A poem in Vietnamese by Lê Vĩnh Tài Translator: Nguyễn Thị Phương Trâm Art: Đinh Trường Chinh
project 88 by Đinh Trường Chinh
in us
endlessly drifts
between our ears and darkness
acknowledges what was unsaid
–
the quiet
the months
years
minutes
a soundly sealed box…
–
only
our hair is left to grow grey
–
those in the spirit of poetry
have shattered
–
quietly
like you dear(em),
now without substance…
*
without your heart
there’s no such thing
as the birth of poetry
since it’s actually
the falling geese feathers
tainted with your blood
–
the poem
it’s not where seabirds
lay their eggs
it’s an annoying grain of sand
in your eye
–
as you blow in a single breath
across the ocean
the poem blows up everything
including the very last battleship
inciting each
and everyone of us
like bamboo spikes(full speed ahead)
heads for the sea
—
July 2022
_
im lặng…
để chúng ta biết rằng sự vô ngôn
trong mỗi chúng ta
luôn luôn trôi
giữa hai tai và bóng tối
–
im lặng
như một cái hộp đóng kín
tháng năm
năm tháng
tháng năm…
–
chỉ có tóc
là chưa bạc
–
ai sẽ cùng tinh thần của thơ
đã vỡ
–
đừng giật mình
làm thế nào ánh sáng
rơi, mà gây ra tiếng động?
–
im lặng
như em
giờ không trọng lượng…
*
nếu không có trái tim của bạn
bài thơ không bao giờ có thể
sinh ra
vì nó chính là
lông ngỗng rơi
dính máu của bạn
–
bài thơ
nó không phải chỉ là nơi loài chim biển
đẻ trứng
nó chỉ là hạt cát
xốn xang trong mắt bạn
–
bạn thổi một hơi thở
trên đại dương
bài thơ sẽ nổ tung
đến từng chiếc chiến hạm cuối cùng
và mang từng
người
như ngọn chông
lao ra biển
Lê Vĩnh Tài, the poet and translator born in 1966 in Buon Ma Thuot, Daklak, Vietnam. The retired doctor is still a resident of the Western Highlands and a businessman in Buon Ma Thuot.
Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.
they have placed a layer of mist around everything
what will happen when the air is filled with this foggy whiteness
to the point where we will lose our way
along the paths formed by the foggy wall
.
we are the autumn
the more we follow
the more we run the more we are afraid of losing our way
truly a silvery night
and the long winded poem is a bit different somehow
.
we step away stood there and watched her
to find that she, the poor child’s now a stranger
along the way we meet all sorts of righteous people
oblivious to their own deception
.
but we have it all
adamantly and quietly we unravel our dreams
if the night is ours
but right now
we are alone in this world
we, more importantly are but two
.
baby(em) don’t cry
—
FEBRUARY 28, 2022
—–
những suy nghĩ xám xịt
1.
tôi biết con đường bạn đi
núp sau cơn mưa bất chợt
.
tôi biết bạn có những bí mật
nói chuyện với nhau chỉ bằng ánh mắt
.
bạn buồn và khôn
với những suy nghĩ xám xịt
của bạn
2.
đôi mắt của bạn u tối đối với tôi
tôi không biết nếu bạn yêu tôi
hay không yêu tôi
.
mà thôi bóng tối
chúng ta rồi cũng chỉ trôi
như năm tháng trôi
qua cái chết
.
như tôi
sẽ chết
3.
có lẽ tôi phải lên đến tận thiên đường
cầu thang màu xanh rộng mở
.
thời gian sẽ trôi
chúng ta như những chiếc lá đang bay
nếu chúng ta không vượt qua, chúng ta sẽ chết
bạn biết và nếu như tôi không biết
thì bạn trôi
.
chúng ta không thể làm đám cưới
chúng ta là hai kẻ ngoại tình
.
có người nói: chàng hãy tìm người khác
chứ không lẽ cứ mãi đi theo em?
.
một người nói: dạ thưa mái tóc trên đầu
trắng như chim bồ câu
.
chẳng ai hiểu chúng ta
.
chúng ta là những hiệp sĩ
đang thổi vào sừng của mình
và đang trên yên ngựa
.
chúng ta đi theo con đường riêng
chàng hiệp sĩ tìm tình yêu
nàng phụ nữ trước ngày tàn đi tìm
buổi chiều nước da nâu màu hoàng hôn vàng như tóc
cố lên đừng khóc
.
chàng hiệp sĩ đã quên lời
chỉ còn cách hát karaoke trong nước mắt
khăn lạnh và thơm
.
khi một hiệp sĩ khác
đang mỉm cười từ hai ngàn cây số
vé máy bay còn chỗ
khứ hồi
4.
sân bay
tiếng ồn ào của những con người đang mệt mỏi
cũng cố giật mình với những suy nghĩ chiến tranh
và danh sách những người đã chết
.
chàng hiệp sĩ bay về làm thơ căm thù theo thời thế
nhưng không thể bỏ qua vẻ đẹp như thể
một cơn gió
mới thổi qua
.
vẻ đẹp của hàm râu và cái đầu
lúc nào cũng ngẩng cao và ngỏng cao cùng
đôi mắt biết nói
những điều bí mật
đôi môi sẽ khô
.
sự sợ hãi và nhút nhát của chúng ta
như đôi mắt trẻ nhỏ ngơ ngác trước lời hăm dọa
.
một tiếng khóc
.
ồ ồ đôi mắt
và đôi tay
và hai chân
chúng ta chỉ cần một tiếng nói
.
