Tại sao phải là thơ của Lê Vĩnh Tài ? | Nguyễn Thị Phương Trâm

Em dịch bài thơ này của anh 5 năm rồi á, vẫn hay. Nhưng của những tác giả khác em thấy nó hơi kỳ kỳ :)) nên khi người ta nói anh lucky được em dịch nhiều nhất em thấy buồn cười. Điều em thắc mắc nữa là nói chuyện với anh rất khó nhưng dịch thơ của anh lại rất dễ làm em thấy cũng buồn cười. Buồn cười nữa là em chưa bao giờ thấy mệt khi em dịch thơ của anh không như khi em nói chuyện với anh :)) đừng giận em nhé. Sự thật em thấy vui mà. ..

Nguyễn Thị Phương Trâm

Trâm in the Buddha pose writing.. 2025

Khi ấn tượng là người làm thơ trong thời đại 4.0. Khi nhà thơ là influencer, nhà thơ không tránh nổi nghĩa đen của nó, “sự nổi tiếng trên mạng xã hội rất dễ khiến người ta đi lạc. “Những cái like sẽ nhận chìm bạn”. Người có ý thức sẽ tạo, xây dựng và giữ gìn “văn hóa like”. Không bao giờ dễ dãi.” như Thái Hạo đã viết.

Thơ chọn tôi hay tôi chọn thơ? Cả hai đều đã là cách thơ đã rơi vào kho tàng ngôn ngữ học tiếng mẹ đẻ của tôi. Thơ chọn tôi chưa chắc đã là thơ tôi “like”.

Nhưng thơ của Lê Vĩnh Tài đã nằm trong cả hai trường hợp. Tôi đã là người xin thơ thơ của anh đem về dịch ra, và anh đã là người gửi cho tôi cả chục bài trường ca. Thói quen đó đã thành một sự kích thích sáng tạo đồng điệu.

Thu hút nhất khi đọc thơ của Lê Vĩnh Tài là sự trí tuệ bao gồm mọi lĩnh vực trong cuộc sống hàng ngày chứ không chỉ trong văn chương và thơ ca. Tin tức và thời sự. Sự tồn tại và sống sót của cuộc sống song song với văn chương và thơ ca. Lịch sử, sự kiện hiện tại và dự đoán tương lai. Khi nhắc đến thơ Lê Vĩnh Tài thì bạn sẽ nhớ đến nhà thơ.

“Thơ khó hiểu quá!” của Lê Vĩnh Tài là chuyện bình thường. Vì khi nhà thơ viết về tình yêu nó không chỉ là tình yêu mà là một cuộc chính trị của tình yêu, như bài thơ đầu tiên tôi dịch của anh:

“Trong những đêm tối nhất
tôi sẽ là mặt trăng của bạn 
và bạn là ánh sáng của tôi…”

Mặt trời là vua. Nhà thơ, một người đàn ông trong một thế giới của những người đàn ông. Nhà thơ nhường vị trí đó cho một người đàn bà để làm một vệ tinh phản chiếu ánh sáng của nàng. Lê Vĩnh Tài trong một bài thơ ba dòng ngắn gọn đã biểu lộ không chỉ tình yêu, anh đã tiết lộ là anh ấy trong bài thơ là một người theo chủ nghĩa nữ quyền.


Mấy bữa nay từ cách tân cứ nổi lên trên newsfeed của tôi, làm tôi cứ nghĩ đến sự hẹp hòi hiểu biết của mình về đề tài đó trong thơ ca.

Thời đại 4.0 với trí tuệ nhân tạo (AI), máy học, dữ liệu lớn, blockchain và Internet vạn vật (IoT) đang thay đổi nhanh chóng cách chúng ta sống và làm việc.

Tác giả vòng quanh thế giới làm thơ ngày đêm 24 trên 24. Ta vừa nhắm mắt thì lại có người khác mở mắt. Thở ra và hít vào cả vạn vạn bài thơ.

Thơ vần bao nhiêu đi nữa cũng chẳng nhớ hết nổi.

Thời đại 4.0 nếu nói đến thơ thì tác giả phải sống lại trong bài thơ chứ không chết như anh Roland Barthes đã viết.

Khi bài thơ cả tác giả cũng không còn nhớ là mình đã viết gì, vì những bài thơ luôn chỉ là ngôn ngữ của mình vậy thì anh Lê Vĩnh Tài đã đạt được cách tân của thời đại 4.0.

Thời đại 4.0 ấn tượng là người làm thơ đi trước tác phẩm của họ. Hay nói một cách đơn giản thì nhà văn bây đứng ở vị trí ngang hàng với nhà thơ.

The poet is the influencer.


the smell of smoke
reminds me of you
the memories conjured via a scent

the alarm
reminds me of the time you called
you tempt me with your promises
cuts deeply is my name as sharp and as keen
as a dagger on your tongue,

the taste of salt and blood
water and wine and
desire in my mouth,

I would wake up soaked through
unsure if it’s my sweat or yours, love
I can feel your arms around my neck,

I would ask myself,
will you think of me when you touch yourself
without the smell conjuring up the memories
the smoky smell of someone
like a wildfire out there
somewhere,

I miss you love
.
and in the end
all I want more is
to be forgotten

translation by Nguyễn Thị Phương Trâm
_________
I think that you should stop using both “em” and “you” congruently in a piece, it’s confusing.

I’m not the only one who thinks that. But if it was deliberate. If your strategy was to make the entirety of the poem more vague, and the relationship between the protagonist and their love interest less defined then beyond that aspect you have more than succeeded.

