêm trọng hơn. Trump không hề “vô cớ kêu tên”. Trump đã mượn tên Thượng Đế như một thứ chiêu bài cho những việc nghịch đạo, nghịch đời.

Mà thoát ra khỏi bài diễn văn trên thì còn bao nhiêu là điều cấm đã xâm phạm, đã kết thành tội tại tòa, nào là sự “sự dâm dục”, sự “tham của người” và, thậm chí không nói chuyện thèm muốn vợ người khác, cả con gái ruột của mình mà Trump còn tuyên bố là, nếu không phải là cha con, ông đã ve vãn từ lâu rồi.

Sao Thượng Đế có thể cho phép một kẻ đốn mạt như thế bén mảng đến Thiên Đàng?

Nhưng Trump, ít ra là trước cuộc bầu cử, đã từng tuyên bố là tin vào Thiên Đàng, chỉ phân vân không biết mình có lên được hay không. Trong cuộc phỏng vấn do National Association of Black Journalists tổ chức tại Chicago ngày 31/7/2024, như một nỗ lực ve vãn lá phiếu của cử tri da đen khi cuộc bầu cử đã gần kề, Trump tuyên bố là ông tin vào Thiên Đàng và khiêm tốn rằng nếu ông là người tốt thì sẽ lên đó, còn xấu thì đi chỗ khác. [4]

Đã tin vào Thiên Đàng thì ắt phải tin vào đấng tối cao đang quản trị cõi phúc vĩnh hằng và, trong nhận thức của Trump, Thượng Đế hiện diện như thế nào?

Để xem xét thấu đáo vấn đề thì, có lẽ, cũng nên xem qua những thí dụ “kinh điển”, như nhận thức về Thượng Đế của hai bộ óc lỗi lạc nhất, hai nhà khoa học hàng đầu trong lịch sử nhân loại là Issac Newton và Albert Einstein.

Newton đã xây dựng nên một lý thuyết về vũ trụ cơ học, diễn tả đúng quy luật hoạt động của các thiên thể nên vũ trụ của ông ta cũng tuân theo cái nhìn cơ học mà hoạt động của Thượng Đế cũng mang tính… cơ học. Với Newton thì Thượng Đế sáng tạo nên vũ trụ này cũng giống như một người thợ làm ra cái đồng hồ. Thượng Đế tạo ra vũ trụ và để nó hoạt động theo những quy luật cơ học chỉ là, thoảng hoặc vũ trụ lâm cảnh rắc rối, cũng giống như cái đồng hồ bị trục trặc, Người cũng phải ra tay can thiệp, cũng giống như người thợ đồng hồ chùi dầu, thay thế phụ tùng khi đồng hồ bị trục trặc. [5]

Albert Einstein thì khác. Mỗi lần đến giảng tại các đại học Mỹ, nhà khoa học lỗi lạc này thường bị sinh viên thắc mắc là “có tin vào Thượng Đế hay không?” và, câu trả lời, luôn luôn, là: “Tôi tin vào Thượng Đế của Spinoza”. [6]

Baruch de Spinoza (1632 –1677) là một nhà duy lý đã “tái phát minh tôn giáo”, bác bỏ những tín lý mê muội về sự can thiệp của thần thánh: “Bất cứ ai yêu Thượng Đế đều không thể đòi hỏi rằng Thượng Đế nên yêu lại mình.” Theo Spinoza thì Thượng Đế không phải là người đứng bên ngoài tự nhiên, cũng không tạo ra những phép màu hay trừng phạt ai cả và, thực ra, Kinh Thánh được viết ra bởi những người bình thường.

Như thế, có thể nói, Einstein tin theo thuyết “Bất khả tri” (Agnosticism), cũng tin vào Thượng Đế nhưng đó là một đấng tối cao vượt quá tầm hiểu biết, con người không thể hiểu nổi và đó hoàn toàn không phải là mẫu Thượng Đế mà con người tạo ra. Ở đây, Einstein có phần giống với Khổng Tử qua quan niệm “Vị tri sự nhân, yên năng sự thần”, con người mà chưa phụng thờ nổi thì làm sao có thể phụng thờ thánh thần và, “Vị tri sinh, yên tri tử”, việc sống mà chưa hiểu được thì làm sao hiểu được sự chết? [7]

Liên quan đến Thượng Đế, Einstein còn có một tuyên bố nổi tiếng là “God doesn’t play dice”, “Thương Đế không chơi trò xúc xắc” và nếu đó chỉ là một luận điểm khoa học thì, bây giờ, Trump đang làm điều ngược lại, với trật tự và ổn định toàn cầu. [8]

Những gì đang diễn ra cho thấy Trump đang chơi một canh bạc ở đó nước Mỹ là một con xúc xắc còn nước Nga, của nhà độc tài Putin, lại là tay chơi chỉ có thắng chứ không thể thua. Con xúc xắc Mỹ cứ quay và Putin, không cần đặt cược, chỉ có thắng và thắng. Như đã thắng với Ukraine mà không mất mát cái gì. Như đã thắng khi đạo quân tin tặc Nga thoải mái thao túng hệ thống bảo mật của nước Mỹ như chỗ không người mà chẳng mất cái gì.

Trump, trên tầm nhìn vĩ mô, đang thu gọn cả vũ trụ vào nước Mỹ và, như thể là Newton, đang xem nước Mỹ là cỗ máy đồng hồ bị trục trặc và tự giao cho mình sứ mạng chỉnh đốn với canh bạc kỳ quặc, được thiết kế để đối thủ hay kẻ thù của Mỹ luôn luôn thắng.

Như thế, với nước Mỹ, Trump chính là một thứ anti-God, một Luxifer nhưng oái ăm thay, chính những kẻ tin vào Thượng Đế, tại các vùng nông thôn Mỹ, lại đưa ông ta vào vị trí quyền lực này.

Khi gởi gắm niềm tin vào một tôn giáo nào, bất cứ ai cũng hướng đến sự những giá trị chân thiện mỹ nhưng đó là việc cá nhân. Nhưng khi những cá nhân như thế quần tụ thành một cộng đồng thì vấn đề không đơn giản là đức tin mà còn là những quyền lợi thế tục với những quan hệ chính trị phức tạp. Chính trị thì luôn đòi hỏi sức mạnh của tài lực và ngôn từ. Muốn có tài lực thì phải kiếm tiền, bằng bất cứ cách nào. Muốn mạnh của về ngôn từ thì phải láo khoét, mỵ dân.