ồ ồ có bộ ngực để anh ta vùi đầu
đôi môi anh ta có thể nói dối
chúng ta chỉ cần một giọng nói
.
chúng ta phải ở lại cho đến khi chúng tôi chết
chúng ta chỉ còn một tiếng kêu
lêu lêu đồ ganh tỵ
.
đáng thương
chúng ta gãy xương sườn
vì những lời vu khống
.
chúng ta cần một tiếng nói
chúng ta không hèn
không câm không ngọng
.
chúng vẫn còn sự tưởng tượng
chúng ta không tự sướng
chúng ta là những thiên tài
cả khi thiên tai bão lũ
.
như ai đó gọi em
giọng trong như nước
trong veo rơi trên đá
ngôi làng xa
vắng lặng
.
chúng ta cay đắng chúng ta ngọt ngào
.
chúng ta chỉ còn giọng nói
nơi em cũng yên lặng
chơi một mình
.
như đóa sen ngập tràn bên suối
dưới mái vòm một ngôi chùa
nơi lặng và ngồi và mơ và mộng
nơi nụ hôn là những bông hồng
.
rực rỡ
nơi hoàng hôn vẫn còn chìm sâu
như khu vườn ngàn lẻ một đêm Ba Tư khép lại
chìm vào giấc ngủ
.
chúng ta chỉ còn một giọng nói
một chút nữa khi em đi
chúng ta sẽ sống lại
.
như bài hát biển nhớ
biển đầy như những đêm
và ngày sẽ bùng cháy
trong khúc hát mỏng manh
.
chúng ta sống trong ánh sáng
trước khi quay về cõi hư vô là ngôi nhà của họ
.
ồ ồ em gái
em đừng ho
.
chúng ta chỉ là một tiếng gọi
nếu tôi là bông hoa trên cành cây đó
tôi sẽ trèo lên để chạm vào cửa sổ
của anh ấy, và cố sức làm cho căn phòng
càng thêm xinh đẹp
.
nếu tôi là con chim nhỏ
rung rinh trên cành
suốt ngày tôi sẽ hát
tình yêu của tôi cho anh ấy
cho đến khi anh ấy quấy rối tôi
không còn quấy rối một nàng thiếu nữ
.
với đôi mắt u ám
anh ấy sẽ phải nghe những bài hát
mà anh ấy phải thở dài
như sự chia hai
ly rượu cuối
.
và vì tôi không là một thiếu nữ
để có thể hôn anh ta bằng miệng
tôi chỉ có thể đo nồng độ cồn
vần ồn
anh ấy thích nhưng thơ không thích
.
chúng ta ngang qua căn phòng
mờ ảo tiếng đọc thơ kéo theo những âm thanh
hơi thở, có ai ngờ chúng quấn quít quấn lấy nhau
và lấp lánh ánh vàng trong bóng tối
.
vì thế bài thơ
đã chuyển sang tiếng hát nhà thờ
nó đã được phổ nhạc khi bầu trời lông gà lông vịt của anh trần tiến dũng bị phá vỡ
và bị đạo và ánh sáng bị nhấn chìm trong làn sóng
mỗi đêm
.
ở đó, chúng ta thấy
những ngôi sao sáng
lấp lánh như những chuỗi hạt
sao anh không nhét sợi dây chuyền vào cổ họng em?
.
chúng ta muốn xoay
nó tròn và bạn có thể chơi với nó
mặt dây chuyền có một ông già
ngậm tẩu
.
em cười như thể em là đứa trẻ mơ mộng
phía sau đôi mắt tiên nữ giáng trần đang sống
trong sự ghen tị. Chúng tôi là vua và hoàng hậu
chúng ta có mệt mỏi cả đêm?
.
chúng ta quên
chúng ta vẫn còn giọng nói
những bông hoa sớm trong đồng cỏ
tôi phải tặng chúng cho chúng ta
trước khi chúng tàn lụi
.
chúng ta còn một giọng nói
trò chơi đã thay đổi
cái bóng lù lù quá lớn
hoặc thu nhỏ lại quá nhỏ
.
những cái bóng vội vàng, len lén dọc theo một bức tường
ám ảnh như những người đồng tính
và cuối cùng chúng ta nhìn thấy chúng
mơ hồ ánh sáng
.
cho đến đêm, dường như tất cả ánh sáng
đều tập trung trong mắt bạn
bằng cách nào đó, chúng ta vẽ bạn, một công viên rộng mở
nằm bên dưới
.
chúng ta thở
chúng tôi cần một giọng nói mơ hồ
chúng ta có một triệu ngọn đèn
sự rối loạn như các vì sao
chúng ta coi thường chúng
những chòm sao rối tung trong mây
chúng ta không bay
thôi, chúng ta hãy thở
đó là khu vườn của chúng tôi
.
chúng ta mang cả thế giới
vào con đường dấu chân chúng ta trong ngọn lửa
huyền bí
.
thức dậy, ôi bình minh trong những thân cây rỗng
bước ra cơn buồn ngủ, nhìn
dọc theo những con đường
.
bạn có nhớ chúng ta đã quan sát những con vịt
chúng ngủ như thế nào không?
chúng có một chân
chúng ta có một giọng
thiên nga có một giấc mơ
.
bây giờ mặt hồ chỉ mang ánh sáng
hoàng thu vàng phản chiếu rung động mong manh
.
có một vì sao, trong hồ, nếu bạn cúi xuống
bạn gần như có thể chạm tới nó
như trăng vàng đáy nước ngày xưa
cô nàng múc uống
luống cuống nhà sư
.