I was in the middle of reading chapter 7 of Thơ Con Cóc and I saw the poem you just posted. And I finally understand that being in love is poetry and marriage is a love story… Once I finish reading this particular body of work by Nguyễn Hưng Quốc, I think I can write an essay on your poetry.

mùi hương mang theo ký ức
khi ngửi mùi khói của lửa
tôi nhớ bạn,

tôi nghe tiếng còi báo động
biết bạn đang gọi tôi,
dụ dỗ tôi bằng lời hứa
gọi tên tôi bằng lưỡi dao đâm vào tôi,

tôi nếm muối và máu
rượu và nước lã
và ham muốn,

mơ về em, tôi thức dậy không biết mình ướt đẫm
mồ hôi của mình hay của em,
tôi vẫn cảm nhận cánh tay
em vòng quanh cổ tôi,

tôi tự hỏi,
liệu bạn còn nghĩ về tôi khi chạm vào cơ thể mình
không còn mùi hương mang theo kỷ niệm
tôi ngửi mùi khói của một người
như đám cháy rừng xa xôi,

anh nhớ em
.
cuối cùng
tôi muốn được lãng quên hơn

thơ Lê Vĩnh Tài
______
Em nghĩ nhà thơ đừng dùng từ “em” nữa. Vừa em vừa bạn nó “confusing”.

Không phải mình em nghĩ vậy. Nhưng nếu đó là ý của anh. Là để làm bài thơ mơ hồ hơn, để làm mối quan hệ không còn nhất định nữa thì anh đã đạt được đỉnh của kỹ thuật ấy rồi đó.

Em đang đọc chương 7 của Thơ Con Cóc thì em đọc trúng bài anh vừa đăng. Em mới hiểu tương tư là thơ và vợ chồng là love story… Đọc xong tác phẩm này của anh Nguyễn Hưng Quốc, em viết tiểu luận về thơ anh được á.


Lê Vĩnh Tài and I have connected through the love of literature. Lê Vĩnh Tài is a seasoned poet and writer residing in the West highland of Vietnam, at the moment endeavouring to learn an alien language like English. My family and I are boat people, Vietnamese Refugees, who have been residing in suburban Sydney since 1981. I have been able to find my origin through the translation of my mother’s tongue, Vietnamese. I hope to share my experience with you through this body of work.

What is in a rose? In the words of W. Shakespeare: “A rose by any other name would smell as sweet”. I’ve asked myself often why I am obsessed with translating, specifically Lê Vĩnh Tài’s work. 

I could cheapen my entire experience by romanticising on a list of mundane reasons: It was fate, I have found my soulmate, the poet can do no wrong, the poet sits on a pedestal. Fortunately, LVT is far from any idol; every word bleeds from his veins. 

Often, I have pondered if I am frivolous in critiquing the structure of LVT’s body of work. What is postmodernism? Did he sit down by a lake one day and blurt out thirty-five pages of poetry? Did the angel Gabriel appear to him as he did to Mary, with a message from God? My answer would always be in the verses by E. E. Cummings:

“since feeling is first
who pays any attention
to the syntax of things
will never wholly kiss you;

wholly to be a fool
while Spring is in the world
my blood approves,
and kisses are a better fate
than wisdom

lady i swear by all flowers. Don’t cry
– the best gesture of my brain is less than
your eyelids’ flutter which says
we are for each other; then
laugh, leaning back in my arms
for life’s not a paragraph

And death i think is no parenthesis”

Lê Vĩnh Tài(LVT) in wanting to speak the truth, he bled the salty words upon thousands and thousands of blank bleached white sanitised pieces of paper. LVT voice is a voice that will surpass the generations. It gives me a sense of pride and responsibility to pass on his work, through the break of language. 

LVT’s body of work is a historical recollection of events, and indeed most of which were parallel to my life. He remained a national, while I deserted my country, an exile. But, I believe our desires are the same. We love, we procreate, and we want a better future for our children. We want a better world, where words can be free without persecution, where girls are no different from boys, and where we are all colour blind. 

The verses through Lê Vĩnh Tài is one of love in the most straightforward declaration by Friedrich Nietzsche: “God is dead”. One can be void of judgement. One can be to each other, kind.

Ý nghĩa của hoa hồng là gì? Theo W. Shakespeare: “Hồng với một tên khác nó có sẽ ngọt bằng”. Tôi luôn tự hỏi mình tại sao lại bị ám ảnh với việc dịch thuật, nhất là thơ của Lê Vĩnh Tài?

Tôi có thể hạ thấp trải nghiệm của mình qua vài ý tưởng lãng mạn thường như: duyên số, tôi đã kiếm được một người bạn tri kỷ trong ngôn ngữ, một nhà thơ hoàn hảo, trên bệ cao. Nhưng may, LVT không phải là một thần tượng; vì từng chữ của nhà thơ chảy ra như những giọt máu từ huyết quản của chàng.

Nhiều lúc tôi nghĩ tôi quá phù phiếm với cách phê phán cấu trúc với các tác phẩm của LVT. Chủ nghĩa hậu hiện đại là gì? Có phải một hôm nhà thơ ngồi xuống cạnh bờ hồ và thốt ra 35 trang thơ? Có phải thiên thần Gabriel hiện ra với nhà thơ như ngài đã với Đức Mẹ Maria, với một thông điệp của Đức Chúa Trời? Câu trả lời của tôi luôn là trong bài thơ của E. E. Cummings:

“trước hết là cảm xúc
ai cần chi
những cú pháp
sẽ không thật sự hôn em;

thật là một kẻ dại
lúc xuân ngập tràn đất này
như trong máu của ta đã chấp nhận
những nụ hôn hơn là định mệnh
hơn trí tuệ

ta thề với nàng trước những loài hoa. Đừng khóc
– suy nghĩ hay chi nhất của ta không bằng
làn sóng mì mắt em   thốt ra
chúng ta  đã  cho nhau; rồi lại
cười, rồi lại rụng vào vòng tay ta
vì cuộc sống không phải là một khúc văn

Và sự chết ta nghĩ không phải là những dấu ngoặc”

Lê Vĩnh Tài vì muốn nói lên sự thật, rỉ chảy trên ngàn ngàn trang giấy tẩy trắng những dòng chữ mặn nồng những giọt máu. Giọng nói của LVT sẽ vượt qua những thế hệ. Nó đem lại cho tôi một cảm giác thật tự hào và một trách nhiệm qua chuyển ngữ để lưu lại và gửi tiếp những tác phẩm của ảnh cho thế hệ sau. (Nhất là những thế hệ ngoài nước).