Chính những vấn đề thế tục như thế đã hằn những vết ố trong hành trình đức tim của nhiều cộng đồng tôn giáo và, qua sự kiểm chứng của thời gian, sự thật mới phát lộ và, có thế, cố Giáo hoàng John Paul mới chính thức lên tiếng xin lỗi, từ cuộc Thập tự chinh đến việc đàn áp người Do Thái, những người dị giáo khác hay việc truy bức, hay việc cấm nhà khoa học Galileo Galilei không được nói lên sự thật. [9]

Mai đây, sẽ có những cá nhân hay tổ chức tôn giáo nào đứng ra xin lỗi vì đã cổ vũ tín đồ của mình đưa một kẻ nghịch đạo, nghịch đời và bất xứng như Trump vào vị trí có thể làm cho nước Mỹ và cả thế giới xáo xào và bất an này?

Tham khảo:

https://www.nytimes.com/…/transcript-trump-speech…\

1. . Lâm Ngữ Đường (1964), Một quan niệm sống đẹp, trang 115 bản dịch của Nguyễn Hiến Lê, nguyên tác The importance of Living.

2. https://www.quora.com/Do-Christians-think-Trump-is-going…

“Most evangelicals don’t think Trump is a Christian believer and, therefore, will not go to heaven.”

3. https://www.christianpost.com/…/do-you-share-donald…

Laura then asked the former president, “Do you believe in Heaven?” And he responded, “I do. If I’m good, I’m going to Heaven. And if I’m bad, I’m going someplace else, like over there, right?”

4. https://history.aip.org/…/cosmology/ideas/newtonian.htm….

5. https://www.bbntimes.com/…/einstein-s-answer-upon…

6. Luận ngữ, chương Tiên tiến

7. Einstein nói vậy để bác bỏ “Nguyên lý bất định” (Uncertainty principle) của Cơ học lượng tử ( Quantum Mechanics)]. Einstein cho rằng mọi hiện tượng vật lý đều “tất định”, có thể dự đoán trước và sai sót diễn ra là theo nguyên lý domino, cái sai này sẽ kéo theo cái sai khác, hàng loạt. Einstein là thiên tài khoa học, đã tính toán và dự đoán đúng nhiều điều tuy nhiên ở đây thì ông đã sai: bằng thí nghiệm, các nhà vật lý lượng tử đã chứng minh là một âm điện tử (electron) có thể rất bất định khi, cùng lúc, có thể hiện diện ở hai nơi :, suy rộng ra, trên lý thuyết, thì vào cùng một thời điểm và, một hạt cơ bản, có thể hiện diện ở một vị trí nào đó nhưng cũng có thể hiện hữu ở bất nơi nào đó trong vũ trụ.

8. https://www.nytimes.com/…/after-350-years-vatican-says…


Nguyễn Hoàng Văn, born in 1965, Vietnam. The writer, journalist and essayist currently resides in Western Sydney, Australia.

Bỏ rơi và cứu rỗi, nghệ thuật và chính trị | Nguyễn Hoàng Văn

Sydney Opera House, Australia. Photography by Nguyễn Thị Phương Trâm

Sydney, Australia, April 28, 2025

Vẫn tha thiết với cuộc sống nhưng làm sao mà một người có thể tự bắn vào mình và, thậm chí, còn xem đó là cách để níu kéo cuộc sống?

Nhưng đó là “câu chuyện thật” về Vincen Van Gogh mà Giáo sư Jean-Pierre Isbouts – một nhà sử học, đạo diễn kiêm nhà sản xuất phim thuộc Fielding Graduate University ở California – trình bày trong Van Gogh: The Real Story. [1] Theo Isbouts thì hành động bạo liệt của Van Gogh – bậc thiên tài bị trầm cảm nặng với chứng “rối loạn lưỡng cực” (bipolar disorder) – đã diễn ra khi bị hụt hẫng thêm với cảm giác bị bỏ rơi.

Isbouts nói đến tâm trạng bơ vơ của Van Gogh khi Paul Gaugin rời bỏ mình giữa thế giới văn minh đã chán ngấy này để đến Tahiti tìm kiếm một không gian văn hóa nguyên sơ, một mình. Isbouts nói đến sự hụt hẫng của Van Gogh khi hay tin người em trai thân yêu Theodorus (Theo) Van Gogh – không chỉ là người nuôi sống mà hầu như là người duy nhất ngưỡng mộ tài năng của mình – gặp khó với công việc ở Paris và, có lẽ, sẽ phải đưa vợ con về Hà Lan. Isbouts lưu ý rằng, nếu muốn tự kết liễu mình, sao Van Gogh không bắn vào đầu hay ngực mà chỉ nhắm vào bụng? Và Isbouts cho rằng người bị bipolar disorder có xu hướng tự đả thương mình như là cách để gây chú ý và, ở đây, bậc thiên tài đang cảm thấy bị bỏ rơi của chúng ta cũng vậy. Không có ý định tự sát nên, sáu tiếng đồng hồ kể từ lúc tiếng súng vang lên, Van Gogh vẫn có thể lê bước về quán trọ và, mãi hai ngày sau, mới trút hơi thở cuối cùng trong vòng tay của Theo. [2]

Chúng ta cũng phần nào nhận ra điều đó qua chính “tự sự’ của Van Gogh, trong tác phẩm. Với nguồn năng lượng cuồn cuộn qua cách dùng màu có khi rất dữ dội, với những cảm xúc qua các diễn đạt sâu thẵm, tác phẩm của Van Gogh vẫn luôn mang lại cho chúng ta cảm giác yên bình và tĩnh lặng của thế giới này và, hơn thế nữa, của cả một vũ trụ. Từ “The Bedroom in Arles” đến “Wheatfield with Cypress Trees”, “Café Terrace at Night” hay “Olive Grove” v.v. và cả một “The Starry Night” với bầu trời sao cuộn sóng, tất cả đều mang lại cảm giác ấy. Đây là gì nếu không phải là hành trình tự cứu rỗi của một khát vọng sống đang vùng vẫy trong hố thẵm tuyệt vọng?