ước gì
có sao như sương có sương như sáo sao giăng đầy ngực áo
.
nó lạnh làm sao
ngay cả ánh đèn cũng lạnh
họ đã đặt khăn choàng sương mù xung quanh
cái gì sẽ xảy ra nếu không khí trở nên trắng mờ
đến mức chúng ta sẽ lạc lối
dọc theo những con đường tạo ra từ bức tường sương mù
.
chúng ta là mùa thu
chúng ta càng đi theo
càng chạy càng sợ lạc
thật là một đêm bằng bạc
và bài thơ thật dài và khác lạ làm sao
.
chúng ta bước đi chúng ta đứng đây nhìn
để thấy em đã trở nên xa lạ
trên con đường chúng ta gặp toàn những kẻ nghĩ mình thành chánh quả
không biết mình ba hoa
.
nhưng chúng ta có tất cả
thì thầm đột nhập giấc mơ
nếu đêm là của chúng ta
nhưng bây giờ
chúng ta cô đơn trong một thế giới
chúng tôi chỉ còn hai chúng ta
.
em đừng khóc
ngoài vườn cỏ mọc
màu xanh…
Lê Vĩnh Tài, the poet and translator born in 1966 in Buon Ma Thuot, Daklak, Vietnam. The retired doctor is still a resident of the Western Highlands and a businessman in Buon Ma Thuot.
Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.
A poem in Vietnamese by Lê Vĩnh Tài Translator: Nguyễn Thị Phương Trâm Photography: Nguyễn Thị Phương Trâm
Minh at St. Joseph Cathedral Hanoi, Vietnam
today was a good day
I went out
I laughed
held the hand of someone I adore
–
there a chance it will happen again
but today I want to hold on to this feeling
soak up this moment
–
a little bit longer
tomorrow hopefully
I will still
like it
__
NHỮNG CÁI NHỎ XÍU
–
tôi thích ngày hôm nay
tôi có một chuyến đi chơi
cười vô tư và nắm tay một người
tôi hâm mộ
–
nó có thể còn xảy ra một lần nữa
nhưng tôi muốn cảm giác này
ngay ngày hôm nay
–
chỉ một chút nữa thôi
tôi hy vọng ngày mai
vì tôi vẫn còn
thích
—
I’VE CLICKED ON THE MOUSE
–
noting a moment
saved it like a memory
a light so I may have
enough time to get into the frame
–
since all that’s left
shall fall apart in the dark
only me
–
there to share the burden
there for support, maybe
I will find you, my love
so I may feel happiness
even though you’ve been promoted
praesidium
–
I’m warm
once more
reminded again what it’s like to be loved
__
TÔI NHẤP CHUỘT
–
ghi lại một khoảnh khắc
lưu giữ nó như một kỷ niệm
một ánh sáng để tôi
chạy đến và lọt vào khung hình
–
vì tất cả còn lại
sẽ sụp đổ trong bóng tối
chỉ còn tôi
–
đôi khi để chia sẻ
đôi khi để trân trọng
anh sẽ tìm lại em
để cảm thấy hạnh phúc
dù em đã lên chức
chủ tịch đoàn
–
tôi ấm áp
một lần nữa
để được nhắc nhở về tình yêu
—
THE POEMS IN THE YEARBOOK
–
haunting
in the voices of those
I knew
–
but will never see
–
I’ve been pulled
into
worlds
once discovered
but will never
see
–
each page felt as though
I’m being bleed dry as I read them
my heart shredded via every stroke of the pen
and I cried because there’s was but one conclusion
–
there were no more time
to dream…
__
TÔI ĐỌC NHỮNG BÀI THƠ TRONG KỶ YẾU
–
bị ám ảnh
bởi giọng nói của những người
tôi đã biết
–
nhưng tôi sẽ không bao giờ được gặp
–
tôi
được lôi cuốn
vào những thế giới
tôi từng khám phá
nhưng sẽ không bao giờ
nhìn thấy
–
cảm xúc tôi khi đọc
được phóng to và vắt kiệt từng trang
với vết mực xé nát trái tim
tôi khóc vì mình chỉ còn một câu kết
–
tôi hết
giấc mơ…
—
WHEN THERE WAS NO MORE DREAMING I COULD STILL REMINISCE
–
the day I fell in love with her
light gradually fading
by the minute the hour
time drifted in slow motion quietly passed by
the moments disappearing into forgetfulness
–
in the dying light my love
you’re crying fading away down the memory lane
countlessly I’ve looked back
wrinkly sad face and lonely heart
–
shedding a tear of resentment
searching for absolution for the time lost
not searching for my ego
otherwise I’ll be Nguyễn Khải
__
HẾT GIẤC MƠ NHƯNG TÔI HỒI TƯỞNG
–
ngày tôi yêu em
ánh sáng mờ dần
từng phút từng giờ
chậm rãi trôi qua trong lặng lẽ
khoảng cách mất rồi lãng quên
–
ánh sáng đang tàn
em đang khóc phai mờ trong ký ức
tôi được nhìn lại không biết bao nhiêu lần
một trái tim cô đơn và gương mặt nhăn nheo
–
giọt nước mắt ân hận
tôi đi tìm và tha thứ cho thời gian đã mất
không phải đi tìm cái tôi
không thôi tôi thành Nguyễn Khải
—
THE UNSPOKEN WORDS AND THE LOVE LOST
–
light filtering out
all the cracks through my battered heart
–
I’m in pieces of desolation
the decay in envy
poor me
–
slowly in the end you came sneaking back
to torture my exhausted spirit