Thơ của LVT là một hồi ức lịch sử của các sự kiện, và hầu hết song song với cuộc sống của tôi. Nhà thơ là một công dân, trong khi tôi đã bỏ rơi đất nước tôi, là một thân lưu vong. Nhưng, tôi tin rằng mong muốn của chúng tôi cũng như nhau. Chúng tôi yêu, rồi sinh con đẻ cái, cùng mong muốn một tương lai tốt đẹp cho con cái của mình. Cùng muốn một thế giới tốt đẹp hơn, nơi ai ai cũng được tự do với ngôn ngữ, con gái con trai được sử như nhau, nơi ai cũng bị mù màu (da).

Những lời thơ qua Lê Vĩnh Tài luôn luôn là tình yêu, giải thích dễ dàng và thẳng thắn qua câu “Chúa đã chết” của Friedrich Nietzsche. Con người sẽ không cần đến hai từ phán xét. Con người sẽ tốt với nhau hơn. 

[June 2020]

Sketch of Lê Vĩnh Tài by Nguyễn Thị Phương Trâm

Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.

In today’s time, should poetry be “hard” to read or hard to post? | Lê Vĩnh Tài

A poem in Vietnamese by Lê Vĩnh Tài
Translator: Nguyễn Thị Phương Trâm

1. I have never made a conscious decision to write a poem.

The random story or dream grabs a hold of me and “makes” me write them down. Perhaps this is why I usually jot everything down at such a rapid rate. I always feel rather wishy-washy when I’m confined to “structure” in a poem. The idea of how to write a poem is rather an odd concept to me, not any kind of meaningful experience. It is nothing but a reaction to a current event, with what has just happened, to thereafter no longer be affected by it, and that is all. This is the reason why I thoroughly enjoy the absurdity of the creative process. Such absurdity I believe should also be passed on to the reader. It’s exhausting how he puts everyone through trials and tribulations to then in the end mean nothing. The poet could never truly hide. Not just wisdom alone but the poet’s view of the world. If he alone can not express his thoughts then who can? Faced with the corrosion of this life, as the inspirations dry up, fall back on regrets, in an attempt to clumsily add colour…

Since there is the need for the integration of inspiration with the idea of obscurity, the poet must instil within his work adoration and hate. I like the poets who via their beliefs and ideals attract the reader, not via useless constructs and murky waffling. 

As for me, I believe the poet’s subtlety is the cause of what is “hard” in poetry today (as for any other times, I don’t know), if possible, it should be hard to post, not hard to read. On top of it, no one dares to place poetry in a category of frivolity, but life is consistently hard and exhausting, reading poetry is a way to “exonerate/neutralise” the hardship of making a living. Hence, the reader must be able to extrapolate what they call love and bitterness (certainly within the poet’s “ tussling” vernacular). The useless murky waffling of a poet only makes the reader lose interest not because it’s “hard” but because he failed to deliver what the reader actually wants. Exclusively, used to be the thrills of writers, but it’s probably about time the poet takes up the responsibility. It’s not illogical that people are not simply sick and tired of such melodic arbitrary meaningless verses, they are in fact (more so) resentful. What is “hard” in poetry should deliver a life changing parable within the constraints of editorial censorship. People are still able to wander through the poems filled with open doors, what’s “hard” in poetry will never turn it into a product of mass consumption. The poet who manages what is “hard” to do in poetry may be able to instil life into fiction, be it delicately or with the utmost cruelty, life is still worth living and within one’s grasp. The reader wants the poet to leave aside the distant hopes and fear of religion with its fairness of heaven and hell for the next life.

2. I can not find any kind of barriers between any reader and the current “new generation of poetry”. Nor are there in fact any kind of barrier in general. Perhaps there may be a few barriers, but it’s not something he has directed at poetry itself, but these are barriers outside of its involvement. No one wants to listen anymore. The advancement in society has rendered the horse blinkers on the reader obsolete and the poet is no longer confined to any kind of technique or tenet. Happiness is when the reader walks away from a poem with the lingering meaning in their head, even when such joy is threatened by the murkiness of incomprehension because of all the hidden meanings in the poem, which the poet had heedlessly instilled.

I have always believed poetry is the sighting signature of sadness. It’s the reason for the poet’s continual dream, continual writing, continual reasoning of the human fate that had in the past to now continued to be corroded and chipped away by cruelty, time… and in the end death.

The aim of the fancy meaningless wordplay in poetry makes all of us doze off as though we’re high on opium, it is a despicable act the reader finds difficult to forgive. Someone born to be a poet always has the ability to pull the reader along with them through an onslaught of the senses and endearing chaos to the very endpoint of clarity.

Perhaps that is the true power of poetry and true poets.

May, 2021

_

THƠ HÔM NAY NÊN “KHÓ” ĐỌC HAY “KHÓ” ĐĂNG?