Đau đớn vì thất bại, lạc lõng vì mất phương hướng, vì bị bỏ rơi thì người nghệ sĩ chỉ có thể cứu rỗi lấy mình bằng chính nghệ thuật của mình. Nói theo Jiddu Krishnamurti thì cảm giác bị bỏ rơi đã chắp cánh cho cội nguồn sáng tạo khi người nghệ sĩ không còn cảm thấy bị bó buộc bởi cái gì, không phải lo sợ về sự hiện hữu của mình, không phải lo toan phải đạt đến cái gì đó. [3] Họ tìm tòi hay xây dựng các mối quan hệ, bằng nghệ thuật. Họ khám phá đến mức tận cùng của niềm đau, những ý nghĩa sâu thẵm và tinh tế nhất của kiếp nhân sinh, cũng bằng nghệ thuật. Và họ để lại những tác phẩm bất hủ. Từ Van Gogh đến Edvard Munch, Pablo Picasso và bao nhiêu thiên tài khác, của hội họa, của văn chương, và của âm nhạc như Wolfgang Amadeus Mozart, như Ludwig van Beethoven v.v. chúng ta đều ghi nhận những câu chuyên tương tự. Những thiên tài với những dấu hiệu của bipolar disorder ở những mức độ khác nhau, vật vã với cảm giác bị bỏ rơi nhưng hừng hực một sức sáng tạo phi thường như là hành trình cứu rỗi cho mình.

Nếu đó là những cá nhân thì, trong tầm mức cộng đồng, con đường “cứu rỗi” ấy có thể chữa lành cho thế giới đang quằn quại với sự chia rẽ, khiến sự dị biệt có thể xóa nhòa và con người có xích lại và hòa hợp với nhau như là một global village, một cái “làng toàn cầu”. Có thể nhận ra điều này từ mười lăm năm trước, giữa lúc đất nước chúng ta đang rộn ràng với “Đại lễ ngàn năm” và tang tóc với một trận lụt thì, hầu như cả thế giới, lại chăm chú vào cuộc “đại giải cứu” ở một hầm mỏ ở Chile, sự “trùng khớp” mà tôi từng nhắc đến trong cuộc phỏng vấn trên trang talawas:

[…] Trận lụt nói trên xảy ra trong thời gian tổ chức “Đại lễ Ngàn Năm Thăng Long”, kỷ niệm sự kiện vua Lý Thái Tổ dời kinh từ vùng núi Hoa Lư chật hẹp ra Thăng Long của đồng bằng rộng lớn. Thăng Long nằm sát sông Hồng và hàng năm phải oằn mình ra đối phó với lũ lụt và khi dời đô như thế thì vua Lý Thái Tổ đã thách thức lại thiên nhiên để từ đó mở ra “ngàn năm văn hiến”.

Trong trận lụt vừa qua qua báo chí đã nói nhiều đến trường hợp hy sinh của cô giáo Trần Thị Hoa, giáo viên Trường mầm non Hương Thủy (Hương Khê, Hà Tỉnh). Anh Lê Trọng Thống đã kể với các phóng viên câu chuyện của cô Hoa (Dân Trí 7/10/2010): “7h sáng ngày 3/10, khi biết nước lũ dâng cao, trường Mần non Hương Thuỷ sắp bị ngập trong lũ, cô Hoa đã nhờ tôi và chồng là anh Trung ra để cứu trường. Ra đến đường sắt thấy nước lũ quá cao, tôi và anh Trung bảo cô Hoa đưa chìa khoá phòng đây để bọn anh ra cứu trường còn em về lo dọn dẹp nhà cửa mà chạy lũ. Cô Hoa không chịu cứ một hai để em đi cùng các anh chứ việc nhà để sau giờ lo việc tập thể đã. Trường có hai người giữ chìa khóa tầng một, em cầm một cái còn cô kia thì ở xa không thể đến được, trường lại sắp ngập, nên đây là trách nhiệm của em. Em phải ra dọn trường đưa toàn bộ sách vở, dụng cụ học tập lên tầng hai chứ giao cho các anh em không yên tâm chút nào.[…] Vừa vượt qua được chỗ sâu nhất sắp lên phía bờ bên kia thì bất ngờ nước lũ đổ về quá mạnh cuốn trôi cả ba người. Tôi tìm cách vẫy vùng bám vào bụi cây rồi gắng sức bơi lên bờ. Sau khi quan sát thấy anh Trung đang hấp hối cố bơi vào bờ tôi đã lao ra cứu. Còn cô Hoa mất tăm mất tích. Anh Trung gào thét định lao ra tìm vợ nhưng tôi đã ngăn cản lại. Nếu giờ anh ra đó sẽ chết, biết tìm vợ đâu giữa biển nước thế này, hai người phải có một người sống để nuôi con”.

Theo tôi thì không có thí dụ sống nào hay và đúng với ý nghĩa của “đại lễ” hơn thế. Cô giáo đã thách thức lại sự cuồng nộ của thiên nhiên để cứu trường, để bảo toàn việc học hành của các em. Đây chính là hành động mang ý nghĩa “mở mang văn hiến” và trong một “đại lễ” như thế thì một nhà lãnh đạo sáng suốt, có tầm nhìn sẽ lập tức sử dụng tấm gương cô giáo Trần Thị Hoa để gây sinh khí, để tạo một niềm “cảm hứng” cho đất nước.

Tôi nghĩ đến những hình ảnh chiếu trên truyền hình ngày 14/10/2010 khi ông Luis Alberto Urzua, trưởng kíp của 33 thợ mỏ, được cứu lên mặt đất. Lúc đó Tổng thống Chile Sebastian Pinera bước đến bắt tay chào đón trong tiếng nhạc của bản quốc ca Chile, nói: “You are not the same, and the country is not the same after this. You were an inspiration. Go hug your wife and your daughter.” (Anh sẽ không còn là anh của trước đây nữa và đất nước của chúng ta không còn là Chile trước đây nữa. Chính anh là nguồn cảm hứng. Hãy tới ôm vợ và cháu gái đi anh).

Ông Urzua, trong vai trò trưởng kíp thợ, đã ở lại đến giây phút cuối cùng, chờ khi toàn bộ công nhân của mình được đưa lên mặt đất an toàn. Và ông Pinera, trong vai trò người đứng đầu đất nước, đã ở lại cho đến giây phút cuối khi người thợ cuối cùng được đưa lên mặt đất an toàn. Không chỉ là người thợ trưởng kíp mà tự thân hành động của Tổng thống Pinera cũng là một niềm “cảm hứng”.