with recall and nightmares
–
you steeped me in the colours of you, my love
with the hope of survival, I
needed to breathe that bit longer
–
like long ago
when you were
everyone’s virus
__
LỜI NÓI KHÔNG THÀNH VÀ TÌNH YÊU BỊ BỎ RƠI
–
ánh sáng lọc qua
những vết nứt của trái tim tan nát
của tôi
–
tôi vỡ vụn trong cô đơn
sự thối rữa trong lòng ganh tỵ
tôi đáng thương
–
cuối cùng em cũng len lỏi đến
hành hạ tâm hồn mệt mỏi của tôi
với những ký ức và ác mộng
–
màu sắc của em nhuộm lên tôi
với hy vọng cố gắng sống, tôi
chỉ cần thở thêm một chút nữa
–
như ngày xưa
em từng là virus
của mọi người
—
THE TRUTHS YOU HAVE FORGOTTEN, MY LOVE
–
the moment of ultimate
clarity
–
when you’re able to discern
the truths
–
you will always know
how to approach
from the moment you get out of your bed
it’s in your bones
–
a forgotten thought
eating away at your brain
and you’re breathless
–
something more substantial than time
pooling, threatens you, to your soul suffocates
reminding you of your
fragile existence
–
we spread ourselves out too thin
to live through
the days I bear
the consequences of our history
–
light is no different
to the darkness of humanity
your burden is not necessity
my love
–
our children will be armed
with a lifetime or a moment on whatever day…
__
SỰ THẬT NHƯNG EM ĐÃ LÃNG QUÊN
–
khoảnh khắc của sự rõ ràng
tuyệt đối
–
khi bạn có thể cảm nhận
những sự thật
–
bạn luôn biết cách
phù hợp với quan điểm
ngay từ giường ngủ
hay xương tủy của bạn
–
một suy nghĩ bị lãng quên
ăn nhanh vào trí nhớ
và bạn bị tắt thở
–
một trọng lượng nặng hơn thời gian
lắng đọng, ôi không, nó đè lên linh hồn
nhắc nhở về sự tồn tại thoáng qua
của bạn
–
chúng ta đang giang rộng ra
để sống qua
những ngày tôi chịu hậu quả
của lịch sử là chúng ta
–
ánh sáng cũng như bóng tối
của con người
đừng tạo thêm gánh nặng
em ơi
–
con cái chúng ta sẽ mang theo
một đời hay một ngày nào đó…
________
July 2022
Lê Vĩnh Tài, the poet and translator born in 1966 in Buon Ma Thuot, Daklak, Vietnam. The retired doctor is still a resident of the Western Highlands and a businessman in Buon Ma Thuot.
Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.
A poem in Vietnamese by Lê Vĩnh Tài Translator: Nguyễn Thị Phương Trâm
Boun Ma Thuot, Dak Lak, Vietnam [samsung SM-S908E ƒ/1.81/15546.4 mmISO12]
The Chư Mang vernacular has 96 words to describe love, so how could there be only 1 word in English? When the poem is deprived, it is but 1 word. The people of Chư Mang have 30 ways to describe a storm so that the poem may be just enough to wet our hearts. A man of Chư Mang will die if he had but the one word to describe the rain. The way we will die alone if we only have one word to love.
The translator says a verse of poetry is too short to reveal her gentle heart in poetry. Plus, isn’t the thrill of a kiss much more fleeting?
Why I will never be able to translate this man? Because he is my friend, and I can but chastise him in silence, as I would my heart.
What is sanctified? Love bound our spirits, together, now and forever. Like the shyness of a deer’s horns trembling in fear, fleeing from a hunter, faint hearted, and it is still not love.
What makes a verse moan?
How may a translation end up drenched in tears?
If not for the young sailors and their sails braving the seas, if not for the old men washed ashore in their tiny dinghy…
—
August 1st, 2022
_____
Tiếng Chư Mang có 96 từ chỉ tình yêu, vậy ai nói trong tiếng Anh chỉ có 1? Khi bài thơ nghèo đi, nó chỉ còn 1 chữ. Người Chư Mang có 30 từ chỉ về cơn mưa để bài thơ đủ ướt trái tim của chúng ta. Một người Chư Mang có lẽ sẽ chết nếu anh ta chỉ có 1 từ chỉ về cơn mưa. Như chúng ta chết trong cô đơn vì chúng ta chỉ có 1 từ để yêu.
Dịch giả nói một câu thơ thì quá ngắn gọn để bộc lộ trái tim dịu dàng của cô ấy trong thơ. Nhưng không phải cảm giác hồi hộp của một nụ hôn vẫn còn ngắn hơn nhiều sao?
Tại sao tôi không bao giờ dịch người đàn ông này? Vì anh ấy là người bạn, tôi chỉ biết trách móc anh ấy trong im lặng, như trách móc trái tim tôi.
Linh thiêng là gì? Tình yêu gắn kết tinh thần của chúng ta với nhau, bây giờ và mãi mãi. Như sự nhút nhát của chiếc sừng nai run rẩy sợ hãi trong rừng, nó chạy trốn chàng thợ săn, ngất xỉu mà không phải tình yêu.
Điều gì khiến bài thơ thở dài?
Điều gì khiến bản dịch đẫm nước mắt?
