Here’s to you anh Viet Pham !

May your journey into the after life be just as fun and just as fruitful.

Thank you for being you, thankful for your kind and generous heart. For being the unexpected friend and supporter of my journey in learning our mother’s tongue.

Here’s to you anh, may your humour and kindness lives on.

Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.

an anthology of my solitude | Lê Vĩnh Tài [478]

Art by Đinh Trường Chinh

Thơ Lê Vĩnh Tài
Translation by Nguyễn Thị Phương Trâm

my solitude is an extensive collection of anthologies
and you have wasted your money printing them
let them sit forgotten on a bookshelf at the library

I could be the saddest poem
if only it was the poem you used to love
before it was burned to ashes
as I come to term with: you
loving some other poem

but that did not stop me from writing
since it’s still my poem
even when you no longer love it anymore

the poem is about you and us
though it was something none of us wanted
we talked about revenge
allegories igniting the fate of us
a fire burning to ashes
the verses

talk yes, of vengeance
since the poem had inspired the imagination
about a little boy who was bullied
the moment he wanted a name for himself

look at those losers
throwing around useless allegories
they reserve for us persistently
the glory

even when he’s no hero
and you’re not the main character
even when there’s nothing left but ashes
and you have left him without a word

perhaps you could have said
we can’t be together
and his heart will no longer exist
but, will your heart be enough to replace his heart?

as you look into that burning stove
will you risk everything to save what is left?

the poem, it describes what I saw
you burning your hand because of the fake gold offered to the dead

and, I’m a sad poem
the blurry light through my tears
and like a dream are your eyes staring at me
as I read the message on the blue phone screen
a meowing cat and the moon
and the wind, and the last breath
the clothes I took off
as a gift to you

you asked me, when we die
will we love each other as though we’re alive?

.
if I tell you, will you listen?
will you believe me?
let me die now
as I speak the truth

– that I’m still alive but your love is dead

but no one is hurt
we can both stand and watch
the day, you leave me
you will see how much I love you, your words:

– don’t miss me too much
because you’re always chasing after the truth
when all love need is sense of tranquillity
like the lingered kiss left behind on my lips

in the end, that feeling when we first step into a room
the odd feeling of being out of place
when you have to live with an old bookshelf
with it’s collection of short stories
that I had to read over and over again a dozen time

often I find myself thinking about reading again
the books you love so much
and it worries you
because you’re worried I won’t understand

you prefer the past
perhaps because I’m still there
waiting, like the thousands of people waiting for their turn
even after when they’re gone

I might worry too much
and you think I’m crazy
we watch the light
dangling from the ceiling just enough for one person
fall and break

beyond that is inky darkness
and I must admit that we
know more about the light than we need to
only after you’ve finally learned how to appreciate
the dark

though, with your last breath
you said, can you just stop for a moment
so I can breathe
how can you make me into something like that?

tôi cô đơn như một tuyển rất dày
em bỏ tiền in
và bỏ quên trong thư viện

tôi, có thể là bài thơ buồn nhất
ước gì nó là bài thơ em từng yêu
và trước khi nó bị cháy rụi
tôi, kịp nhận ra rằng: em đang
yêu một bài thơ khác

nhưng tôi vẫn viết
vẫn là bài thơ của mình
cả khi em không yêu nó nữa

bài thơ kể với tôi về em và hai chúng ta
dù không ai cầu xin
chúng ta nói về sự trả thù
bằng một bài thơ đốt lửa
cháy rụi cả số phận
một đám cháy bùng nổ
trong chúng ta chỉ qua ẩn dụ

hãy nói về sự trả thù, vì bài thơ lỡ hư cấu
một cậu bé bị bắt nạt
nhưng muốn thể hiện cái danh của mình

kìa, những kẻ thua cuộc
vì chiến đấu với những ẩn dụ vô ích
chúng vẫn dành vinh quang cho chúng ta

ngay cả khi anh không phải anh hùng
em cũng không còn là nhân vật chính
cả khi thấy ngọn lửa thành tro tàn
em đã bỏ anh không lời cảnh báo

lẽ ra em có thể nói rằng
chúng ta không cùng ở lại
trái tim anh không còn tồn tại
nhưng, liệu trái tim em có thay thế được trái tim anh?

em hãy nhìn vào cái lò đang cháy đó
em có liều mình chỉ để cứu những gì còn sót lại
không?

bài thơ, nó miêu tả những gì anh thấy
em phỏng tay vì vàng mã

anh, một bài thơ buồn
ánh sáng mờ ảo trên mắt
anh đôi mắt em nhìn anh
khi anh đang đọc tin nhắn từ màn hình xanh điện thoại
tiếng kêu của con mèo
và mặt trăng, và gió, và hơi thở
cuối cùng, quần áo của anh đã cởi ra
chỉ để tặng cho em

em hỏi, cả khi đã chết
chúng ta có thể yêu nhau
như con người không?

.
nếu anh nói với em, em sẽ lắng nghe chứ?
em có nghĩ anh là kẻ nói dối không?
hãy để anh chết vào lúc này
lúc anh nói ra sự thật:

– rằng anh vẫn còn sống và tình yêu của em đã chết

nhưng không ai đau lòng
chúng ta sẽ cùng nhau đứng nhìn
ngày cuối cùng, em rời xa anh
và anh rời xa em
để thấy rằng anh đã quá yêu em

– chàng đừng nhớ đến em
vì trái tim chàng luôn đi theo sự thật
nhưng tình yêu chỉ cần sự bình yên
trên bờ môi em một nụ hôn còn sót lại

cuối cùng, cảm giác lần đầu đi vào phòng
cảm thấy thật xa lạ, chúng ta thật trớ trêu
khi phải sống với một tủ sách cũ
với một tuyển tập
mà anh phải đọc đi đọc lại mấy mươi lần

anh vẫn nghĩ đến việc
quay lại đọc một trong những cuốn sách yêu thích của em
điều đó khiến em lo lắng
vì em sợ anh không biết gì về nó

em có thể thích quá khứ hơn
có thể anh vẫn còn ở đó
chờ đợi, như hàng ngàn người chờ đến lượt
cả khi đã chết

anh mắc chứng lo âu
nhưng em nói anh điên rồ
chúng ta nhìn ngọn đèn
treo trong căn phòng chỉ đủ cho một người
rơi xuống vỡ tan

sau đó chúng ta tối đen như mực
anh thừa nhận
chúng ta đã biết về ánh sáng quá nhiều
giờ em mới chịu yêu bóng tối

dù, chỉ còn một hơi thở thôi
em nói, chàng dừng lại một chút đi
để em còn thở
chàng nỡ làm em thế sao?


Lê Vĩnh Tài, the poet and translator born in 1966 in Buon Ma Thuot, Daklak, Vietnam. The retired doctor is still a resident of the Western Highlands and a businessman in Buon Ma Thuot.

Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.