So sánh với ông Chủ tịch của Việt Nam chúng ta thấy gì? Ông Chủ tịch không có lời nào về các nạn nhân của trận lụt. Ông không đá động gì đến sự hy sinh đầy ý nghĩa của cô giáo, cho dù trong các ngày 6, 7 và 8 báo chí liên tiếp đưa tin về cô, diễn tả đám tang thương tâm của cô. Tại lễ bế mạc đại lễ ông ta chỉ máy móc đọc bài diễn văn soạn sẵn nhưng cũng lập cập, cà lăm. “Lý Thái Tổ” là cái tên lẽ ra học trò tiểu học phải thuộc làu nhưng ông cũng lập bập “Lấy… Lý Thái Tổ”. [4]

Trong tai nạn ở Chile, ba mươi ba thợ mỏ đã bị mắc kẹt ở độ sâu gần 700 mét khi mỏ vàng San Jose sập đổ vào ngày 5/8/2010, 69 ngày sau mới được giải cứu với sự trợ giúp của nhiều quốc gia, đặc biệt là NASA, Cơ quan không gian của Mỹ. Hàng trăm triệu người trên khắp thế giới đã hồi hộp theo dõi sát sao từng diễn biến của cuộc giải cứu trong hai ngày cuối cùng, từ những hình ảnh phát trực tiếp trên Internet, các bản tin trực tiếp trên các đài truyền hình lớn. Tại thủ đô Washington ở Mỹ, một đám đông đã hô vang “Chi! Chi! Chi! Le! Le! Le!” mỗi khi màn hình lớn giữa quảng trường thủ đô cập nhật hình ảnh một người thợ được đưa lên mặt đất. Ông Connie Preti, một người Mỹ sống tại New York, đã nhận xét trên Twitter:

“Cách đây 41 năm người ta đã hồi hộp theo dõi bước chân con người trên mặt trăng. Giờ đây thế giới hồi hộp theo dõi người ta đi lên từ lòng đất. Hai sự kiện đều gây ấn tượng sâu sắc như nhau”. [5]

Trái với lệ thường khi tin xấu mới thu hút đám đông như là tin nóng, đây lại là sự thống trị của “tin lành”. Mà đó không chỉ là duy nhất. Trước đó là vụ giải cứu ở mỏ vàng Beconsfield của Úc vào tháng Năm năm 2006. Sau đó là vụ giải cứu đội bóng thiếu niên Lợn Lòi ở Thái Lan vào tháng Sáu năm 2018. Tất cả đều cho thấy rằng nỗ lực “không bỏ rơi đồng loại” đã là mẫu số chung để kết nối con người lại với nhau bất kể màu da, bất kể tín ngưỡng và, do đó, một cách không chính thức, đã khiến thế giới này trở thành một “làng toàn cầu”, suốt mấy tuần lễ.

Sau thời sự nóng sốt thì đến điện ảnh mang tính hậu nghiệm. Những câu chuyện như thế đều được kỹ nghệ này khai thác như “33” của điện ảnh Tây Ban Nha trong đó, một trong những tài tử chính, lại là Antonio Banderas, một khuôn mặt gạo cội của Hollywood. Mà, thượng vàng hạ cám, “bản hùng ca giải cứu” này lại là đề tài bất tận của Hollywood trong đó, nổi lên như một trong những tác phẩm điện ảnh vĩ đại nhất là Saving Private Ryan (1998), của đạo diễn Steven Spielberg và nhà biên kịch Robert Rodat.

Câu chuyện bắt đầu từ một ý tưởng rất … người rồi tiếp diễn với những cảnh tượng bạo liệt của Đệ nhị thế chiến, giữa tình thế nóng bỏng và cấp bách nhất của chiến trường. Nó bắt đầu khi những nhà lãnh đạo cao nhất của bộ máy quân sự Mỹ quyết tâm rằng, bằng mọi giá, phải “cứu” cho bằng người mẹ đã mất ba người con trai trên chiến trường, và, do đó, phải cứu cho bằng được người con trai thứ tư vừa được ghi nhận là mất tích. Họ không nỡ lòng khoanh tay mặc cho bà mẹ này mất thêm đứa con thứ tư thế nhưng, người con này — binh nhất James Francis Ryan của Sư đoàn Dù 101 – khi được tìm thấy giữa trận địa, lại không đành lòng bỏ rơi đồng đội ở trận địa mà theo toán giải cứu rút về nơi an toàn.

Đạt đến tầm vóc sử thi và thành công về thương mại, phim đạt rất nhiều giải thưởng điện ảnh uy tín, từ Golden Globe đến Oscar, BAFTA , Saturn v.v. Được giới quân nhân ca ngợi là chân thực trong cách tái hiện chiến tranh, được giới phê bình tán thưởng về nghệ thuật, mười sáu năm khi ra mắt, phim được Viện lưu trữ điện ảnh quốc gia và Thư viện Quốc hội chọn vào danh mục tác phẩm phải giữ gìn cho thế hệ mai sau vì những ý nghĩa “văn hóa, lịch sử và mỹ học”.

Cũng là một thứ “hùng ca giải cứu” thì Rambo không được như thế. Hình thành từ mặc cảm thua trận và sự nung nấu của ý chí trả thù trong ý nghĩa “ái quốc” kiểu dân túy, Rambo bị xem như là một thứ “orgy of violence”, một bữa tiệc buông thả của bạo lực khi người lính biệt kích vạm vỡ tung hoành trong đất thù giải cứu đồng đội. Rambo, theo giới phê bình, là sự kết hợp khập khiễng giữa bạo lực tột cùng và sự hời hợt của nhân vật chính. Cái tên Rambo, thậm chí, còn được ví von với dụng ý xấu, như năm 2006, ông Kevin Rudd – trong vai trò Phát ngôn viên ngoại giao của đảng đối lập và sau trở thành Thủ tướng Úc – đã gọi nguyên Thủ tướng John Howard là “một thứ Rambo chính trị” (political Rambo). Và đâu hai năm sau đó, nhân cuộc phiêu lưu thứ tư tại Miến Điện, Rambo còn bị một nhà phê bình ví von như là một thứ “violence / murder porn” bởi, tương tự việc khêu gợi bản năng sinh lý của những sản phẩm khiêu dâm thì Rambo, bên cạnh chủ nghĩa ái quốc kiểu dân túy, lại “khêu gợi” khán giả bằng bạo lực, bản năng nguyên thủy của con người như một thứ động vật săn mồi. [6]

Nhưng nói đến điều này là bước sang khía cạnh chính trị nên càng phải chú ý đến phản ứng cộng đồng, như một khối duy nhất. Một cá nhân đơn độc chỉ biết có nghệ thuật như Van Gogh mà khi cảm thấy bị bỏ rơi có thể bộc phát với một hành vi bạo liệt như thế thì, trong tâm thức tương tự, một cộng đồng sẽ phản ứng như thế nào?