Vì các thủy thủ trẻ dũng cảm trên biển với cánh buồm, và các ông già trôi dạt vào bờ trên bất kỳ chiếc thuyền vỏ lãi nào…
Lê Vĩnh Tài, the poet and translator born in 1966 in Buon Ma Thuot, Daklak, Vietnam. The retired doctor is still a resident of the Western Highlands and a businessman in Buon Ma Thuot.
Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.
A poem in Vietnamese by Lê Vĩnh Tài Translator: Nguyễn Thị Phương Trâm Photography: Nguyễn Thị Phương Trâm
Once a day, the butterflies wander and play.
They fly from one flower to another.
To then sleep, they sleep so they may again tomorrow wander and play.
You and her were once on a small boat. A storm was brewing.
She was on the verge of tears: “Aren’t you afraid? Death means, you and I shall be two boulders. At the bottom of the deep, deep sea.”
You unsheathe the dagger on your hip. It gleamed. Sticking the blade at her throat. You asked: “Aren’t you afraid?” She laughed: “Why should I be afraid? I know you love me.”
You laughed: “Then why should we be afraid? They all love you, and the storm is merely the flutters of butterfly wings.”
_____
March 2019
Mỗi ngày một lần, mấy con bướm rong chơi.
Chúng bay từ cánh hoa này đến bông hoa khác.
Sau đó chúng ngủ, để sáng mai còn rong chơi tiếp.
Một lần, nàng và bạn trên một con thuyền nhỏ. Cơn bão.
Nàng gần như khóc: “Chàng có sợ không? Cái chết, chàng và em sẽ là hai tảng đá. Nằm dưới đáy biển sâu.”
Bạn rút con dao vẫn mang bên hông ra khỏi vỏ. Ánh chớp. Con dao kề ngay cổ nàng. Bạn hỏi: “Nàng có sợ không?” Nàng cười: “Tại sao em phải sợ? Em biết chàng yêu em.”
Bạn cười: “Vậy sao chúng ta lại sợ? Mọi người yêu em, và cơn bão chỉ là cánh vẫy của con bướm.”
Lê Vĩnh Tài, the poet and translator born in 1966 in Buon Ma Thuot, Daklak, Vietnam. The retired doctor is still a resident of the Western Highlands and a businessman in Buon Ma Thuot.
Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.
A poem in Vietnamese by Lê Vĩnh Tài Translator: Nguyễn Thị Phương Trâm Art: Nguyễn Thị Phương Trâm
1.
poetry begs the pardon
of all the women poetry once claimed as divine
as fire
and smoke
.
poetry apologised
not because you’re unrefined
.
but far beyond the poem, you’re beautiful
2.
a woman coloured in her youth
rushed down the street
asked herself whether she’ll find
a man also in the youthful hues
of her twenties…
3.
behind her
poetry carried a loaf of bread and a bottled water
ready and prepared
to follow
.
heard the rustling wind
at the birth of poetry’s parents
.
meat and bone once again
turned into a poem
the execution of a life
with the knowledge that
poetry was worthy of living
4.
poetry oblivious of the fact that it may
disappear into itself
.
poetry fearful
of self-possession
.
beneath the canopy poetry was oblivious of the Sun
the October eve
the damp wet moon rode the dark horse
the entire night.
5.
when you named a star after poetry
poetry wept
because your feet were grounded
while poetry’s head were in the clouds
.
remember when I wrote your name
on the screen and the print
had seeped from one page to the next
.
when we kiss the lips of strangers my love
with your name on the tip of my tongue
we will diminish the taste of us
.
reminding us that we will never be together
as everything continued to unravel
.
so, abandon it we should since the poem
remained unencumbered by numbers
6.
as for me
.
my own voice denied myself of a resolution
my glare denied me a look
my shadow refused to follow me
my footsteps denied any kind of evidence of I
.
someone had stolen my body
gave it to someone else
they denied my access
to me
7.
lost somewhere were the quiet lyrics
after you foolishly exposed
its pain
you had mistaken it for an aria
a declaration of love
pleading for a night with you
.
in your denial
your echoe was too soft for this fleeting frightful world
for the whispers of smoke
in your eyes
.
they saw you
in a cloak of judgement
always ready to echo judgement
so they pleaded with you to
– stop
.
you put on your mask after the judgement
before you wept
the lyrics understood then that
all masks
have slits
for eyes…
8.
when the poem
following me around was a bottle of fish sauce
it had pleaded
asked
for help…
.
you were in the dark
under a layer of cloud hinting
early scents of the rain
you were again wet and cold
.
food needs flavour
the way a poem needs to smell
like a dirty sock
.
if the poem is the fish sauce
then it needs an empty bottle
for a silent drama
for life to play out
.
so all the mess
can escape
the sock, like a toe
through a hole
.
now, once again
you heard the poem
alarmed and in pain…
.
we’re
like damp
leaves
at the intersection
.
we’re
drooping withered fingers
rotten leaves on the keyboard
.
we’re tight
-lipped
climbing the stage
received the medals
elated and delusional
.
when poetry had a change of heart
the poem wanting fame
will be nothing else
but meaningless
.
forgets to breathe
lungs bloated with the stench
of fish sauce
of sewage
of morality
of the deception of rotting leaves
haunting spectres
.
long ago
the poem was as soft as the autumn clouds
like well worn soles
damp mesmerising leaves
like metal to magnet
.
an autumn
busy shovelling
meandering
the poem
ends (up)
stumbling
.
asked itself why
they kept piling rotten leaves into a poem into logic into a hero into a madman into lots of stuff
like the logic of eradicating fascism turning it into a purpose
stuffing the poem with rotting decay
.