The first stars | Mai Thảo

source: social media

A short story in Vietnamese by Mai Thảo
Translator: Nguyễn Thị Phương Trâm
[a body of work in progress – unedited]

Những vì sao thứ nhất

Năm mười bảy tuổi, tôi đã sống rất nhiều với những vì sao. Tôi đã gọi chúng là những vì sao của Diệu. Tại sao và tại sao bây giờ tôi nhắc lại những vì sao cũ, tôi sẽ nói ở dưới. Dạo ấy, chúng tôi ở phố Hiến. Căn nhà lá của cụ lý Bằn – người chủ trọ – khoảng vườn nhỏ cạnh bờ ao biến thành một đài thiên văn nhỏ, đêm nào chúng tôi cũng ra ngồi ở đó, tâm hồn thơ dại mở những lối đi lên những đỉnh trời. Tập thơ đầu tiên của tôi với bài đề tựa của Diệu – không bao giờ được in ra – lấy tên là Phương Sao. Những vần thơ thứ nhất viết vào những giờ phút thao thức dưới ngọn đèn nhỏ, trong đêm tỉnh lẻ không cùng, trang giấy trắng muốt là một khoảng không gian rộng bằng thế giới của những vì sao. Thường thường tận khuya chúng tôi mới từ ngoài vườn trở vào nhà. Đêm lạnh buốt. Liếp mỏng. Hoa lá ngoài vườn thơm một hương thơm quái đản. Những ngọn cỏ tối chân bờ ao thân mật gần gũi như những linh hồn người. Không khí liêu trai xuất ra từ những gốc rêu đất ẩm lạnh. Những vì sao tưởng như còn đi xuống nói chuyện vũ trụ và đời hành tinh lạnh lùng với những khoảng tuyết băng ngời ngời trên cao.

Tuổi mê sao, coi trăng là bạn và đường đi là con sông Ngân Hà lấp lánh, ánh sáng mơ màng choán ngập tâm tưởng tôi, trên những trang sách tôi, vào tận giấc ngủ. Trường chúng tôi ở Hà Nội dọn về sau mấy trận oanh tạc kho đạn Nhật Bản ở Gia Lâm, bấy giờ là vào khoảng cuối năm 1944. Nên trời đã thẫm màu của một thời chiến đã bén lửa có bóng những chiếc pháo đài bay hai thân từ duyên hải tiến vào không phận thành phố phòng thủ. Trái bom dữ dội làm phát hỏa cả một góc cổng thành Cửa Bắc. Hai hôm sau chúng tôi đóng cửa trường ra bến Phà Đen.

Tôi gặp Diệu lần đầu tiên trên chuyến tàu đêm dời Hà Nội lúc hai giờ sáng. Nếu Diệu còn sống, tôi cũng vẫn nhớ được trọn đời chuyến tàu đêm ấy. Nước chảy bồng bềnh. Bóng tối dăng dăng. Tiếng còi dời bến nức nở. Diệu chết, chuyến tàu, tiếng còi, bóng tối sống lại trong tôi thành những hình ảnh vĩnh cửu của tuổi mười bảy. Đêm nay tưởng nhớ lại những vì sao cũ tôi đi lại trong tưởng tượng một chuyến tàu trong đêm Hồng Hà. Tôi đã mất Diệu, xa Hồng Hà và những vì sao cũ.

Vậy là buổi chiều ấy, một chuyến tàu đã dời Hà Nội. Còi hú dài đập vào những bãi vắng không nhìn thấy. Tiếng nức nở là những âm thanh vĩnh biệt. Nhịp đẩy đưa bồng bềnh của nước chảy dưới gầm cầu. Nước chảy xuôi, bánh lái chân vịt quay trở lại. Tôi đón nhận ấn tượng thứ nhất về thời gian trong chuyến đi lần đầu. Tôi nhớ lại từng chi tiết. Tàu đi đã lâu. Những ánh nến được đồng loạt đốt lên. Chúng tôi là bốn trăm người không ngủ. Tiếng nói chuyện thì thầm từ đầu đến cuối mũi tàu. Đêm mùa đông vải bạt phủ kín tứ phía. Từ buồng máy hơi than lửa bốc lên ngột ngạt. Tôi không ngủ được cũng không xem được cuốn tiểu thuyết mang theo và cũng không góp chuyện được với lũ bạn hữu. Sau cùng tôi đứng dậy lách khỏi đám thân thể nằm ngổn ngang vén bạt đi ra, lần về phía mũi tàu.

Tôi trông thấy Diệu lần thứ nhất. Anh ngồi quay lưng lại trên đống dây sắt. Lúc đó tôi chưa biết Diệu là ai nhưng một cảm giác thân thuộc đã vụt đến. Sự gần gũi của hai người cùng có một cái gì giống nhau trong một giờ phút đặc biệt vì nếu không có Diệu ngồi đó tôi cũng sẽ đến ngồi trên đống dây xích sắt và cũng quay lưng trở lại. Tôi đứng lại, không động, tay vịn vào thành sắt vây quanh đai tàu. Về sau, có một lần tôi cũng trông thấy một người ngồi như thế, trong một sân ga nhỏ đêm mưa phùn, chờ một chuyến tàu chưa đến, như một cái bóng một pho tượng đắm chìm trong im lặng. Tôi yêu những con người với những bóng hình thành tượng như vậy. Sự suy nghĩ triền miền lúc đó như đẩy ra khỏi hiện tại có giới hạn đến một thế giới nào chỉ có mình với mình không một liên lạc một vướng bận với chung quanh. Rodin lúc nặn tượng người suy tưởng chắc cũng có những phút tách rời như thế để sáng tạo trong những hình nét điêu khắc thần kỳ một con người đối diện với thế giới nội tâm của mình. Phút ấy tôi chắc Diệu cũng chưa lắng được hẳn vào suy tưởng. Bờ vai bờ lưng kia còn như bị đè nặng dưới một tâm sự: Hà Nội. Tôi cứ đứng yên lặng mà nhìn Diệu, thấy rằng một tiếng động nhỏ lúc đó cũng không thể tha thứ. Bóng Diệu in lên mặt sông đêm khuya thoáng gợn những bọt nước trắng như những sợi chỉ đứt. Tôi nghĩ đến một cái gì tương phản. Bên trong, bốn trăm gã học trò tản cư chụm đầu trên những trang tiểu thuyết, thì thầm nói chuyện hoặc đã ngủ say sưa mê mệt. Và bên ngoài, một người ngồi nhìn đêm, nhìn thời gian, ngồi trong một thế giới. Tôi thấy Diệu lạ lắm. Lúc đó tôi không còn nghĩ Diệu là một gã học trò nữa. Tôi vừa ngạc nhiên vừa kính trọng. Sau cùng, tôi tiến lại gần. Bước chân tôi vướng vào một cái gì, làm thành tiếng động và Diệu quay lại. Anh nhìn tôi thản nhiên, nhưng hai con mắt sáng lên như hai vì sao nhỏ. Tôi lặng lẽ ngồi xuống bên cạnh, trên đống dây xích sắt đã lạnh buốt. Còn tàu vẫn chuyển đi. Một lát sau tôi đoán vào lúc tàu về qua vùng Bát Tràng, Gốm gì đó thì tôi đã được biết ít nhiều về Diệu. Tên anh, quê ở Sơn Tây và mới xin nhập học được nửa tháng thì trường phải thuyên chuyển. Thảo nào cùng trường mà chúng tôi chưa quen nhau. Tôi hỏi Diệu:

“Ngồi ngoài này lạnh lắm. Anh không buồn ngủ sao”.

“Không, Diệu cười. Ngày nhỏ đi thuyền trên sông Đáy tôi vẫn thức suốt đêm cho đến lúc ghé bến. Tôi thích nhìn sao”.

Yên lặng một lúc, Diệu nói tiếp:

“Không gì đẹp bằng những vì sao”.