1. Tôi chưa bao giờ quyết định rằng mình sẽ làm một bài thơ.

Những câu chuyện vẩn vơ đâu đâu hay những giấc mơ bất ngờ bám lấy tôi và “bắt” tôi phải viết. Có lẽ vậy mà tôi thường viết rất nhanh. Tôi luôn luôn thấy lỏng lẻo khi mình phải “cấu trúc” một bài thơ. Khi tôi phải nhớ lại mình đã làm một bài thơ như thế nào thì chỉ còn một cảm giác mơ hồ, chứ không phải là một kinh nghiệm. Nó chỉ là một phản ứng ngôn ngữ của tôi ngay lúc ấy, với câu chuyện ấy, và bây giờ thì không còn ám ảnh mình nữa, vậy thôi. Đó là lý do tại sao tôi rất thích sự phi lý trong quá trình sáng tạo. Nhưng tôi cũng tin rằng, sự phi lý này phải được chuyển tải đến người đọc. Thật mệt mỏi khi anh đánh đố mọi người mà cuối cùng câu trả lời của anh lại chẳng có vấn đề gì trầm trọng. Mà thơ thì không thể giấu. Đó không chỉ là trí tuệ mà còn là thế giới quan của thi sĩ. Anh không nói hết những ý nghĩ của chính mình thì còn ai có thể nói thay anh? Rồi khi tuổi đời đã mòn, cảm xúc đã cạn lại đành hồi ức tiếc nuối làm màu khệnh khạng đâu đâu…

Hòa tan cảm xúc của mình vào sự bí ẩn, nhưng nhà thơ cần phải gửi gắm vào đó những yêu thương và căm ghét. Tôi thích những nhà thơ quyến rũ bạn đọc bằng tư tưởng của mình, không phải những phiêu lưu tối mò và kỹ thuật vô ích.

Về phần tôi, tôi tin rằng sự tinh tế của nhà thơ làm nên sự “khó” của thơ hôm nay (những giai đoạn khác thì tôi không biết), nếu có thể, thì chỉ nên khó đăng chứ không nên khó đọc. Đã đành không ai dám xếp thơ vào một nhu cầu không quan trọng, nhưng trong cuộc sống còn khó khăn mệt mỏi, đọc thơ là một nhu cầu có thể “miễn trừ” đối với nhu cầu kiếm đủ áo cơm. Vì thế, người đọc cần đọc ngay vào những cái mà họ thấy yêu thương hay cay đắng (dĩ nhiên bằng một ngôn ngữ “vật lộn” chỉ có ở nhà thơ). Sự vòng vèo vô ích của nhà thơ tối tăm đôi khi làm người đọc chán không phải vì “khó” mà vì cuối cùng anh cũng không mang lại cho người đọc được những gì mà họ mong mỏi. Những kịch tính ấy xưa nay là đặc quyền của các nhà văn xuôi, nhưng có lẽ đã đến lúc nhà thơ cần chia sẻ trách nhiệm này. Không phải không có lý khi người ta không chỉ chán ngán mà còn đang oán trách các nhà thơ thời nay viết quá nhiều những bài thơ tùy tiện du dương và vô nghĩa. Sự “khó” của thơ nên mang lại cho người đọc một ngụ ngôn về cuộc đời dù với những biên tập kiểm duyệt mà con người ta vẫn có thể lang thang trên những bài thơ đầy khai mở, chứ sự “khó” không bao giờ làm thơ thành một thứ hàng hóa xa xỉ. Nhà thơ sáng chế ra sự “khó” làm thành những hư cấu về cuộc sống, dù dịu dàng hay tàn ác thế nào đi nữa, vẫn đáng sống và vẫn gần gũi trong tầm tay mọi người. Bạn đọc muốn nhà thơ hãy nhường phần hy vọng xa xôi tận đâu cho tôn giáo với những công bằng của thiên đàng địa ngục ở kiếp sau.

2.Tôi không thấy một rào cản nào của “thơ trẻ” hiện nay với bạn đọc cả. Cũng không có rào cản của thơ nói chung. Có thể có vài ba rào cản nào đó, nhưng đó không phải rào cản anh đang ám chỉ mà là những chuyện ngoài thơ. Chẳng còn ai muốn nghe nữa. Sự phát triển của xã hội làm người đọc thơ hôm nay không còn tấm màng che hai bên mắt ngựa và các nhà thơ cũng không còn trói buộc vào một chủ nghĩa hay phương pháp sáng tác nào. Điều vui sướng của người đọc bây giờ là đọc xong một bài thơ mà vẫn lưu giữ những ý nghĩa lẩn quất trong đầu, dù niềm vui ấy có bị đe dọa về sự không sáng rõ do những bí ẩn của bài thơ mà nhà thơ vô tình mang lại.

Tôi vẫn nghĩ thơ luôn luôn là tên gọi của một nỗi buồn. Đó là lý do các nhà thơ tiếp tục mộng mơ, tiếp tục viết, tiếp tục lý giải về những phận người đã và đang bị ruỗng mòn bởi sự tàn ác, thời gian… và cuối cùng là cái chết.

Sự múa may và vô nghĩa trong thơ nhằm làm cho mọi người lim dim ngủ như ngấm thuốc phiện là một tội ác mà bạn đọc sau này khó lòng tha thứ. Một nhà thơ bẩm sinh luôn luôn có khả năng mang bạn đọc đi theo tới cùng nhằm nhận được sự sáng rõ của mình sau những rối loạn đáng yêu của tất cả các giác quan.

Hình như đó mới là quyền lực của thơ và những nhà thơ thực sự.


Lê Vĩnh Tài, the poet and translator born in 1966 in Buon Ma Thuot, Daklak, Vietnam. The retired doctor is still a resident of the Western Highlands and a businessman in Buon Ma Thuot.

Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.

live and write like people in exile | Nguyễn Hưng Quốc

A critical assessment in Vietnamese by Nguyễn Hưng Quốc
Translator: Nguyễn Thị Phương Trâm


Sống và viết như những người lưu vong

Nguyễn Hưng Quốc

Trong tập Du côté de chez Swann của Marcel Proust, mặc dù nói là đi tìm thời gian đã mất (A la recherche du temps perdu), nhân vật chính chỉ loay hoay tìm kiếm mãi hình ảnh một cái làng, làng Combray. Bởi vậy, nghĩ cho cùng, văn học lưu vong nào cũng ít nhiều mang tính chất “miệt vườn”. Giũ bỏ tính chất “miệt vườn” ấy bao giờ cũng là một thách đố lớn cần nhiều quyết tâm lớn và tài năng lớn.