Câu trả lời cũng chẳng có gì khó bởi vì đó chính là… lịch sử. Những cuộc cách mạng rực rỡ như những kiệt tác chính trị bất hủ. Những chiêu bài cách mạng và những xáo trộn thời cuộc với sự thay ngôi cho cán cân bất công, đen tối, đẫm máu, như một thảm họa nhân sinh dài dài. Những cuộc nổi loạn mang màu sắc vô chính phủ, những đám đông ô hợp, những thành phần đá cá lăn dưa chầu chực cơ hội trộm cướp, hôi của. Những cuộc biểu tình ôn hòa nhưng cương quyết. Những cuộc chuyển giao chính quyền êm thắm dân chủ hay đầy xáo trộn, đầy máu, của những nền dân chủ tập sự. Vấn đề là trình độ, là nhận thức của cộng đồng, của nhà cải cách. Vấn đề còn là mức độ láu cá và trâng tráo của giới đầu cơ chính trị, chăm chăm khai thác mặc cảm bị bỏ rơi của cộng đồng. Cũng giống như là xuất phát điểm của Saving Private Ryan hay Rambo, hai phim ở hai tầng bậc rất khác nhau, là sự cứu rỗi rất người hay chỉ là ý đồ phục hận, trả thủ như là bản năng nguyên thủy của loài thú săn mồi.

Và đó chính là những gì đang diễn ra trên quê hương của Ryan và Rambo khi những công dân “bị bỏ rơi” vùng lên theo hiệu triệu của nhà đầu cơ xây dựng sự nghiệp chính trị bằng sự chia rẽ và hận thù. Bị bỏ rơi vì chính sách di dân, đa văn hóa hay toàn cầu hóa. Bị bỏ rơi bởi những chính sách nhắm đến việc “cứu rỗi” môi trường. Và khi hung hăng tấn công vào Quốc hội Mỹ, họ đã hành động có khác nào loài thú săn mồi? Nước Mỹ đang chia rẽ một cách sâu sắc, mà nếu diễn tả “Cộng đồng Mỹ” như một khối duy nhất thì, phải chăng, suốt một thập niên qua, cộng đồng này đã bộc lộ những triệu chứng bipolar disorder?

Cả chúng ta, như một “Cộng đồng Việt”, trong chừng đó thời gian, cũng theo chân nhà đầu cơ chính trị Mỹ mà thể hiện dấu hiệu rối loạn này? Nhưng nếu người Mỹ bị cảm thấy bị bỏ rơi vì đường lối của những chính phủ mà họ cho là thiên tả thì chúng ta, như một nước nhỏ, lại cảm thấy bị bỏ rơi trước sự đe dọa của nước lớn Trung Quốc. Nước lớn này chiếm đoạt lãnh thổ của chúng ta, đất, biển, và cả bản đồ. Trên mặt biển, nó ức hiếp và cướp bóc chúng ta, như quân cướp biển. Trên đất, nó lường gạt và chèn ép chúng ta, như bọn gian thương. Nhưng ngoài mấy khẩu hiệu sáo mòn, ngoài một câu phản đối máy móc như một cái băng ghi âm nhạt phèo, mở đi mở lại, hầu như chẳng có ai bảo vệ chúng ta. Tuyệt vọng, rất đông trong chúng ta lại phung phí niềm tin vào nhà chính trị dân túy mà, thực chất, cũng chỉ là một nhà thực dân, hăm hè nhìn lãnh thổ nước khác như là loài thú săn mồi, và ra mặt bảo vệ quyền xâm lược của một nước lớn với một nước nhỏ, cũng là nạn nhân tương tự chúng ta. [7]

Đó, sự phung phí niềm tin vào chủ nghĩa dân túy, là cội nguồn sâu xa của những tai họa lịch sử. Chúng ta có liên tiếp phung phí niềm tin như thế thì hôm nay mới có một đất nước như thế này. Việc cứu rỗi, do đó, phải là nhận diện những trò dân túy, cái trò khêu gợi tình cảm ái quốc bình dân bằng cách khai thác sự chia rẽ, sự thù hận cộng với sự ve vuốt bằng sự phô trương bên ngoài và những lợi ích trước mắt, hoàn toàn kém bền vững.

Ở trên, tôi đã nhắc đến “Đại lễ ngàn năm” và, hiện tại, đất nước đang rầm rộ với “Đại lễ 50 năm”, thứ “lễ” mà càng rầm rộ bao nhiêu, càng khơi sâu cách biết bấy nhiêu, càng làm mục tiêu cứu rỗi như là sự hòa giải trở nên xa vời bấy nhiêu mà, trước mắt, đã “nhãn tiền” với tổn thất ngoại giao và, thậm chí, cả tổn thất về lãnh thổ. [8]

Trong hố sâu cách biệt đó có cả những tranh cãi ầm ĩ quanh Địa Đạo và, chợt, tôi nghiệm ra với hiểu biết hạn chế của mình, dường mảng chiến tranh của Điện ảnh Việt Nam chẳng có chỗ đứng nào cho đề tài cứu rỗi. Các nhà làm phim chiến tranh của chúng ta hình như chẳng hề chú ý gì đến người bị bỏ lại phía sau, giữa chiến trường, cũng chẳng chú ý đến người thất trận như ở Hoàng Sa, ở Gạc Ma. Họ chỉ chăm chăm với cảnh “câm gươm, ôm súng, xông tới…” mà, mới nhất với Địa đạo, là chui xuống rồi xông lên, từ lòng đất… [9]

Đã nửa thế kỷ rồi mà vẫn thế, xem ra con đường cứu rỗi hay chữa lành vẫn còn xa xôi, trắc trở…

Tham khảo:

  1. Có thể xem documentary này tại:

https://www.sbs.com.au/ondemand/tv-series/van-gogh-the-real-story

  1. Một số tài liệu cho rằng thời gian này kéo dài suốt 11 tiếng đồng hồ: tiếng súng phát ra lúc 10 giờ trưa và đến 9 giờ tối mới lê bước về đến khách sạn. Cũng có giả thuyết cho rằng Van Gogh bị giết, thí dụ: “Van Gogh did not kill himself, authors claim”

https://www.bbc.com/news/entertainment-arts-15328583BBC 3.“You can be creative only when there is abandonment-which means, really, there is no sense of compulsion, no fear of not being, of not gaining, of not arriving.”