Câu chuyện giữa chúng tôi thỉnh thoảng lại bị cắt đứt bằng những im lặng dài. Chúng tôi cùng nhìn xuống khoảng tối của sông dưới mũi tàu. Một lát, nhìn lên, tôi bắt đầu thấy những vì sao là đẹp. Nhìn sang Diệu, tinh tú đựng trong mắt anh và tôi không biết anh đang nghĩ đến điều gì. Người anh gầy, nhỏ. Anh mặc một chiếc áo dài đen rộng lùng thùng. Thôi nhìn sao, Diệu lại kể chuyện Sơn Tây cho tôi nghe. Thành đá cổ cũ hoang vắng, hào sâu cỏ lấp kín, buổi trưa tỉnh lẻ nắng mệt mỏi ngủ giữa những bóng bàng cao vút, tiếng bánh xe ngựa lăn vòng quanh cửa Tiền cửa Hậu và buổi chiều gió sông Hồng thổi vào thành phố với những chuyến xe hàng nặng nề từ mạn Trung Hà vào đỗ trong bến. Tôi hơi buồn cười về lối thuật chuyện của Diệu lúc đó. Sau này tôi mới khám phá thấy những tiếng xe cửa Tiền cửa Hậu ấy, những rãnh hào cỏ hoang ấy là những trang tiểu thuyết đẹp nhất tôi đã đọc được ở Diệu.

Đêm theo trường về phố Hiến sao cũng sáng và cũng nhiều lạ lùng. Sông Ngân Hà vắt qua chạm vào lòng sông cắt thành một ngã tư hào quang. Con tàu đi lâu vẫn không hết ngã tư ánh sáng. Một lúc nào đó Diệu chỉ tay bảo tôi:

“Chỗ kia sao xúm xít dễ đến hàng triệu”.

Quả thật chưa bao giờ tôi lại có cảm tưởng sao nhiều đến như thế. Về sau, đêm nào tôi cũng gặp những vì sao nhưng tôi chỉ gần chúng nhất, thấy chúng đẹp nhất riêng trong đêm đi tàu và gặp Diệu. Nền trời đen thẫm ở trên, con sông ở dưới sâu hút, tàu chuyển mình giữa hai màn sao, một của trời và một của nước. Chúng tôi ngồi ở giữa. Sương xuống càng nhiều, đêm càng lạnh, sao càng sáng rực rỡ. Vẻ đẹp của tinh tú đêm ấy nằm trong tâm tưởng người. Nhìn lên, vẽ những con đường tưởng tượng đến một hành tinh xa lạ hoặc là dạo những bước chân tưởng tượng giữa hai bờ sông Ngân, cảm xúc tôi đêm đó không phải thuộc về một ý niệm khoa học. Vũ trụ chỉ là một cảnh tượng đẹp lãng mạn, tôi không phân tích nổi với những vì sao bí mật quyến rũ. Con tàu vẫn đi. Tôi đã thức với Diệu như thế, nói chuyện thì ít ngắm sao thì nhiều, cho đến khi tầu cập bến Hưng Yên. Ánh sáng của lửa bến khác hẳn, đục, buồn và tầm thường. Rồi con đường lên thành phố hiện ra tăm tối qua những bãi ngô. Đất bồi ven sông rộng mênh mông. Đoàn học trò kéo dài. Diệu lùi xuống cuối đoàn đi bên cạnh tôi và câu chuyện về những vì sao vẫn chưa dứt. Tôi gợi chuyện. Diệu lại kể cho tôi nghe những đêm ở Sơn Tây, anh đứng ngắm sao hiện lên trên cổng thành. Anh nhớ có một vì sao lớn đêm nào cũng mọc rất muộn ở góc thành cửa Hậu, anh đã chờ đón như chờ một người bạn, ở một chỗ nhất định. Mấy năm sau anh không nhìn thấy vì sao ở chỗ cũ và khoảng trời thiếu vắng một điểm sáng như một sự thương nhớ đen. Tôi nghe chuyện càng thấy Diệu kỳ lạ.

Trời sáng mờ mờ khi chúng tôi đặt chân vào phố Hiến. Nền trời hồng hồng không còn một vì sao nhưng mà những vì sao đêm qua đã làm chúng tôi thân nhau. Tình bằng hữu giữa tôi và Diệu sau này vẫn có cái ánh sáng lạnh và hình ảnh thương nhớ của những vì sao đêm thứ nhất.

Nỗi buồn của Diệu thường trực. Trong suốt mười bốn tháng – thời gian lưu trú ở phố Hiến – không bao giờ tôi thấy Diệu vui. Trường học mới rất thích hợp với Diệu. Đó là một tu viện ba tầng màu xám đứng sừng sững giữa một bãi cỏ rộng sau chợ cách xa thị xã bằng một con đường đất đỏ lúc nào cũng lầy lội. Phía sau trường, thật xa, một con đê chạy dài, bóng những cây nhãn cao đều nhau kéo đi với những khoảng cách đều đặn. Tôi không quên được những đêm sao ở phố Hiến, cũng không quên được những bờ đê phố Hiến. Cỏ xanh mướt, lúc nào cũng tươi nõn, từ mặt đê thoai thoải đổ xuống chân đê, chỗ nằm lý tưởng cho chúng tôi những buổi trưa đến đó chia nhau mỗi người một gốc nhãn, nằm nhìn bầu trời biếc giữa những khoảng lá trống động nắng. Thật là những cánh lá thon mình thuyền của Huy Cận. Chúng đi vào tâm hồn Diệu u ẩn hoang vu mà tôi đã muốn so sánh với một tháp Chàm của Chế Lan Viên khi tâm hồn tôi mới chỉ có được cái thơ dại bỡ ngỡ của một vần thơ Nguyễn Nhược Pháp. Trong lãng mạn của tuổi thơ đã có tượng trưng của hồn. Tác dụng từ con người từ nếp sống của Diệu gửi tới chúng tôi, sắc thái sâu đậm nhất là bao giờ ở Diệu cũng như mở ra một cửa ngõ của suy tưởng chúng tôi theo đó đi vào những thế giới ảo tưởng vừa đẹp và vừa buồn. Đẹp vì nhiều ánh sáng. Buồn vì ít tiếng động. Ánh sáng của những vì sao, trong sự im lặng của đêm của vũ trụ. Nhiều khi nằm ở chân đê – chọn những góc khuất vắng, tôi đã mất hẳn ý niệm về thời gian, đến lúc rũ áo ngồi đây, buổi chiều đã xuống từ bao giờ mà không hay biết. Nắng xế thoi thóp trên mái tu viện. Những bờ ruộng kéo dài và trời sâu hơn. Một buổi chiều, Diệu đã chỉ cho tôi một dải nắng sắp tàn trên mặt cỏ. Và nói:

“Một đời được nhìn nắng đẹp vài lần thế này cũng đủ”.

Tôi không hiểu chữ “cũng đủ” của Diệu. Có lẽ bởi một linh tính nào đã báo trước cho Diệu, anh nằm xuống sớm, để những dải nắng chiều trở nên quý báu vì vĩnh viễn con người anh không nhìn thấy nữa, không lâu gì. Bấy giờ tôi mới thấy Diệu có lý và hiểu thấu đáo ý nghĩa hai chữ cũng đủ của anh. Hàng nghìn hàng vạn con người sống lâu gấp ba bốn lần cuộc đời ngắn ngủi của Diệu, chưa từng bao giờ ý thức và xúc cảm được về cái đẹp của một dải nắng, một vì sao. Họ chỉ biết là có nắng đấy có sao đấy, nhưng không biết thế nào là đẹp, và bởi vậy trời đất thiên nhiên chỉ là những đối tượng thờ ơ của một cái nhìn khách quan, vô nghĩa và ở ngoài. Điều càng làm cho tôi quý mến Diệu lúc sống, và sau cái chết của Diệu, thương xót anh mãi mãi, là bản chất buồn, nhưng sức sống của Diệu thật mãnh liệt. Chỉ như một cái bóng đi vào và ra khỏi rất thoáng rất mau giữa cuộc đời như là một cái bóng đựng một lượng sống chan hòa phát triển. Ở chỗ: Diệu chẳng những đã thao thức tìm kiếm một lối đi vào sâu trong sự vật, anh còn gửi cho sự vật lòng yêu mến chân thành. Thái độ này gắn Diệu vào với sự vật làm một. Những vì sao với anh là một. Dải nắng chiều bờ cỏ xanh với anh là một. Lúc anh là một thân cây. Lúc anh là một vì sao.