everything of theirs it learns off by heart like the palm of one’s hand
like drinking like three meals a day
.
both feet together in battle
bled
stuck to their shoes
as they climbed the stage
.
the inevitable winter
surpassable by those who love
despite the falling autumn leaves despite the damp wet rotting leaves
battered singing flying around crying leaves (see)
we know that indeed
the deaf often gets free
invites to symphonies
9.
the words crossed off in a poem
like those who had died leaving behind their friends
hoping that they like everyone else will remember them
.
and when the poem rediscover
the discarded words
lying around like patients in a hospital
three in a bed
nodding off to sleep
.
imprints of each word
pushing crawling (on all four) on the page
exhausted, shivering with high fever
looking for a place to lie down
after it has been discarded
.
a poem also needs a plot of dirt
a place to breathe
to hope
those alive will never remember
when it broke
in half
10.
please be careful with us
.
please from the goodness of your heart
whether you want to or not
remember we are poets
we don’t fall in love so easily, we fall
into love as all of us would fall to our death
.
within the mind and heart of everyone
we are flying
.
a poet could alone exist quietly
a poet could be all of us
like veins on our wrists
like terror of those slits
we’ve kissed the devil
entered hell and came out the other side
.
now you’ve been notified
a poet could be treated with disdain
we do not love just one person when we fall
we love all
all that is our world
all that is
ourselves
.
when injured it’s difficult for us
to heal, hence
please
please be careful with us
.
a poet has two lives
one outside of themselves
and one within their heart
.
when you look into a poet’s eyes
you may see the sound depths
.
please spare the time to read each word
each verse
no matter what you know or don’t know
there’s one word you might love more
not just the underlined words
.
the poet lives often in two worlds
two very separate worlds…
.
[May 2019]
____________________________
MƯỜI BÀI THƠ
1.
thơ xin lỗi
tất cả những phụ nữ mà thơ từng gọi là người đẹp
như lửa
như khói
.
thơ xin lỗi
không phải vì bạn không đẹp
.
mà bởi vì bạn còn đẹp hơn cả bài thơ
2.
người đàn bà màu xanh
đang chạy hối hả trên đường
tự hỏi khi nào sẽ tìm thấy
một người đàn ông cũng có màu xanh
ngày nàng hai mươi tuổi…
3.
phía sau nàng
thơ vẫn mang một ổ bánh mì và chai nước lọc
chống đói
chạy theo
.
nghe gió xào xạc
đến nơi cha mẹ thơ cũng vừa mới được sinh ra
.
một lần nữa thịt da
đã trở thành bài thơ
thực hiện một cuộc đời
để cuối cùng nó cũng biết rằng thơ
đáng sống
.
4.
thơ không biết nó có thể biến mất
vào cơ thể của mình
.
thơ sợ hãi
phải làm chủ nhân chính mình
.
thơ không nhìn thấy mặt trời dưới tán cây
vào đêm tháng mười
và mặt trăng đang cưỡi một con ngựa đen bị ướt
cả đêm…
5.
khi bạn đặt tên một ngôi sao bằng tên của thơ
thơ đã khóc
vì chân bạn vẫn bám trên mặt đất
trong khi trên đầu thơ là những đám mây
.
còn nhớ khi anh viết tên em
trên màn hình máy tính
mực đã phai từ trang này qua trang khác
.
chúng ta đã hôn lên môi người lạ
để át mùi vị của chúng ta
khi tên của em trên đầu lưỡi của anh
.
còn nhớ chúng ta đã không bao giờ có được
nhưng mọi thứ vẫn xảy ra
.
thôi, chúng ta hãy quên
như bài thơ quên đánh số
6.
Tôi
.
tiếng vọng của tôi không chịu trả lời cho tôi
ánh mắt tôi không nhìn tôi
bóng của tôi cũng không còn theo tôi
bước chân tôi không đi theo tôi
.
tôi đã bị ai đó cướp mất bản thân mình
để trao cho người khác
và họ không cho tôi quay trở lại
làm tôi…
7.
những ca từ thì thầm như thể chúng bị lạc đâu đó
sau khi bạn đột ngột gặp
chúng trở nên đau đớn
và bạn nghĩ
chúng đã hát lên tình yêu của mình
và xin qua đêm với bạn
.
bạn không tin
vì những âm thanh quá nhẹ trong thế giới phù du và đáng sợ này
thì thầm
như khói trong mắt bạn
.
chúng nhận ra bạn
trong chiếc áo choàng của tòa án
luôn kết tội âm thanh
chúng cầu xin bạn
– dừng lại đi
.
sau khi kết án
bạn mang mặt nạ và ứa nước mắt
những ca từ mới hiểu ra
rằng trong mọi mặt nạ
vẫn luôn chừa lại cái khe
cho đôi mắt…
8.
khi bài thơ phải làm một chai nước mắm
đứng sau lưng tôi
tôi nghe nó kêu
cứu
với…
.
bạn
đã tối, một lần mây
và mưa bắt đầu có mùi
bạn ướt, lạnh thêm lần nữa
.
thực phẩm cần mùi vị
như bài thơ cần mùi
của chiếc vớ
.
bài thơ là nước mắm
nên nó cần một vỏ chai rỗng
làm vở kịch câm
của đời sống
.