  1. https://www.talawas.org/26492/
  1. “I mentioned on Twitter how 41 years ago the world watched men walk on the moon,” said Connie Preti of New York. “Today we are seeing men come out from the earth. It’s equally striking.”

https://edition.cnn.com/2015/10/12/world/everyone-out-of-the-mine-in-chile/index.html

  1. Internet không còn lưu giữ những thông tin này, tôi ghi lại theo trí nhớ.
  2. https://www.independent.co.uk/news/world/europe/trump-ukraine-peace-deal-crimea-putin-zelensky-b2738474.html
  3. https://www.bbc.com/vietnamese/articles/cvgn3n0pyxeo

https://www.bbc.com/vietnamese/articles/c4g284dge72o

  1. https://tuoitre.vn/tranh-cai-khi-xem-dia-dao-canh-nong-co-can-thiet-ai-cuong-hiep-ut-kho-hai-thung-gian-the-2025041412122617.htm

https://vietbao.com/a242891/su-that-ve-dia-dao-cu-chi

https://www.vietnamplus.vn/dao-dien-bui-thac-chuyen-cau-chuyen-trong-dia-dao-khien-toi-phat-dien-post1025244.vnp


Nguyễn Hoàng Văn, born in 1965, Vietnam. The writer, journalist and essayist currently resides in Western Sydney, Australia.

“Bệnh chứng MAGA”, từ góc nhìn Đông y | Nguyễn Hoàng Văn

Sydney Opera House. Photography by Nguyễn Thị Phương Trâm

Sydney, Australia February 26, 2025

Để tìm lối ra cho cái tình thế tuyệt vọng này, khi cơn say của lực lượng MAGA vẫn lờ lững nối dài, chúng ta cần quay sang Đông y, từ y lý kinh điển đến những giai thoại, những hư cấu trong tiểu thuyết chương hồi.

Nên làm như thế bởi Tây y, dẫu đã có bảy năm với The Dangerous Case of Donald Trump: 27 Psychiatrists and Mental Health Experts Assess a President, mà vẫn thất bại, để y hồi sinh với quyền lực còn dữ dội hơn. [1] Nên làm như thế bởi, không thành công thì cũng được… thảnh thơi. Có làm như thế thì mới có cơ may thư giãn đôi chút giữa cái thời mà, hễ bật ti vi lên là lại bực bội tắt ngay để khỏi chửi thề trước mặt con cái, để khỏi phẫn nộ hay buồn nôn khi chứng kiến sức phá hoại của y. Y tung ra một “chiến lược” là kẻ thù của nền dân chủ xoa tay cười thầm. Y đi một nước cờ chính trị là thế giới tự do lún vào một vị thế chông chênh hơn, nguy hiểm. Và mỗi lần y mở mồm dạy khôn hay vạch lối, là mỗi lần trí tuệ loài người bị sỉ nhục.

Nếu sự hồi sinh của y thuộc về độ ăn khách của chủ nghĩa dân túy thì điểm mấu chốt nằm ở chữ “túy” và, do đó, tôi lại nghĩ ngay đến một bài thuốc của Hải Thượng Lãn Ông. Nhưng để sáng tỏ vấn đề thì tôi phải nhắc lại một câu chuyện cũ vào cuối năm 2016, khi về thăm quê, giữa lúc hầu như cả nước xôn xao vì y. Một người quen ở Đà Nẵng, vừa chào hỏi xong, đã dí tôi vào dòng thời sự: “Nghe nói chủ nghĩa dân túy xuất phát ở nước Nga phải không chú?”.

Thì không chỉ tại Nga mà cả tại Mỹ vào cuối thế kỷ 19 và, đến nửa đầu thế kỷ 20, loan ra khắp nơi, như dịch, mà, trong đó, “thành công” nhất là ở Đức vào năm 1933 với tên đại đồ tể Adolf Hitler. Giải thích qua loa, tôi còn nói thêm: Hà tất phải nói chuyện xa xôi, bác nhìn lại Đà Nẵng của mình mấy năm trước thôi, trào Nguyễn Bá Thanh, đó cũng là chính trị dân túy. Y bán đất cho nước ngoài, bán cả những vị trí chiến lược cho Trung Quốc. Y xây dựng những công trình sướng mắt nhưng khiêm tốn trong ý nghĩa phát triển kinh tế. Y trích tiền lẻ lì xì dân nghèo, thưởng lớn cho học sinh giỏi. Y nhắm những chỗ dân “ngứa” mà “gãi”, thật mạnh, chữi như tát nước vào mặt những giám đốc các sở ngành làm dân chán nhất, giận nhất. Y không tạo nên một nền tảng phát triển bền vững mà chỉ làm xiếc với sự hào nhoáng bên ngoài bằng tiền bán chác tài nguyên trong khi đẩy đất nước vào vị thế nguy hiểm hơn về mặt an ninh. Nhưng y biết làm người bình dân của thành phố sướng cái con mắt, đã cái lỗ tai, và nở cái lá gan. Và họ “say” y như say rượu,

Đó chính là thứ chính trị mà Tây phương gọi là “populism” — “chủ nghĩa bình dân” — mà chúng ta nhại theo Tàu là “chủ nghĩa dân túy” (民醉主义). “Túy” (醉) có nghĩa là say với những “biến tấu” mà Đào Duy Anh đã liệt kê trong Hán Việt Từ Điển như “túy cuồng”, là “say rượu đến phát cuồng”; “túy hương” là “cảnh giới trong khi say rượu”’; “túy khách” là “người hay uống rượu” v.v. Và đám MAGA quân hăng máu kia, trông có khác nào những “túy khách” say cuồng trong cái “túy hương” về một nước Mỹ “vĩ đại” mà y vẽ vời?

Nhưng đó cũng là điều mà nhà thơ Trần Vàng Sao, trong “Người đàn ông 43 tuổi nói về mình”, thổ lộ:

nói thật lúc này tôi muốn được say rượu

họa may thấy một đồng thành ba bốn đồng

Thường, người ta say là để thoát ly khỏi cái thực tế mình ngán tới tận cổ. Nhưng càng lún sâu vào cái “túy hương” đó thì càng nghiện, càng khó dứt ra mà, theo Hải Thượng Lãn Ông, chỉ có thể thực hiện bằng cách làm cho sợ cả cái sự say. Thích thì cứ cho say nhưng phải say sao cho tởn tới già, phải biến cái cơn phê “một đồng thành ba bốn đồng” thành cơn ác mộng. Mà muốn có một trận say ác liệt như thế thì phải có một thứ rượu thật ác ôn và, do đó, phải có một thứ men cực kỳ ác nghiệt. Nghe thì máu me nhưng, thực ra, lại rất đơn giản, chỉ có điều là hơi tởm: trộn vào đó mớ… phân heo nái già. [2]

Bây giờ thì thứ “túy hương” mang tên Make American Great Again bắt đầu váng vất mùi… nái già. Xưa, họ say là để thấy “một đồng thành ba bốn đồng” nhưng “túy hương” này chỉ trở thành hiện thực với giới tinh hoa với chính sách giảm thuế. Còn họ, bình dân hay trung lưu, bất quá chỉ là con tốt đen bị phỉnh phờ và trước mắt là một hiện thực phũ phàng với một tương lai đói rách hơn, bệnh tật và dốt nát hơn khi các chương trình xã hội, y tế và giáo dục bị cắt giảm không thương tiếc để bù vào tiền giảm thuế cho giới siêu giàu. “Ba bốn đồng” trong mơ, rồi ra, sẽ chỉ trơ lại có mấy mươi xu, thậm chí chỉ vài xu hay không còn, mất sạch!