Sống với Diệu một thời gian, tôi đã viết những vần thơ thứ nhất. Tự nhiên, dễ dàng như gã học trò làm bài giữa trời đất. Cái gì thúc đẩy tôi? Có phải là trong lớp học thiên nhiên tôi ngồi chung ghế với Diệu? Tập thơ Phương Sao không bao giờ được in ra – tôi coi như là một phúng viếng gửi cho người bạn đã khuất – tôi đã đánh rơi xuống dòng sông Mã trước bến đò Lèn một buổi chiều có phi cơ oanh tạc vụt đến. Những dòng thơ mơ hồ không nhớ được nữa, nhưng mà những xúc cảm ghi nhận trong đó tôi nhớ chính là sự tiếp xúc đầu tiên của tôi với giấy mực với thiên nhiên qua con người Diệu. Ví như những âm thanh tôi nghe được qua hồn Diệu là tiếng vang núi. Bây giờ thì những xúc cảm tôi đã có thể tiếp nhận thẳng ở sự vật nhưng Diệu vẫn cứ còn nguyên vẹn là một sự thiếu vắng những lúc tôi chợt đứng sững một mình giữa một cảnh tượng đẹp làm mình ngây ngất. Diệu mang hình ảnh một ý niệm tổng hợp. Nếu mà người đàn bà thứ nhất vẫn gửi lại cảm xúc qua những người đàn bà khác tôi gặp nhiều về sau, thì Diệu cũng là cái đẹp đầu tiên ấn tượng tôi vẫn luôn luôn gặp lại trong những cái đẹp tôi đón nhận được bây giờ và mai sau. Trên nền trời của riêng tôi, những vì sao vẫn thay phiên nhau mọc lên trong ánh sáng tinh tú muôn vạn. Nhưng Diệu thì vẫn là vì sao thứ nhất.

Diệu chết năm 19 tuổi. Không phải ở Sơn Tây, cũng không phải ở phố Hiến mà trong cái ngõ hẻm số 5 cuối đường Khâm Thiên ngoài Hà Nội. Cách mạng tháng Tám bùng nổ. Chúng tôi bỏ trường, người về Hà Nội người về quê. Bẵng đi khá lâu tôi không gặp Diệu. Đến lúc lên Hà Nội mới biết tin Diệu đã mất. Tôi hỏi thăm và tìm đến chỗ Diệu ở. Lúc bây giờ vào buổi trưa. Qua một phố lớn, ngõ hẹp mất hút giữa hai bờ tường xám. Tôi đã đứng lại rất lâu giữa lòng ngõ, nhìn lên khoảng trời cao. Một khoảng trời thành phố bé nhỏ lạ lùng. Tôi nghĩ đến những ngày cuối cùng của Diệu, ở ngõ hẻm, với một vài vì sao hiếm hoi họa hoằn mới hiện ra giữa hai chiều tường. Tôi gõ vào một tấm cửa đóng kín. Một bà cụ già ra mở cửa. Bà ngó tôi chăm chú. Sau khi tôi tự giới thiệu, bà gật đầu nói:

“Phải, cháu nó mất đã hai tháng. Bị bệnh đau phổi đấy ông ạ! Theo lời cháu dặn tôi chôn cất cháu ở một nghĩa địa ngoại ô. Cháu có gửi tôi một lá thư dặn giao lại cho ông”.

Tôi nghĩ thầm: Một vì sao đã tắt ở đây. Tôi theo bà cụ vào nhà. Căn buồng tối mờ mờ. Tường mái long lở cũ kỹ. Mấy chiếc bàn ghế đứng im lặng trên nền đất tối và lạnh. Tôi đứng rất lâu, cả người tê đi trong sự đợi chờ tiếp nhận lại một cái gì. Một cái gì của Diệu, một hình ảnh, một màu sắc quen thuộc. Cảm giác đau đớn rức buốt nổi lên trong tôi. Căn phòng không để lại một dấu tích nhỏ bé nào có thể chứng minh với tôi Diệu đã về sống và đã chết ở đây. Có thể nào được không? Nếu để tìm đến cái chết Diệu có thể về đây để chết, nhưng chỗ này anh không thể sống được, ở đây chẳng khác gì một tu viện bưng bít như một hầm kín. Căn nhà lạnh thiếu ánh sáng, bóng tối đọng lại trong mắt. Tôi nhớ cùng một lúc đến những đêm sao lấp lánh muôn triệu những bờ đê cỏ mướt những phiến da trời xanh trên đỉnh cây cái thế giới tâm hồn của Diệu ở ngoài kia, bên ngoài thành phố bên ngoài ngoại ô, bên trên mặt đường bên trên mái nhà, chỗ những khoảng rộng mà tầm mắt không bị thu hút, cái nhìn không bị giới hạn, ở đó con người thấy mình nhỏ như một hạt cát và cũng lớn như vũ trụ, bởi sống và ý thức được đầy đủ thế nào là cái đẹp của khoảng cao rộng, bên trong và bên ngoài mình.

Bà cụ mở một ngăn tủ trao cho tôi lá thư. Trang giấy ngắn cũng không có gì quan trọng. Diệu chỉ vắn tắt viết cho tôi, anh biết anh sắp mất và hy vọng tôi sẽ ra thăm chỗ anh nằm ở ngoài trời, một mình. Tôi gập thư lại. Hỏi chuyện bà lão già về những phút cuối cùng của Diệu, bà cho biết Diệu thao thức ít ngủ. Và trong tuần lễ sau cùng, luôn luôn đòi ra nằm gần cửa sổ. Diệu muốn thu vào trong đôi mắt hấp hối những vì sao một đời? Nhưng ngõ thì hẹp tường thì cao anh chỉ thể đoán thấy mà không nhìn thấy. Tôi nghĩ vậy. Nếu được lựa chọn, chắc Diệu đã muốn được nhắm mắt ở một mũi tàu trong chuyến đi đêm trên sông, hoặc trên một bờ đê cao, giữa những khoảng rộng. Trong một đêm rất nhiều sao sáng.

*

Nhiều năm qua đi. Phố Hiến cổ cũ, Sơn Tây đẹp buồn, những bờ đê cỏ mướt, không có bước chân tôi trở lại thăm viếng, vì xa cách và thiếu cơ hội. Tôi cũng đi nữa những chuyến tàu đêm trên Hồng Hà. Nhưng trước khi dời Hà Nội vào Nam, tôi có đến thăm mộ Diệu. Chia tay với người chết vậy mà cũng rưng rưng đau đớn như với người còn sống. Bà cụ già đã làm theo ý muốn cuối cùng của đứa cháu ngoại mất sớm. Mộ Diệu đặt trên một thửa ruộng cao. Trước mộ là đất trải đi mênh mông, và trời xanh không vướng khuất. Chiều đến thăm mộ bạn, tôi đã ngồi xuống bên cạnh nấm đất. Cỏ úa màu nắng chiều. Tôi quay lưng với Diệu trở lại thành phố. Cuộc sống của người ở đây ngắn ngủi vụt đi như một hành tinh lạc đường. Nhưng đẹp và trọn vẹn. Bây giờ Diệu, có thể hoàn toàn theo dõi những vì sao của anh. Nếu cõi chết là hình ảnh của đêm thì những vì sao đã thuộc của riêng anh. Tôi trở lại thành phố trên những con đường đã chạng vạng bóng tối. Đầu óc tôi váng vất một nhịp đẩy đưa bồng bềnh. Thời gian. Bánh xe lăn. Đôi cánh trắng muốt. Ý nghĩa trường tồn của một cái gì không vĩnh cửu. Và người bạn, như một vì sao, còn sáng mãi trong tôi.