Từ kinh nghiệm này, chúng ta không nên khinh thường nhận xét đã được nhiều người phat bleu: văn học hải ngoại là cánh tay nối dài của văn học miền Nam trước năm 1975. Nêu điều đó chưa phải là một hiện thực thì ít nhất nó vẫn là một nguy cơ.

Nguy cơ rõ nhất và cụ thể nhất là việc tiếp nhận cái mới trở thành vô cùng khó khăn dù về phương diện khách quan, chúng ta có đầy đủ tất cả những điều kiện cần thiết khiên những người trong nước phải thèm thuồng. Ngoái về quá khứ, cac cây bút lưu vong ít khi đóng được vai trò tiên phong. Nêu ví nên văn học hay văn nghệ hải ngoại nói chung VỚI một trận bóng đá,’ thì đó là một trận bóng thường chỉ có các hậu vệ và thật nhiều thủ môn, đó chiến thắng được tính bằng những lần bắt bóng chứ không phải bằng những lần làm bàn. Một trận đấu kì dị. Quái gở. Và tuyệt vọng. 

Chúng ta đầy mâu thuẫn: chúng ta vừa sùng bái Tây phương lại vừa sợ bị Âu hoá; chúng ta vừa hết lời ca ngợi truyền thống văn hoá dân tộc lại vừa không ngớt đay nghiến, bỉ thử nếp sống đậm màu sắc truyên 

thống của cộng đồng người Việt khu Bolsa bên Mỹ, khu Paris 13 bên Pháp hay khu Cabramatta và Footscray úc; 

…Chúng ta thường nghi kỵ một cách quá đáng những nhà văn viết bằng tiếng Việt chịu ít nhiều ảnh hưởng của Tây phương dù đó là những tài năng lớn trong khi chúng ta lại vồ vập một cách quá đáng một số cây bút trẻ viết thẳng bằng tiếng Anh hay tiếng Pháp, dù chưa có gì hứa hẹn đó sẽ là những tài năng thực sự. 

Đi vào một sinh hoạt văn học không phải của dân tộc mình, người ta, nếu không phải là một đỉnh cao thì rất dễ có khả năng sẽ không là gì cả ngoài cái việc được đăng tải và được xuất bản. 

Sự kiện đứng bên lề và sự kiện xa cách tuyệt đối với độc giả khiến khái niệm “danh vọng” trở thành hão huyền: ngay cả những người xuất sắc nhất trong chúng ta cũng chỉ “nổi tiếng” trong một phạm vi thật nhỏ, chủ yêu với một nhóm bạn bè và những người quen biết.

Trong câu hỏi của Nguyễn Mộng Giác đã có sẵn câu trả lời. Thời ông cầm bút Việt Nam, những tiếng vọng liên tục từ phía độc giả có khả năng tạo nên những “dư âm kỳ thú (hay kỳ dị) đưa cả tác giả lẫn tác phẩm vào một cuộc phiêu lưu mới.” Còn hải ngoại thì làm gì có những tiếng vọng như thế? hải ngoại, đăng một bài viết trên báo hay in một cuốn sách, nhiều lúc ngỡ chừng như nói vào ống điện thoại chưa nối đường dây. Lặng ngắt. Không nghe gì cả, kể cả một lời chê, một tiếng chửi, cũng không có. Hoàn toàn lặng ngắt. 

Viết văn, ngày xưa, là một danh phận; sau này, vừa là một danh phận vừa là một nghề nghiệp. hải ngoại, viết văn không thể là một nghề nghiệp mà trên thực tế, cũng không còn là một danh phận. Viết văn trở thành một cách hành lạc đau đớn của những người bị bất lực ở hải ngoại hiện nay. 

Vietnamese literature in exile is more or less the result of us constantly looking back; “In search of lost time” like Proust, letting go of a rich culture “miệt vườn” is no way an easy task, it requires conviction and aptitude.

When Vietnamese literature oversea is treated as an extension of South Vietnamese Literature prior to 1975, whether it’s a reality or not, it’s always a precarious disposition.

Number one, the most obvious precarious disposition is how extremely difficult it is to accept what is new no matter how objective, we’re so privileged with all the means at hand that doing nothing still leaves our compatriots in Vietnam drooling. Yet there are no pioneering writers amongst Vietnamese oversea, a soccer game with only defenders and lots of goalkeepers is a bizarre and despairing constitution.

We are full of contradictions: we adore the West but we are afraid of being tarnished; we are proud of our cultural heritage but we are endlessly critical of the colourful segregated Vietnamese communities scattered around the globe, Bolsa in the States, District 13 in France, Footscray and Cabramatta, in Australia.

We are unduly suspicious and too quick to disregard the great writers who writes in Vietnamese, who are more or less influenced by the West. We are more curious about young writers who write in English or French with no promise of true talent.

Literature void of excellence is of little value except for it being published in scattered publications. 

Therefore, being on the sideline means the writer is in a position furthest from their readers, “fame” is an illusion, we’re at best “famous” in a small community or amongst friends and acquaintances.

The answer is already there in Nguyễn Mộng Giác’s question. When he was a writer in Vietnam, the constant resounding reactions from readers had the ability to create “wonderful (or bizarre) resounding responses which had the ability to take both the author and the work on a new adventure.” While oversea there are no such resounding reaction? Oversea, publishing an article in a newspaper or published book, it’s like talking down a disconnected telephone line. Silence. Not a single sound, not a word of criticism, or even a curse. Complete silence.