để con rối
thò ra
như ngón chân chúng ta chui qua
chiếc vớ thủng
.
bây giờ, một lần nữa
bạn sẽ nghe bài thơ
báo động đau đớn…
.
chúng ta
như những chiếc lá
ướt
nơi ngã tư
.
chúng ta
ngón tay đang rủ xuống
như lá mục trên bàn phím
.
chúng ta câm
miệng
leo lên sân khấu
lãnh giải thưởng
tưởng tượng và sướng
.
và thơ đang thay đổi
thành bài thơ háo danh
đành
vô nghĩa
.
nó quên mất cách thở
căng hai phổi của mình
và mùi nước mắm
mùi cống rãnh
mùi đạo đức
giả hình ảnh của lá mục
ám ảnh như bóng ma
.
ngày xưa
bài thơ mây xốp mùa thu
đôi giày mòn vẹt xuống
thu hút chiếc lá ướt
như nam châm hút sắt
.
một mùa thu
lu bu cuốc xẻng
lục cục lào cào
bài thơ lúc nào
cũng
vấp
.
nó tự hỏi tại sao
họ lại đẩy những chiếc lá mục thành bài thơ thành lý luận thành anh hùng thành thằng khùng thành nhiều thứ
như logic diệt phát xít thành mục đích
làm bài thơ đầy mụt nhọt
.
mọi thứ của họ nó học thuộc như lòng bàn tay
như rượu say như ăn chực
.
hai bàn chân nó cũng tham gia chiến đấu
và bị chảy máu
dính bết vào đôi giày
đang leo lên sân khấu
.
mùa đông sẽ đến
những người đang yêu sẽ vượt qua
bất kỳ mùa thu lá rơi lá ẩm lá
mục lá nát lá hát lá bay lá khóc lá nào
mà ta từng biết
những người điếc
vẫn thường có vé mời nghe giao hưởng
9.
những con chữ khi bị gạch xóa khỏi bài thơ
chúng giống như những người chết rời bỏ bạn bè mình
mong mọi người vẫn không quên họ
.
và khi bài thơ tìm lại
những con chữ đã bị mình vứt bỏ
nằm ngổn ngang như các bệnh nhân nằm trong bệnh viện
chật cứng ba người một giường
ngủ gà ngủ gật
.
những nét chữ của con chữ
chen nhau bò trên trang giấy
mệt mỏi, rét run và sốt
chúng đang tìm một nơi để ở
sau khi bị vứt khỏi bài thơ
.
như bài thơ cũng cần một dúm đất
làm nơi ngồi thở
và mong
những người sống vẫn còn nhớ
khi nó bị vỡ
làm đôi
10.
hãy nhẹ nhàng với chúng tôi
.
xin vui lòng
dù muốn hay không
hãy nhớ rằng chúng tôi là nhà thơ
chúng tôi không dễ rơi vào tình yêu, chúng tôi chỉ rơi
vào yêu thương như chúng ta vẫn rời vào cái chết
.
trong tâm trí chúng ta
chúng tôi đang bay
.
một nhà thơ có thể âm thầm tồn tại
một nhà thơ có thể là tất cả mọi người
chúng ta có mạch máu trên cổ tay
về vết cắt chúng ta biết là khủng khiếp
chúng ta đã hôn ma quỷ khi chúng ta
đến địa ngục và ngược lại
.
bây giờ bạn đã được thông báo
rằng nhà thơ có thể bị khinh miệt
chúng ta không chỉ yêu một người khi chúng ta ngã xuống
chúng ta yêu cả thế giới của
chúng ta, chúng ta yêu tất cả
chúng ta
.
và khi chúng ta bị tổn thương thì thật khó
để lành, do đó
làm ơn
hãy nhẹ nhàng với chúng tôi
.
nhà thơ sống hai cuộc đời
một bên ngoài
và một trong tâm trí họ
.
khi bạn nhìn vào mắt họ
bạn có thể thấy vực thẳm
.
hãy dành thời gian để đọc các từ
và bài thơ dù có thế nào
bạn vẫn biết chắc chắn
mình đã yêu một từ
không phải chữ bất tử
.
nhà thơ vẫn thường sống trong hai thế giới
khác nhau…
Lê Vĩnh Tài, the poet and translator born in 1966 in Buon Ma Thuot, Daklak, Vietnam. The retired doctor is still a resident of the Western Highlands and a businessman in Buon Ma Thuot.
Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.
A short thriller in Vietnamese by Lê Vĩnh Tài Translator: Nguyễn Thị Phương Trâm Art: Đinh Trường Chinh
Isolation by Đinh Trường Chinh
Published on MasticadoresIndia :
“Short stories are tiny windows with vast, wonderful views. This short story offers an emotional and suspenseful view of an estate and two people in isolation. The reader is immediately drawn into the mysterious setting. Who are these two characters and what are their motives? A simple narrative with intriguing dialogue. The ending is definitely unexpected.” Terveen Gill
I was at her doorstep on a Sunday morning, an estate at the end of a fading colourless dirt road leading into town. Completely dissipated was the mist, leaving the enormous courtyard frozen in an eerie icy chill.
She sat hugging her head. Lifted her head only to greet me as I entered.
“We are more than happy to have you join us in isolation,” she addressed me in her usual fractious manner.
She pulled out a piece of pork belly from the cooler. The piece she has left to rest in the cooler for the last ten hours as instructed. She can no longer recall the owner of the recipe for the marinade. It was written on a scrap piece of paper, the words now smudged and illegible.
“What do you think?” she asked.
“Looks good,” I replied, even though the piece of meat looked like human flesh, all wrinkly.
“It doesn’t smell great, right?”
“It looks fine,” I reassured her.
She grabbed a kitchen knife, and began to slice the meat.