*

Tôi sẽ không bao giờ nói trở lại những vì sao của Diệu – có những cái đẹp, đẹp đến nỗi người ta chỉ muốn giữ một mình và không muốn nhắc nhở tới – nếu tôi không tình cờ đọc một đoạn văn của một người bạn trong cuốn sách anh vừa tặng tôi chiều nay. Đoạn văn nói rằng thái độ trở về với dĩ vãng là một triệu chứng tâm hồn yếu đuối. Nhưng mà dĩ vãng nào? Đoạn văn không làm tôi để ý nếu người viết không đả động tới những vì sao: “Những vì sao đã tắt đêm qua như những sự gục ngã tối tăm. Con người phải đi trên đường đi của mặt trời”. Tôi lấy bút chì gạch dưới câu văn. Tự nhiên tôi nhớ đến Diệu, đến những vì sao cũ. Tôi mặc áo ra khỏi nhà. Qua những dãy phố chật hẹp, chồng xếp lên nhau ở trung tâm thành phố, tôi đi dần ra mạn bờ sông. Phố thưa dần. Mái nhà bờ tường cái nọ cách xa cái kia hơn. Những hàng cây những bóng điện thấp xuống. Rồi thì là sự hiển hiện cao vút đột ngột của vòm trời. Vẫn là một vòm trời thành phố nhưng một cảm giác rộng rãi đã trải ra trước mắt tôi nhìn lên. Tôi dừng bước trước bờ sông. Tôi ngồi trên một chiếc ghế đá. Đã lâu lắm, qua rất nhiều năm nhiều tháng ngày, những vì sao mới lại trở về qua ấn tượng thứ nhất. Chúng đang đi xuống tôi. Nhấp nháy, linh động như những tiếng nhắc nhở thầm. Tôi sống lại với Diệu. Tuổi mười bảy tập Phương Sao với những vần thơ không bao giờ được in ra. Giá trị của những sự kiện đã tàn hủy những ý nghĩa còn tồn tại. Cái đẹp khởi từ nguồn gốc cũ vẫn như một dòng ánh sáng thiết yếu cho đời người hôm nay. Tôi sống hôm nay, cũng không tách biệt được với những cái gì đã chết những người đã chết, với lịch sử với tâm hồn người đời đời. Nhát dao chặt đứt mình mẩy quá khứ thì thi thể của hiện tại cũng rách nát đau đớn. Ba phần thời gian chỉ là một. Tôi nghĩ miên man như vậy. Chung quanh tôi là thành phố, dòng nước chảy, những hàng cây, những mái nhà, vòm trời cao, đáy nước sao. Chúng tổng hợp lại thành một thực thể tổng hợp. Tôi không thấy một khởi điểm riêng lẻ nào. Những vần thơ tôi sẽ viết và sẽ được in ra sẽ còn cái hơi thở của tập thơ buổi đầu. Làm cái việc ôn lại đời mình qua những điều chắt gạn ở cuộc sống một người đã khuất, tôi muốn tự đặt cho mình một thái độ. Con người phải đi trên đường mặt trời hướng vào tương lai. Nhưng quá khứ đã làm tôi lớn lên. Tôi tưởng rằng nếu tôi có hàng ngàn năm để làm cái việc thu lượm những cái đẹp, những vì sao từ quá khứ gửi tới thì cái việc thu lượm đó sẽ không bao giờ hết. Và tôi đi đến một kết luận: Cái đẹp nào cũng chứa đựng một hình ảnh của quá khứ.

*

Cho tới lúc tôi dời bỏ chiếc ghế đá theo đường cũ trở về nhà thì đêm đã khuya. Gió mát rượi thổi qua thành phố ngủ yên. Trời đất bây giờ như đã hòa mình hẳn vào với những lòng đường. Bóng lá bóng nước. Những vì sao ở cùng với những hàng cây, những bờ tường, những biển số trong một khung cảnh gần gũi thân mật. Tôi đi giữa sự gần gũi thân mật này. Tôi tự bằng lòng tôi. Tôi thấy tôi bớt lẻ loi. Chợt nghĩ đến một cuốn phim xem đã lâu. Chuyện thuật lại những ngày trở về buồn rầu của một người quân nhân sau trận đánh nhau lớn, những đợt trọng pháo sấm sét dữ dội đã làm y mất trí nhớ. Y không nhận được gì nữa. Y không biết mình là ai, ở đâu. Người vợ chưa cưới ngày xưa chỉ là một trong muôn nghìn người đàn bà xa lạ. Gian phòng cũ, chỗ ngồi cạnh lò sưởi buổi chiều, chỗ ngồi buổi sáng ở ngoài vườn, những hàng cây những bờ thềm, tất cả những những hình ảnh quen thuộc ấy đều không giúp y nhận lại được nhà cửa quê hương, những người yêu dấu, mặc dù ở đó y đã sống những ngày thần tiên và thơ mộng. Y như giống người đến từ một hành tinh khác. Y đã mất quá khứ, như một thân cây mất rễ. Những ngày tháng về trước đã nhạt nhòa dấu tích, ấn tượng xa xưa chỉ là một vực đen sâu không cùng. Y sống cũng như chết. Y chết giữa cuộc sống. Tôi không muốn làm người quân nhân trở về sau cơn mê hoảng ấy, mất quá khứ, khiến cho hiện tại chỉ còn là một nghĩa địa một sa mạc và đời sống là một cực hình. Tôi muốn nhớ lại, luôn luôn được nhớ lại. Tôi nghĩ đến một thành phố hủy phá. Nhà đổ cây sập. Gạch đá ngổn ngang. Tôi trông thấy cái cảnh tượng hoang tàn đó những bầy thợ thuyền đang xây dựng lại nhà ở và đường đi. Tôi cũng trông thấy những đoàn người lang thang lần mò từ đống gạch này sang đống gạch khác trong một thái độ lầm lì đầy ý nghĩa, tìm kiếm lại những dấu tích cũ. Một tấm ảnh. Một chiếc khăn quàng. Một chiếc giày cũ. Họ muốn nhớ lại. Họ không muốn mất quá khứ. Vì họ còn muốn sống. Vì họ biết rằng những bông hoa rực rỡ nhất của sự sống không thể nở được, không bao giờ nở được, trên khoảng đất héo hon và giá buốt là sự lạnh lùng thản nhiên và sự lãng quên nhau.

At seventeen, I lived long and hard with many stars. The stars I said belonged to Diệu. Why and why now I have decided to talk about those old stars, I will soon explain below. In those days, we lived in a small area called Hiến. A grass hut that belonged to an elderly gentleman named Bằn – the landlord – a small garden by a small pond turned into a small observatory, every night we would go out and sit there, innocent souls and pure heart opened up to path ways into the skies. My first book of poems with a title by Diệu – was never to be published – it was named Phương Sao. The first few rhymes written in the small exciting hours by a small flame, in the middle of the night in a small town was the boundlessness, the blank page as white as it could possibly be was a space that was comparable to a world of stars. Often it was not until very late that we would turn in. The nights were freezing. The woven bamboo blinds thin. The flowers, leaves and the trees had a bizarre and curious fragrant. The familiar blades of grass in the dark at the foot of the pond were as intimate as the human spirit. Patches of earthy damp moss emitting an eerie air. The stars seemed as though were still on their way down to talk about the universe and lives on other cold planets with icebergs floating over them high up in the sky.