Writing, in the past, was a title, an entitlement; later, it became both title and profession, but in reality, in conclusion there is no such title. Writing overseas has become an impotent and powerless venture./.

October 2021

 NB.

  1. Looking back, not being able to let go, and the resistance and acceptance of the change.                                                    
  2. Contradictions: The West’s influence versus retaining our cultural Eastern heritage. Great Vietnamese authors are being marginalised by a “banana” generation of writers, praised with no guarantee of success.
  3. Literature void of excellence has no future. 
Sydney Opera House, Australia

Nguyễn Hưng Quốc, born Nguyễn Ngọc Tuấn in 1957, in Quang Nam, Vietnam. The linguist, critic, writer, and poet is currently living in Victoria, Australia.

Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.

The conservations of Endangered Green Sea Turtles on Six Senses Con Dao | Nguyễn Thị Phương Trâm

Con Dao, Vietnam. Photography: Nguyễn Thị Phương Trâm

The pitter-patter of tiny feet leaving behind barely any visible trails, heads for the gentle waves. Beyond the small waves was an ocean invisible to the half-blind turtle hatchlings upon the dawning golden light. The swells of tears blinded my myopic vision. 

The Green Sea turtles are likely to become more extinct compared to other species listed in The Red Book(1). Turtles are placed at the top of the list of endangered species in Vietnam. One in a thousand may survive in nature to adulthood (35-50 years), old enough to return and lay eggs at the place of their birth. The Green Sea turtles chances of survival are depleted further by poachers and the illicit steep price of their eggs. 

Free range chickens in house on Six Senses Con Dao

Working closely with Con Dao National Park, Six Senses Con Dao over the last three years have been the proud caretaker of 132 nests, releasing over ten thousand critically endangered newly hatched Green Sea Turtles into the ocean(2). 

My husband and I had the chance of a lifetime. We were there to witness more than a few nests of Green Sea Turtle hatchlings released over the few days we spent at Six Senses Con Dao at the end of July.

Organic farming on Six Senses Con Dao

My tears were mere drops in the ocean, pointless. The tears which saw an impossible future for those tiny tiny paddling feet in crystal clear water of Con Dao. The crystal clear water came at a huge cost, the cost of day and night labour to clear the beaches of garbage and human waste washed up the beach. The few years paid off with the return of The Green Sea Turtles. They return to bless us with their eggs, their future or is it actually ours?

Recently introduced mushroom farm at Six Sense Con Dao

The Green Sea Turtles are endangered because of my carbon footprint. Mine first. And it had taken me so long to finally admit my part in the problem. We forget so easily, as we live, we don’t like to walk, we like to drive down the road, we prefer to catch the bus, we like our plastic bags. We take mother nature for granted.

The privilege of taking care of the Green Sea Turtle nests goes beyond the unique experience at Six Senses Con Dao, the resort establishment aims to improve the environment around the resort with the hope of a cascading effect, involving those living on the island and the surrounding areas. Sustainability is obtained from the ground up. Education is the key to attaining a brighter future for the next generation. In the next generation we can instil the hope of a cleaner and sustainable environment on Con Dao and beyond. 

It starts with free English classes, children of all ages may apply, children of all ages have the chance to learn, children of all ages have the chance to hold the key to their future. The future is not possible without our children. A bright future for The Green Sea Turtles is not possible without the education of our children. Yes, our children. 

Seeing those small feet wading in the waves, pausing now and then to stick their heads above the water, take in a gulp of clean air, before they continue to paddle vigorously towards an unimaginable boundless body of water, it is dark, it is deep, it is fraught with danger, by a strand of intangible hope. 

A strand of hope. A strand of hope was more than what I could hoped for in a lifetime. 

[August 2022]


  1. https://en.vietnamplus.vn/turtles-more-likely-to-become-extinct-than-other-red-book-animals/177324.vnp
  1. https://www.sixsensescondao.com/six-senses-con-dao-takes-the-lead-in-the-protection-of-endangered-green-sea-turtles/

Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.

Alienation | Nguyễn Thị Phương Trâm

Cơ sở, mái trường giáo dục mà tôi được ngồi và học lâu nhất là Đại học Sydney, vì bị rớt môn cuối là môn tư vấn bệnh nhân, tôi phải học thêm một năm nữa thành bốn năm.

Cuối cùng mái trường không phải là những nơi tôi thích học.

Trước khi vào học mẫu giáo, tôi có một thời đi học với đàn vịt sau vườn của các sơ.

Mẫu giáo là lọ mực xanh và ngòi bút gà bới của mình.

Lớp một lớp hai tầng lầu buồn thiu một mình – gia đình mày đi vượt biên hả? Tao không có!

Lớp ba, mái trường gần East Hill hostel, trại tị nạn, Tây Sydney. Tôi bị quấy rối tình dục, không phải là lần đầu. Tôi đứng một mình, chẳng làm gì, cậu bé đến ôm tôi hôn rồi chạy mất. Họ đứng, họ nhìn. Chẳng ai nói gì, chẳng có một người muốn nhìn thấy sự bối rối trong cặp mắt của một cô bé mới mười tuổi.

Lớp bốn, dưới mái trường công, Baulkham Hill Primary, bạn tôi thân nhất là cô bé người Anh, câu chuyện cô ta lan truyền khắp nơi là câu chuyện gia đình tôi thích ăn cỏ. Chỉ vì họ không biết ăn rau thơm.

Lớp năm lớp sáu, St. Monica, mái trường công giáo. Tôi được nhận giải Australian Young Citizen of the year. Người kỳ thị nhất là cô giáo dạy lớp sáu của tôi – tại sao các con lại bầu cho Maria?

Lớp bảy đến lớp tám tôi học Gilroy College, mái trường công giáo. Lần đầu tiên tôi biết tôi chỉ là cái bóng của chị hai tôi, cô giáo lớp tám của tôi đã an ủi – Con đừng quá buồn vì con không học giỏi bằng chị của con.