Còn hắn? Để chẩn bệnh thì yếu tố đầu tiên mà những thầy thuốc Đông y chú ý phải là “bì mao”, như Nội kinh, bộ sách kinh điển của họ, đã nhấn mạnh:

“Thiện trị giả, trị bì mao, kỳ thứ trị cơ phu, kỳ thứ trị cân mạch, kỳ thứ trị lục phủ, kỳ thứ trị ngũ tạng.”

Nghĩa là thầy thuốc giỏi chữa trị khi bệnh mới thấm vào da lông. Thứ hạng kém hơn thì đợi khi bệnh thấm vào cơ bắp, lục phủ, ngũ tạng. Như thế thì, nến chẩn bệnh cho hắn, cái mà giới thầy thuốc Đông y phải chú ý đầu tiên là “bì mao”, tức cái chòm lông vàng trên chỏm da đầu.

Tôi phải nói ngay rằng việc mang ngoại hình người khác ra diễu là điều tuyệt đối không nên nhưng đây là… y lý. Vả lại, Đi với ma mặc áo giấy, với kẻ chuyên xỉa xói sự bất hạnh hay tàn tật của người khác như y, sao chúng ta không có quyền áp dụng nguyên lý của cả Đông y lẫn Tây y là “dĩ độc trị độc”? Mặt khác, nếu Vũ Trọng Phụng từng tạo nên một nhân vật bất tử là “Xuân tóc đỏ” thì, ở đây, chúng ta cũng có thể bàn về một kẻ mà cả ngàn năm sau người Mỹ còn phải nhắc tên như một bài học không thể lập lại nên, do đó, việc lan man về một “Xuân tóc vàng” cũng chẳng có gì là quá lời.

Mà về cái mái tóc mong manh mày vàng này thì y, như đã tự thú, mỗi ngày phải mất hơn một tiếng đồng hồ để… bảo trì. Xịt keo chải tới. Lại xịt keo, chải lui. Xịt chải và chải xịt bao bận như thế và, mỗi ngày, y đều đặn “hành lễ” với mái tóc như một nghi thức tôn giáo thiêng liêng. [3] Có quý cái “cấu trúc tóc” mong manh trên đầu như vậy nên, khi cần, y có thể viện dẫn từ ông trời đến chính quyền Mỹ và, thậm chí sự yếu kém của công nghiệp Mỹ mà biện bác.

Như năm 2018, trong chuyến khi công du nước Pháp khi y, vào phút cuối, đột ngột hủy bỏ chương trình tưởng niệm tử sĩ Mỹ tại nghĩa trang Aisne-Marne American Cemetery ở ngay sát Paris viện lý trời mưa, trực thăng không bay được mà Mật Vụ không lái xe được. Nhưng, như báo chí Mỹ đã phanh phui, đó chỉ là trận mưa phùn rất nhỏ, trực thăng hay xe đều dư sức hoạt động, chỉ là mái tóc mong manh của y không đủ sức chịu đựng, có thể bẹp dúm dưới những hạt mưa bụi rây rây. [4] Xem ra, việc tri ân những người con của nước Mỹ bỏ mình trong Đệ nhất thế chiến không thể sánh với “độ phồng” của mái tóc mà y tốn bao nhiêu công sức để bảo trì.

Như thế, American First, cái khẩu hiệu y hằng kêu gào đã bị đẩy lùi, nhường bước cho My Hair First và sự thể, dưới cái nhìn Đông y, không chỉ là “bì mao” mà là một thứ tâm bệnh, đã ăn sâu vào tâm não.

Tôi nhớ lại một “khám phá khoa học” trên Nhân dân nhật báo của Trung Quốc ngày 27/6/2001, theo đó thì 5000 năm trước, người Trung Quốc đã biết giải phẫu não, “thành công tốt đẹp”. Tin cho hay đó là kết quả nghiên cứu từ hộp sọ thuộc di chỉ của văn hóa Đại Vấn Khẩu (Dawenkou), phát hiện tại Sơn Đông (Shangdong) vào năm 1995. Trên đỉnh sọ, ở phía sau, bên phải, có một cái lỗ rộng với một vòng cung hoàn hảo mà kết quả phân tích cho thấy có những vết xước do dao bén tạo thành nên, đây, có thể hiểu, là một cuộc giải phẫu não. [5]

Báo đảng nói thì chỉ có ngu dân tin và đây, phải chăng, là một tin “điển hình” giữa cái thời đề cao văn minh Trung Hoa nhằm thổi bùng tinh thần Đại Hán? Nó, phải chăng, cũng giống như những khám phái “khảo cổ học” thực hiện ở Hoàng Sa hay vài hải đảo Trường Sa đã cướp của Việt Nam nhắm chứng tỏ “chủ quyền lịch sử”? Tuy nhiên chúng ta đang bàn chuyện khác và, ở đây, tin trên lại làm thiên hạ, cả báo chí Anh ngữ, bàn tán về cuộc giải phẫu pha trộn thực hư của Hoa Đà (Hua Tuo) với Tào Tháo (Cao Cao).

Đọc Tam Quốc Chí của La Quán Trung ai cũng biết chuyện này nhưng đây là tiểu thuyết lịch sử chứ không phải lịch sử. Lịch sử ghi nhận Tào Tháo là một nhân vật thao lược, kinh bang tế thế và, cũng như bất cứ ai khác, ông ta cũng có những cái xấu xa của mình nhưng không đến độ quá xấu dưới ngòi bút của họ La, kẻ luôn tô hồng Lưu Bị. Lịch sử ghi nhận Hoa Đà qua đời từ năm 208 nhưng, mấy năm sau đó, trong tiểu thuyết trên, danh y này lại sống chỉ để vẽ vời một huyền thoại cho Quan Công: vừa nhậu vừa đánh cờ, “cười nói như không” trong lúc Hoa Đà mổ vai ra nạo chất độc do tên bắn. Lịch sử ghi nhận chuyện Hoa Đà trị bệnh đau đầu kinh niên cho Tào Tháo nhưng La Quán Trung vẽ vời việc Hoa Đà phán rằng bệnh của Tào đã “hết thuốc chữa”, cần phải cưa sọ ra rồi nạo cho hết chất độc bên trong, khiến Tào Tháo nỗi giận, ra lệnh tống giam.