An age obsessed with stars, the moon is a friend and the path we took was the shimmering flow of the Galaxy, the dreamy lights occupied fully all the space within my mind, in all the pages of my books, invading my sleep. Our school in Hanoi moved here after several bombardment of a Japanese ammunition depot in Gia Lâm, it was around the end of 1944. The reason why the sky was always a blueish bruised hue of a flammable war time under the shadows of b-2 bombers flying from the coast heading in land towards an air defense identification zone. The mean bomb burned down a corner of the North Gate of the of old citadel. Two days later the school was closed and we left for Phà Đen terminal.

At two in the morning on a night ferry leaving Hanoi was where I first met Diệu. Even if Diệu was still alive, for the rest of my life I will never forget that night on the ferry. The water choppy. The dense darkness sound. The sobbing sound of horn as the ferry left the terminal. Diệu died, the ride on the ferry, the sound of the horn, the rising darkness again alive within me and materialized were the eternal images of a seventeen year old. Tonight as I reminisce about the old stars I find myself in my mind riding an evening ferry in Hồng Hà. I have lost Diệu, far from Hồng Hà and the old stars.

That afternoon, a ferry left Hanoi. The long howl of the horn slamming into empty unseeable beaches. The sobbing were the sound a final goodbye. The back and forth rythmic sway of the water under the bridge. The water ran down through the propeller as the rutter turns back. It was my first impression of time on that first trip. I can recall every single detail. It was a while since the ferry left. The candles were all at once lit up. We were four hundred people not sleeping. Bow to stern were the rumble of quiet chatter. Canvas covered everything in all direction on that winter’s eve. Rose from the engine room was the stuffy air of coal fire. I couldn’t sleep couldn’t read the book I brought along with me nor did I had anything to add to what my friends had to say. In the end I stood up, pulled myself away from the bunched up bestrewn familiar bodies on the ground flipped a flap of the canvas and left through it, made my way to the bow.

That was the first time I saw Diệu. He sat with his back to me on a pile of steel chains. I didn’t know then who he was but I was immediately drawn to him. The familiarity of two people who had something in common in a special moment like this where if Diệu was not already sitting on the pile of steel chains it would have been me sitting there with my back to the stern facing the bow. I froze, did not move, steadied my self by holding onto the steel rail that wraps around the deck of the ferry. In the future after that, I did once found another person who sat like that, on a small platform one sprinkling rainy night, composed like a statue immersed in the silence. I love people who are composed like a statue in such a way. Infinite strings of thoughts ran through their mind pushed out the finite moment and they are by themselves left alone in a world that was detached from everything in the present world. Rodin when he was molding the thinker probably had such moments of detachment like that to create the inexplicable sculptures of a person facing a world in their mind. I don’t think Diệu was there yet in his mind. Shoulders, back, his posture were still preoccupied with what happened: Hanoi. I stood there quietly watching Diệu, the smallest sound felt like an unforgivable intrusion. Diêu’s shadow imprinted over the river eddies, white bubbles like strips of cotton thread. It conjured in me a contrast. Inside, four hundred students being evacuated had their heads together over pages of fiction, quietly talking or fast asleep. While outside, one person sat staring at the night, at time, sat in one world. Diệu was such an odd sight. At such a time I no longer thought he was a student. A mixture of surprise and respect swelled up inside me. Finally, I gravitated. My foot caught on something made a noise and Diệu turned around. He viewed me with indifference, but his eyes lit up like two tiny stars. Quietly I sat down next to him, on the icy pile of steel chains. The ferry continued on its way. A moment later after the ferry had passed Bát Tràng, or it might have been Gốm I came to know somewhat about Diệu. His name, he was from Sơn tây and he had only been enrolled in our school for six months and the school had to move. As it turned out, we were from the same school though we have not met. I asked Diệu:

“It freezing out here. You’re not sleepy”.

“No, Diệu laughed. When I was younger I took a ferry on Sông Đáy I stayed up all night looking at the stars until I had to get off. I like looking at the stars”.

Quiet for a while, Diệu continued:

“There is nothing more beautiful than stars”.

Cutting our conversation were periods of long silence. We would both stare at the darkness in the river under the bow. Then after, look up, I could then begin to appreciate how the stars were so beautiful. Glancing a look at Diệu, the celestial bodies in his eyes and I had no idea what he was in his mind. He was thin, small. His black áo dài was loose on his shoulders, too big for him. When we did not look at the stars, Diệu would tell me about Sơn Tây. An old abandoned rock citadel, deep moats covered completely by over grown grass, the tired midday naps in a small town under the shade of giant bayans, falling asleep to the sound of horse carts through the front and back gates and the afternoon the breeze from Sông Hồng came blowing through the streets along with trucks loaded with goods from Trung Hà heading for the dock. Diệu had an interesting way of telling a story then that had made me laughed. Later I would come to discover for myself the sounds of the commotions around those front and back gates, abandoned moats full of grass that would eventually turned into the most beautiful pages of fiction that I had the privileged to read by Diệu.

The night following the school to Hiến the stars were also bright and things were strange. The flow of the Galaxy draped over and touched the heart of the river cutting it turned it into an aureole an intersection of light. Not sure when Diệu was pointing at something and said:

“Over there where the stars are all on top of each other there must be millions”.

The truth was that I had never imagined how there could ever be so many stars. After that night, the stars I might see them but I only feel closest to them, saw them as the most beautiful stars I have ever seen the night on the ferry where I first met Diệu. The night sky was a black backdrop overhead, beneath was a bottomless river, the ferry slipped through between two blankets of stars, one of water and one of sky. We were sitting in the middle. Thicker were the descending mist, colder the night, more brilliant were the stars. The heavenly body beauty that lies in the mind and imagination of people. Look up, sketch the imaginary lines towards an unexplored distant planet or take an imaginary stroll between the two banks of the stream of the Galaxy, how I felt that night was not something that could be explained by science. The universe was a thing of amorous beauty, I couldn’t explained it when it came to those alluring secretive stars. The ferry continued on its way. I was up with Diệu like that, more preoccupied with admiring the stars than talking, till the ferry docked in Hưng Yên. In contrast were the lights there, dull, sad and ordinary. Then materalised was a pitch black road into town through the corn fields. The alluvium inning vast and wide. The line of students dragged on. Diệu withdrew to the back of the group by my side and we continued our conversations about stars that had not stopped. I nudged him. Diệu then told me about the nights in Sơn Tây, he would stand and watch the stars appeared above the gate of the citadel. He remembered the biggest star would always show up late over the back gate of the citadel, he would wait for it to show as though it was a friend, always at the same predestined place. A few years later after that he couldn’t see the star at the same old place and the sky was missing a bright light like a dark longing. The longer I listened the stranger Diệu became.

By the time we set foot into Hiến there was a faint light of dawn in the sky. The horizon was pink without a single star but those stars were the reason we became friends. My friendship with Diệu after that had a cold light and in the longing form of those stars on the first night.