Lớp chín và lớp mười, St. John Girls, lần đầu tiên trên cuộc đời nhỏ bé của mình là mình đã có bạn. Trường nữ, các chị luôn luôn khát các bóng của những gã đàn ông đến mức quá buồn cười là nơi học tôi lại thích nhất so với những năm phải vào lớp học.

Lớp mười một mười hai, St. Benedict, trai và gái, lại nữa kiểu phải đứng và đái bạn mới thành công.

Vậy tất cả là bao nhiêu mái trường?

Ước gì tôi được một ông thầy hiệu trưởng như Nguyễn Hưng Quốc, Văn: Tạ Xuân Hải, Thể Thao: Nguyễn Văn Thiện, Ngoại Ngữ: Nguyễn Vượng, Nghệ Thuật: Đinh Trường Chinh, Đội Trưởng Trường: Thái Hạo, Trưởng lớp: Trần Băng Khuê, và học sinh đứng hạng nhất lớp: Lê Vĩnh Tài, và tôi: the class clown.

Alienation is demoralising, the isolation crushing, especially under all the moist damp spit and pity. What can one do? Sit and cry, sure, I’ve done that. I’ve wept so often that I wonder if it is menopause or post traumatic stress syndrome from a war that’s almost half a century buried in oblivion. I ask myself daily why I do anything at all. Why? 

I am from a lost generation ignorant of my roots and culture. The garbage generation. I am accused of not being able to read and write my native language, I am accused of not being able to spell in my adopted country. I am accused of living in the past. I am accused of drowning in my own pity, let alone more pity from any privileged outsider. How do I identify myself? If I can not, what will happen to my children, the making of my flesh and bone? Pity is reserved for those who relish in dishing out pity. 

Don’t get confused between pity and kindness. Kindness is an act of love without words. Kindness is a joke to make someone laugh in the darkest hour. Kindness is to ignore someone’s poverty and simply listen. I am the recipient of such kindness. It is a love that is undefined by words. 

If you are in the mood to be charitable, be kind, and help a child(like me) learn to read and write. Then maybe one day they will be your boss, they will build your schools, your hospitals, the pavement you walk on every day.


Sự xa lánh đang làm mất tinh thần, sự cô lập đè bẹp, đặc biệt là dưới tất cả sự cay nghiệt ẩm ướt và thương hại. Ta có thể làm gì? Ngồi và khóc, chắc chắn, tôi đã làm điều đó. Tôi đã khóc thường xuyên đến nỗi tôi tự hỏi liệu đó là thời kỳ mãn kinh hay hội chứng căng thẳng sau chấn thương tâm lý từ một cuộc chiến gần nửa thế kỷ bị chôn vùi trong quên lãng. Tôi tự hỏi mình hàng ngày tại sao tôi làm bất cứ điều gì. Tại sao?

Tôi đến từ một thế hệ lạc lối, chúng tôi không biết gì về cội nguồn và văn hóa của mình. Chúng tôi là một thế hệ rác. Chúng tôi bị buộc tội không thể đọc và viết ngôn ngữ mẹ đẻ của mình, chúng tôi bị buộc tội không thể đánh vần ở những quốc gia nhận nuôi chúng tôi. Chúng tôi bị buộc tội sống trong quá khứ. Chúng tôi bị buộc tội chìm đắm trong sự thương hại của chính mình, chứ đừng nói đến sự thương hại nhiều hơn từ bất kỳ người ngoài đặc quyền nào. Làm thế nào để chúng tôi xác định nổi bản thân của chính mình? Nếu chúng tôi không làm được thì con cái của chúng tôi ra sao, những đứa con bằng xương bằng thịt của chúng tôi sẽ ra sao? Sự thương hại chỉ nên dành cho những người thích ngồi nhìn xuống, và thương hại những người không phải là mình.

Đừng nhầm lẫn giữa lòng thương hại và lòng tốt. Lòng tốt là một hành động yêu thương không cần lời nói. Lòng tốt là một trò đùa để làm ai đó cười trong giờ phút đen tối nhất. Lòng tốt là bỏ qua sự nghèo khó của ai đó và chỉ đơn giản là ngồi và lắng nghe. Tôi là người nhận được lòng tốt như vậy. Đó là một tình yêu không thể định nghĩa bằng lời nói.

Nếu bạn muốn làm từ thiện, hãy tử tế và giúp một đứa trẻ (như tôi) học đọc và viết. Rồi có thể một ngày nào đó họ sẽ là ông chủ của bạn, họ sẽ xây trường học cho bạn, bệnh viện cho bạn, vỉa hè mà bạn đi bộ hàng ngày.

Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.

Shani, my best friend | Nguyễn Thị Phương Trâm

I’m blessed to have been on both sides of the coin when it comes to having a dog in my life. Losing Shani has profoundly affected me more than I could ever imagine, and I understand if you have never had a canine as a companion you will never be able to grasp the idea of this beautiful friendship.

Shani, my German Shepherd has loved me unconditionally with constant positive feedback, she was the one who had taught me how to kick a soccer ball – oh, that’s okay you can try again, I love you and it doesn’t matter if you fail, we can try again if not today, then later. I can wait.

Into my fifties and I’ve finally learned how to kick a ball thanks to the unconditional love from my dog. I know you don’t understand, I know you don’t understand why I believe dogs are better than people, I know you don’t understand why I’m so defensive when you compare people to dogs in a derogatory way and that’s okay, I have faith that one day you will grasp the true nature of a dog.

A violent dog is always the nature of the human who has been such an example, a dog a perpetual two-year-old child who always wants to be with you, to love you.

I know you don’t understand, and that is okay, because within you is my faith and hope.

In loving memory of my best friend, Shani.