Chuyện hư cấu của người xưa có thể áp dụng cho người nay, với chứng bệnh thể hiện ngay ở “bì mao” và sâu bên dưới lớp “bì”, đâu chừng nửa tất? Có thể cưa sọ ra để rửa sạch những thứ dơ, thứ độc? Và cả những con nhang của cuộc lên đồng tập thể mà, bất kể cái mùi nái già đã sộc đến tận cổ, vẫn tiếp tục lảm nhảm như chưa có gì khác diễn ra?

Họ khiến tôi nhớ lại những lời miệt thị, mắng chửi hay mỉa mai từng nghe thời đi học, thời ra đời tập tành làm người, vào nửa đầu thập niên 1980. Học kiến thức mà kém quá thì, thường, bị xem là “mất căn bản” nhưng, đó đây, vẫn còn có thứ hạng kém đến độ, theo một ông thầy ác khẩu của tôi, là “không có căn bản để mà mất”. Học làm người cũng vậy, khi bị xếp vào thành phần bị xã hội rút phép thông công, không thể tiếp tục việc học ở mức cao hơn, cũng không thể có một công việc chính thức hay, nói cách khác, là sống “lưu vong” ngay trên quê hương mình. Tuổi trẻ tràn đầy những ước mơ nhưng xao xác, hoang mang với một tương lai bất định, không ít người cùng trang lứa đã tập tành tìm quên trong hơi rượu, thở ra rặt một giọng chán đời, thất chí. Nhưng để “thất chí” thì, đầu tiên, là phải có “chí”, nghĩa là phải hình dung rõ ràng ở mình một vị trí cao đẹp hơn, trong một môi trường xã hội cũng cao đẹp hơn, và phải nỗ lực hết mình cho mục tiêu đã chọn ấy. Đó không phải là việc dễ dàng nên, đó đây, trong những giọng điệu u sầu cái sự “thất chí”, vẫn lẫn lộn thứ hạng “không có chí để mà thất”.

Và cái lực lượng MAGA hiện tại, từ tớ đến thầy. Răm rắp tin vào tên dối trá kinh niên, dối trá không biết ngượng, dối trá cực kỳ phản trí thức thì đó, về nhận thức chính trị, hoàn toàn là thứ “không có căn bản để mà mất”. Mà không một người có “chí” nào lại có thể khiến đất nước mình tệ mạt hơn, trọc phú hơn, lý tài hơn, phản dân chủ hơn. Chỉ cần nhìn vào cái cảnh vừa bán đứng Ukraine cho Nga, vừa ra giá mặc cả tài nguyên với Ukraine, vừa vu khống nhà lãnh đạo nước này thôi thì, từ thầy đến tớ, cũng cùng thứ hạng ấy, cũng là “không có chí để mà thất”.

Không có “chí” để “thất” nhưng, ít ra, như một MAGA hạng thầy, nhất định y cũng sẽ lưu lại những di sản nào đó và, từ góc nhìn của Đông y, tôi lại nghĩ đến câu chuyện khác của Hoa Đà.

Hoa Đà bị Tào Tháo tống giam và, nhờ danh tiếng, được viên cai ngục biệt đãi. Tri ân, Hoa Đà tặng viên cai ngục toàn bộ những ghi chép về y thuật nhưng, do sợ liên lụy, người vợ đầu óc hẹp hòi đã thảy hết vào bếp lửa để ông chồng, khi phát hiện ra, thì đã quá muộn, chỉ có thể vớt vát được mấy trang cuối mà, éo le thay, chỉ là những trang hướng dẫn cách thiến lợn, thiến gà.

Với kẻ xem việc nước và thế giới như một giao dịch địa ốc, cái di sản để lại chắc cũng “éo le” như thế. Y làm nhiều chuyện động trời. Y xáo trộn cân bằng địa chính trị toàn cầu. y bao che những nước mạnh và a tòng với bọn độc tài. Y chèn ép những nước yếu và vu khống, nhục mạ, o ép những nhà lãnh đạo dân chủ. Hình ảnh y để lại cho đời sau, như một con người, sẽ khơi dậy lên những câu hỏi như thế nào?

Đời sau, với những kỹ thuật thần kỳ, có lẽ, sẽ nhìn vào đây như là thứ người nên được “can thiệp sớm” để tốt hơn, cho riêng y và cho đời? Nghĩa là nếu những chuyện giả tưởng như The Terminator mà thành hiện thực thì, có lẽ, thế hệ hiện tại đã đi ngược thời gian mà can thiệp sớm với những trang viết bị cháy sém của Hoa Đà. Để thế giới ngày nay yên bình và tử tế hơn thì, ít ra, từ hơn 60 năm trước, thế hệ hiện tại đã, như phim, cử điệp viên đi ngược thời gian để đè y ra mà “can thiệp sớm” bằng con dao thiến lợn.

Một cuốn phim như thế, dẫu vũ khí chính chỉ là con dao thiến lợn nhẹ nhàng, cũng sẽ vô cùng hấp dẫn với những pha rượt đuổi vừa nghẹt thở, vừa đầy chất hoạt kê do bản năng sinh tồn với khả năng ăn vạ của con mồi. Mà cảnh hành động cũng đầy bạo lực và máu me khi con dao thiến lợn phải làm khá nhiều việc hầu như cùng một lúc, từ trên xuống dưới. Đầu tiên là thiến cái bộ não hay nghĩ bậy. Sau là thiến cái miệng và cái lưỡi hay nói bậy. Xong rồi thì mới dí dao vào phần giữa, cái chỗ hay chơi bậy, chơi bạ mà, theo cáo buộc mới nhất, chính là lý do khiến y trở thành con tin, phải làm gián điệp cho Nga… [6]

Tham khảo:

1. Bandy X. Lee (2017) The Dangerous Case of Donald Trump: 27 Psychiatrists and Mental Health Experts Assess a President, Thomas Dunne Books

2. Dùng phân heo nái già trộn với men, rượu cất ra sẽ khiến người uống sợ tới già. “Bài thuốc” này tôi đọc từ một trước tác của Lê Quý Đôn, thuật lại theo trí nhớ.


3. https://www.politicalflare.com/…/trump-says-it-takes…/

4. https://www.theatlantic.com/…/trump-americans…/615997/

5. http://www.china.org.cn/english/15319.htm

6. https://economictimes.indiatimes.com/…/118487146.cms…


Nguyễn Hoàng Văn, born in 1965, Vietnam. The writer, journalist and essayist currently resides in Western Sydney, Australia.