Diệu’s sadness was always present. The entire forteen months – the time we stayed in Hiến – not once did I see that Diệu happy. The new school really suits Diệu. It was a monastery, a three storey grey building that stood out in the middle of a large grassy field behind a market accessed by a red dirt road into town that was alway muddy. Behind the school, quite a distant away, it was lined my a long dike, shadows of longans trees all as tall as each other drew along with them consistently the moments. I will never be able to forget the starry nights in Hiến, nor will I forget the river banks in Hiến. Lush green grass, always budding fresh,


Mai Thảo [1927-1998] real name is Nguyen Dang Quy, another pen name: Nguyen Dang, he was born on June 8, 1927 in Con market, Quan Phuong Ha commune, Hai Hau district, Nam Dinh province (originally from Tho Khoi village, Gia Lam district, Bac Ninh province, the same hometown and related to the painter Le Thi Luu), his father was a merchant and wealthy landowner. Mai Thao absorbed his mother’s love of literature from Bac Ninh. As a child, he studied at a village school, went to Nam Dinh high school and then Hanoi (studied at Do Huu Vi school, later Chu Van An). In 1945, he followed the school to Hung Yen. When the war broke out in 1946, the family evacuated from Hanoi to Con market, in the “House of the Salt Water Region”, from then on Mai Thao left home to Thanh Hoa to join the resistance, wrote for newspapers, participated in art troupes traveling everywhere from Lien Khu Ba, Lien Khu Tu to the Viet Bac resistance zone. This period left a deep mark on his literature. In 1951, Mai Thao abandoned the resistance and went into the city to do business. In 1954, he migrated to the South. He wrote short stories for the newspapers Dan Chu, Lua Viet, and Nguoi Viet. He was the editor-in-chief of the newspapers Sang Tao (1956), Nghe Thuat (1965), and from 1974, he oversaw the Van newspaper. He participated in the literature and art programs of radio stations in Saigon from 1960 to 1975. On December 4, 1977, Mai Thao crossed the sea. After 7 days and nights at sea, the boat arrived at Pulau Besar, Malaysia. In early 1978, he was sponsored by his brother to go to the United States. Shortly after, he collaborated with Thanh Nam’s Dat Moi newspaper and several other overseas newspapers. In July 1982, he republished the Van magazine, and was editor-in-chief until 1996, when due to health problems, he handed it over to Nguyen Xuan Hoang; Two years later he died in Santa Ana, California on January 10, 1998.

Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.

CƯ SĨ MINH ĐẠT

A sketch of Cư Sĩ Minh Đạt by Nguyễn Thị Phương Trâm

thơ và tranh Cư Sĩ Minh Đạt
Nguyễn Thị Phương Trâm dịch


Cư Sĩ Minh Đạt is one of Hoàng Anh Dũng’s pseudonym. The poet and artist currently lives in Hồ Chí Minh City, Vietnam.

Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.

should I mourn you before you are dead | Nguyễn Thị Phương Trâm

should I mourn you
before you are dead, sing
perform for you
a composition
a requiem of your middle ages

a marriage
beyond your fingertips
sips of love, broken joy
no ploy

take
what isn’t yours

should I mourn you
before you are dead, cry
demand
your resurrection
your Easter

a new life
beyond your fingertips
sips of love, broken joy
no ploy

take
what isn’t yours

should I mourn you
before you are dead, weep
cry for you
demand your escape
from a cage

the freedom
beyond your entombment
sips of love, broken joy
no ploy

take
what isn’t yours



should I mourn you
before you are dead, laugh
pity
your entombment
a bejeweled castle

of your own making
beyond your fingertips
silent birdsongs, broken joys
no ploy

take
what isn’t yours



should I mourn you
before you are dead, be silent
stifle the cry
the anguish
your own entombment

the freedom
beyond your fingertips
sips of love, broken joy
no ploy

take
what isn’t yours



no, I will not mourn
I will not cry

strangers,
like ships in the night?

your entombment
yours alone
not mine.

I get it
a watery grave is better than a cage.


Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.

MAI THẢO

A Sketch of Mai Thảo by Đinh Trường Chinh

In Vietnamese by Mai Thảo
Translator: Nguyễn Thị Phương Trâm


Mai Thảo [1927-1998] real name is Nguyen Dang Quy, another pen name: Nguyen Dang, he was born on June 8, 1927 in Con market, Quan Phuong Ha commune, Hai Hau district, Nam Dinh province (originally from Tho Khoi village, Gia Lam district, Bac Ninh province, the same hometown and related to the painter Le Thi Luu), his father was a merchant and wealthy landowner. Mai Thao absorbed his mother’s love of literature from Bac Ninh. As a child, he studied at a village school, went to Nam Dinh high school and then Hanoi (studied at Do Huu Vi school, later Chu Van An). In 1945, he followed the school to Hung Yen. When the war broke out in 1946, the family evacuated from Hanoi to Con market, in the “House of the Salt Water Region”, from then on Mai Thao left home to Thanh Hoa to join the resistance, wrote for newspapers, participated in art troupes traveling everywhere from Lien Khu Ba, Lien Khu Tu to the Viet Bac resistance zone. This period left a deep mark on his literature. In 1951, Mai Thao abandoned the resistance and went into the city to do business. In 1954, he migrated to the South. He wrote short stories for the newspapers Dan Chu, Lua Viet, and Nguoi Viet. He was the editor-in-chief of the newspapers Sang Tao (1956), Nghe Thuat (1965), and from 1974, he oversaw the Van newspaper. He participated in the literature and art programs of radio stations in Saigon from 1960 to 1975. On December 4, 1977, Mai Thao crossed the sea. After 7 days and nights at sea, the boat arrived at Pulau Besar, Malaysia. In early 1978, he was sponsored by his brother to go to the United States. Shortly after, he collaborated with Thanh Nam’s Dat Moi newspaper and several other overseas newspapers. In July 1982, he republished the Van magazine, and was editor-in-chief until 1996, when due to health problems, he handed it over to Nguyen Xuan Hoang; Two years later he died in Santa Ana, California on January 10, 1998.

Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.

HER NEEDLEWORK | Lê Vĩnh Tài [462]

ảnh của Nguyễn Thị Phương Trâm

A Short Story in Vietnamese by Lê Vĩnh Tài
Translation by Nguyễn Thị Phương Trâm

You can see it right, the drooping autumn leaves, on the branches falling to the ground, nourishing the earth, she said. And the truth is each time around Tết the tropical almond tree would shed its leaves, its branches shivered in the fall while we shivered with the cold.

In the middle of her needlework, she would cry out proudly three times. In the distance is a looming tall building, rather lonely even though it’s right next to the market. Each thread in her piece is the colour of heaven and earth, you can see it right, it’s magnificent, she said, not turning her head, looking at me from the corner of her eye. 

The piece inspires her obsession. The landscape is rather surprising, I said as I stared at the four-story building in the embroidery. It’s the only building in the area and it’s right by my house. An imposing giant wall like a castle pitted with bullet holes from a long-gone era. People ran out of it to hide in the primary school, also near my house. As it turns out, my house was the focus of her piece and yet absent from it. Then again, she had deleted lots of people’s world of memories, so my house is nothing. Like how now people would erase the name of a waterfall or river. In the piece she worked on, the landmarks were embroidered exactly where they should be, including the peaks of each red mountain. The wooden longhouses were splendid, they were embroidered in chocolate, making the four-story building look even more out of place. She didn’t include the airport in her piece, the two-way lane highway runs infinitely beyond the eye as though it never existed. She laughs, our piece shall be green, all the possible shades of the vegetation all around us, she carefully embroidered each petal of tithonia like a jacket. Coming soon will be an inconceivable magical exhibition, purely of her inspiration.