Trâm

May 30th, 2021


Tôi là một người may mắn vì đã hiểu và cảm nhận được cả hai khía cạnh, một là chưa từng và hai là người đã từng nuôi chó. Mất Shani đã ảnh hưởng tôi một cách sâu sắc vượt luôn cả sự tưởng tượng của tôi, nhưng tôi sẽ hiểu là khi bạn chưa từng có một chú chó bên cạnh, bạn sẽ không bao giờ hiểu được ý tưởng tình bạn đẹp này của tôi.

Shani, loại chú chó chăn cừu của Đức, luôn luôn yêu tôi vô điều kiện cùng luôn luôn phản hồi liên tục một cách tích cực, nàng là nhân vật đã dạy tôi cách đá bóng – ồ, tốt đó, thử lại nào, bạn thất bại không phải là một vấn đề, tôi vẫn yêu bạn, chúng ta có thể thử lại một lần nữa, hôm nay hay ngày mai cũng được. Tôi sẽ đợi bạn.

Ở tuổi 50, cuối cùng tôi đã học được cách đá bóng nhờ tình thương vô điều kiện của Shani. Tôi biết bạn không hiểu, tôi biết bạn không hiểu tại sao tôi nghĩ chó tốt hơn người, tôi biết bạn không hiểu tại sao tôi không thích khi bạn so sánh con người với chó một cách không hay, nhưng không sao, tôi tin rằng một ngày nào đó bạn sẽ nắm được bản chất thực sự của một con chó.

Một con chó hung dữ luôn luôn là vì ảnh hưởng bản chất của những người đã nuôi chúng, giết chúng, làm thịt chúng. Một chú chó vĩnh viễn là một đứa trẻ hai tuổi, nó luôn luôn muốn ở bên cạnh bạn, để yêu thương bạn. 

Tôi biết bạn không hiểu, nhưng cũng không sao, ở bạn tôi luôn lưu lại những hy vọng và niềm tin.

Viết đây để thương nhớ đến Shani, bạn thân nhất của tôi.

Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.

Surpassing the impossible | Nguyễn Thị Phương Trâm

I’ve been so busy editing, I forgot to check, my blog in the middle of August have surpassed last year’s views. It is a wonderful feeling when one could see visibly that such incredible art and literature have been shared and enjoyed by not just me but many. My decision to delete the old clumsily put together website after much thought was a sound decision.

Some say, I’m the only person who can do this, this is not true. What is true to the fact is that, if I can do it, so can you. Anyone can do what I do. I blindly stumbled onto everything, into building a blog, into writing, into translating. Failure is eminent on any new venture. My biggest competitor is me, we are all our own biggest critic.

Great literature is out there, you just need to be patient. I have learned from the best, Lê Vĩnh Tài is not only a great poet, he is also a great writer. The boundless amount of poetry and short stories left me spoiled. There’s so much to learn, and so little time.

I have of course ventured into other authors’ work, but it has never left me with a sense of completion as it has with LVT poetry or writing. The simplest way to explain this logically is the rhythm in poetry or music, I happen to share the way LVT compose.

In the end, like my oddly strange atheist son have said – there’s no such thing as fate, we, as human beings like to romanticise everything so we can get a sense of purpose, so we can have our faith, so we could continue to hope. It’s just statistics mum, if you are looking for poetry, you look for them amongst poets, there you will find what you want. Social media have made it much easier.

Wisdom for me is not far from home.

Trâm,

August 29th, 2022.


Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.

FIGHT | Nguyễn Thị Phương Trâm

I’m not a, particularly positive person, more pragmatic than anything, but hell may freeze over before the numeral ZERO will ever stop me!

Fuck that!

Never say die!

I have watched my children, those who came from my loins and those who have not, struggle day after day with this depressing economy to find a job, let alone those who are near and dear to me losing their livelihood LITERALLY over a poem!

I don’t have the answer, I just know that I should not give up. If I refuse to give up. Perhaps then my children will NEVER give up. Those around me WILL NOT give up.

Defiance is NOT reserved for the RICH or the STRONG. Defiance is reserved for those who are the littlest of us, DEFIANCE is reserved for those who are willing to FIGHT.

So FIGHT. Fight for it. Fight for your job, fight for YOUR VERNACULAR!

FIGHT!

—-

May 2022

Tôi không phải là một người đặc biệt tích cực, thực dụng thì đúng hơn, nhưng địa ngục có thể đóng băng trước khi con số ZERO có thể ngăn tôi lại!

Quá chán!

Huống chi nói đến chuyện thất bại, tôi sẽ không bao giờ bỏ cuộc!

Tôi đã chứng kiến những đứa con của tôi, những đứa trẻ đến từ cơ bắp của tôi và những đứa không phải là của tôi, chúng đã phải vật lộn ngày này qua ngày khác với nền kinh tế đang suy sụp này để tìm việc làm, huống chi những người gần gũi và thân yêu của tôi mất đi sinh kế NGAY LẬP TỨC chỉ vì một bài thơ!

Tôi không có câu trả lời, tôi chỉ biết rằng tôi không nên bỏ cuộc. Nếu tôi không chịu bỏ cuộc. Có lẽ khi đó các con tôi sẽ KHÔNG BAO GIỜ bỏ cuộc. Những người xung quanh tôi SẼ KHÔNG bỏ cuộc.

Sự thách thức KHÔNG dành riêng cho những người GIÀU CÓ hay MẠNH MẼ. Sự thách thức dành riêng cho những ai nhỏ bé nhất trong chúng ta, SỰ THÁCH THỨC dành riêng cho những người sẵn sàng CHIẾN ĐẤU.

CHIẾN ĐẤU đi chứ. Chiến đấu vì nó. Chiến đấu cho công việc của bạn, chiến đấu cho NGÔN NGỮ CỦA BẠN!

FIGHT!


Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.