The beating of the war drum never seems to stop, it doesn’t wait for the new school year to start pounding again, it continues to beat to the end of term one, hence term two echoes term one, and so on. Perhaps it’s the reason why there’s never been peace anywhere in the world for very long. I asked her, will there be another war? She grabbed my hand and said, the echoes of the drum continue to rise, the drumming doesn’t stop and the beat goes flying along with the baton in the air from the hands of someone she can’t really see clearly. So she decided not to include them in her embroidery. Because the sound of the drums refuses to retreat so she decided to stitch the rising sound of the drum. Surprising is the sound of the drum, hiding both deception and the truth, the drumming continues at sunrise to the moment she closes her eyes. And my friends, so many of them sleep in, they no longer wake up in time for school anymore.

We all look forward to tomorrow. We all wait for the moment the wall of the four-story building with the sad bullet holes, and the last doors completely leave the alleyway. The last strings of firecrackers burning in unison for the last time the way she used to welcome the new year. Rows of houses remained in her embroidered piece, rows of trees forming what might look like a map, the subject of geography seems to weigh on her more than maths and it’s compulsory. How I can’t work out what is where in her embroidery since the pile of rubble next to my house had also disappeared.

She said, don’t look at it anymore, I’m not an artist. All I want is to live with you and be your muse. And so I lived with her even before I completed my lessons on how to write poetry. I’m just a child from a small town surrounded by rubber plants and plantations.

I grew up, buying produce from the wind and selling the tides, so that the dead bodies bought had enough time to drift away along with the springs and find their way to the open sea. I told her not to look for these springs, since in my childhood the springs I grew up with were never given a name, lost somewhere in a sports field, like a lake I saw recently filled up with dirt, as I held onto my mother’s hand and ran to keep up with other people. Hence the colour blue through her embroidered sunset did not surprise me, I now believe anything is possible, though it might not be in poetry. I cry sometimes, I have such a short life, to live with you, it will never be enough. And darkness is never a collaborator. 

BỨC TRANH THÊU CỦA NÀNG

chàng nhìn kia, những chiếc lá mùa thu đang rũ mạnh thân mình, chúng lìa khỏi cành để rơi xuống làm đất thêm màu mỡ, nàng nói. thực ra cây bàng này năm nào tết cũng thay lá, cành của nó luôn rùng mình vào mùa thu còn chúng tôi thì rùng mình vì lạnh.

nàng đang dệt một bức tranh và hô to vinh quang ba lần. nhìn xa xa, một toà nhà lừng lững, dáng vẻ cô đơn dù nằm gần ngay khu chợ. mỗi một sợi chỉ thêu trong bức tranh là một màu sắc của trời đất, chàng nhìn xem, vẻ đẹp của nó thật vĩ đại, nàng liếc nhìn tôi.

bức tranh tạo nên sự say mê của nàng. phong cảnh thật đáng kinh ngạc, tôi nói khi nhìn ngôi nhà bốn lầu trong bức tranh. nó là ngôi nhà lầu duy nhất của xứ sở ấy và nằm sát nhà tôi. bức tường cao vút chạy dài như một toà thành, từng lỗ chỗ những vết đạn vào một ngày xa lắc. từ trong ngôi nhà mọi người ùa chạy ra để núp vào một ngôi trường tiểu học, cũng gần nhà tôi. hoá ra nhà tôi nằm giữa những hình ảnh của nàng, nhưng trong bức tranh thêu lại không có. nàng từng xoá sổ cả một khung trời thương nhớ của bao nhiêu người, thì ngôi nhà tôi biến mất cũng bình thường. như bây giờ người ta vẫn còn xoá tên một ngọn thác, một con sông. trong bức tranh, bầu trời được thêu trải dài trên địa hình còn nguyên sơ, bao phủ những ngọn núi màu đỏ. những ngôi nhà dài bằng gỗ màu sô-cô-la được thêu lộng lẫy, làm ngôi nhà bốn tầng càng lạc lõng. trong bức tranh nàng không thêu sân bay, đại lộ độ lại hai chiều chạy dài xa tắp, nàng làm như chúng chưa từng có. nàng cười, bức tranh của chúng ta sẽ có màu xanh lục của thảm thực vật, màu sắc của hoa quỳ được em thêu khéo léo như một chiếc áo choàng. triển lãm lần này mọi người sẽ yêu sự kỳ diệu, sự sáng tạo nguyên thủy của em.

tiếng trống chiến tranh dường như không bao giờ ngừng, nó không cần chờ năm học mới mà ầm vang luôn ngay cuối kỳ 1, nên học kỳ 2 là học chuyển tiếp. có lẽ vì thế mà thế giới không tìm thấy hòa bình lâu dài ở mọi nơi. tôi hỏi nàng, liệu có cần một cuộc chiến tranh nữa không? nàng với tay, tiếng trống vang lên tiếng trống không ngừng tiếng trống liên tục đập xuống tiếng trống đang bay tung lên theo chiếc dùi của một người mà nàng cũng không thấy rõ mặt. nên nàng cũng không thêu. vì tiếng trống không lùi lại nên nàng thêu tiếng trống đang tiến lên. tiếng trống như một món quà chứa đầy bất ngờ, với nhiều sự thật và giả dối, tiếng trống vang từ lúc mặt trời mọc cho đến khi nàng nhắm mắt ngủ. và nhiều người bạn của tôi đã ngủ quên, không thức dậy đi học nữa.

ai cũng mong ngày mai. mọi người cùng chờ đợi khoảnh khắc bức tường ngôi nhà bốn tầng nhận những vết đạn cuối cùng buồn bã, và những cánh cửa cuối cùng đã hoàn toàn bỏ ngõ. những loạt pháo đồng loạt khai hỏa lần cuối cùng như lúc nàng đón chào năm mới. trong bức tranh vẫn còn sót những dãy nhà, những hàng cây xanh như tấm bản đồ, môn địa lý hoá ra lại nặng nề hơn cả môn toán và không phải là môn tự chọn. cũng như tôi vẫn chưa phân biệt trong bức tranh của nàng, đâu là đâu, vì những đống gạch vụn gần nhà tôi cũng đã biến mất.

nàng nói, chàng đừng nhìn vào bức tranh nữa, em không phải là hoạ sĩ. em chỉ sống với chàng như một nàng thơ. và tôi đã sống với nàng thơ khi tôi chưa kịp học xong lớp làm thơ. tôi chỉ là một đứa bé thị dân của một góc phố nhỏ bạt ngàn cao su vây quanh.

tôi lớn lên, đi chợ mua những đứa con của gió và bán đi những cơn thủy triều, để xác người mua còn kịp trôi đi theo dòng suối, tìm về biển cả mênh mông. tôi nói nàng không cần tìm những con suối này, vì tuổi thơ tôi đã đi dọc theo những con suối khi nó còn chưa có tên, đã lạc qua sân vận động, đã nhìn những cái hố mới vừa lấp lại, đã vội vã nắm chặt tay mẹ để còn kịp chạy theo mọi người. nên bây giờ hoàng hôn có màu xanh trong bức tranh của nàng không làm tôi ngạc nhiên nữa, tôi tin bất cứ cái gì cũng có thể xảy ra, chỉ là không phải trong thơ. có khi tôi khóc, cuộc đời ngắn ngủi của anh, dù chỉ để sống bên em, cũng không bao giờ đủ. mà bóng tối cũng không cần bạn đồng hành.

——-


Lê Vĩnh Tài, the poet and translator born in 1966 in Buon Ma Thuot, Daklak, Vietnam. The retired doctor is still a resident of the Western Highlands and a businessman in Buon Ma Thuot.

Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.

ĐINH TRƯỜNG CHINH

In Vietnamese by Đinh Trường Chinh
Translator: Nguyễn Thị Phương Trâm


Đinh Trường Chinh, the poet, and artist was born in 1970 in South Vietnam. The poet currently works in IT in Virginia, U. S. A.

Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.