The knife was so blunt it was impossible to make the smallest cut, “shit”, she snapped, “I can’t cut anything with this.”
I rarely hear her swear. I can but recall her mainly singing từ công phụng, with a smile on her face as she tidied up around the house.
I asked her since I had wondered myself, how many Sundays has it been since the day she had started this meat cutting ritual? How long will she keep this up? How many Sundays have gone by, how many pieces of pork belly? Her children are now all grown up, and her husband’s ashes have been scattered on the estate around the lake.
She said: “Look, I can cut into it now, except the slices are not as fine as I’d normally like them.”
Since her husband’s death, she would regularly make the rounds to shut down the estate herself, collecting the donated cans of cold meats and vegetables by the gate. She said: “This is how I survive.”
She continued with another question: “We didn’t accidentally use the meat in the freezer, did we?”
“No”, knowing exactly what she was referring to as I replied, “someone is trying to harm us you think.”
She got up from her chair, retrieved a cigarette from the carton on the kitchen table, “Are you thinking of taking over the estate?” She asked.
I frowned: “What?”
“This place is like your second home,” she said. “Don’t worry, it’s just a silly thought in my head. I’ve not slept for a week.”
After she was done with the grilled meat, she also wanted a few slices of cucumber.
“I’m craving bì today.” She is probably thinking of cơm tấm bì sườn(steamed broken rice served with shredded pork skin in roasted ground rice, grilled pork chop, and a slice of pork mince frittata).
I nodded: “I prefer chicken.”
She snapped, “You can still eat chicken if that’s what you want but all I can think about now is the pork mince frittata.”
That was when she sliced her wrist, the knife slipped off the pork belly cutting into her soft wrist as smoothly as it would her pork mince frittata.
The knife ended up on the kitchen tile.
“What happened?” I asked.
The blood spurted from her wrist as though it was coming out of a hose. She looked down, and stared at her numb wrist.
“I think I’ve cut my wrist,” she said quietly.
“It’s okay”, I reassured her, “Let me help you.”
She shook her head. “You just need to find me a bandage.”
Quickly, I left the kitchen to look for a bandage. Her house was scattered with carton boxes full of what only heaven knows. But in her bedroom was an object that really caught my eye. It lay across her bed. A rifle nearly as long as the mattress.
Perhaps it’s her husband. It was well known that he was a hunter. There was a single flashing of a bullet shell in the room. Why did she take the gun out of its box and leave it on her bed? By the time I returned to the kitchen, her wrist had stopped bleeding, no longer needing bandaging. I watched her as she continued to slice the pork belly. Not knowing how much pain she had endured. All these years by her side, I have never truly got to a point where I could fully grasp the extent of her pain. She dropped to the ground onto her knees, still holding onto the knife.
“Come”, she beckoned.
She hugged me as tightly as she thought it was possible.
Within the estate in isolation, there were only two people, but there were three urns of ashes, because after some time, they found the third urn that used to contain her husband’s ashes…
[August 2021]
KHU CÁCH LY CHỈ CÓ HAI NGƯỜI
Vào sáng Chủ nhật, tôi đến chỗ của nàng trong một trang trại đất bạc màu ở cuối con đường đi vào phố huyện. Sương đã tan hết, cả một khoảng sân lớn đang rùng mình.
Nàng đang ngồi với hai tay ôm đầu. Nàng ngước lên khi tôi bước vào.
“Rất vui khi bạn đến tham gia khu cách ly cùng chúng tôi,” nàng nói với vẻ mặt cau có như thường lệ.
Nàng lấy một miếng thịt heo từ ngăn đá. Nàng đã ướp lạnh nó mười giờ theo một công thức để chế biến. Nàng không nhớ người đã nghĩ ra công thức ướp. Nó được viết tay trên mẩu giấy cũ đã bị nhòe và bây giờ khó ai có thể đọc được.
“Bạn thấy nó thế nào?” nàng hỏi.
“Tốt thôi,” tôi nói, mặc dù miếng thịt lúc này giống như một miếng da người, nhăn nheo.
“Nó không thơm, phải không?”
“Không sao đâu,” tôi nói.
Nàng lấy ra một con dao, bắt đầu cắt thịt.
Con dao cùn đến mức nàng không cắt được, “chó thật”, nàng nói, “em hết muốn cắt cái gì nữa.”
Nàng ít khi chửi rủa điều gì. Tôi vẫn nhớ những lần nàng đi quanh phòng với một động tác nào đó, hát từ công phụng và sau đó mỉm cười.
Tôi tự hỏi nàng đã thực hiện nghi lễ cắt thịt này trong bao nhiêu ngày Chủ nhật? Nó sẽ được kéo dài cho đến khi nào. Trong bao nhiêu ngày Chủ nhật đã qua, nàng đã cắt bao nhiêu miếng thịt? Cho đến tận bây giờ, khi những đứa con nàng đã lớn và chồng nàng cũng đã thành một hủ tro được rải quanh bờ hồ trang trại.
Nàng nói: “bạn xem này, bây giờ em đã cắt được, chỉ có điều không được mỏng cho lắm.”
Từ khi chồng nàng chết, nàng thường xuyên đóng cửa trang trại, chấp nhận những mẩu thịt đông và các món rau củ đóng hộp. Nàng nói: “Nó giúp cho em sống sót.”
Câu hỏi tiếp theo của nàng là: “Chúng ta không vô tình sử dụng món thịt đông lạnh, phải không?”
“Không,” tôi nói ra vẻ hiểu biết, “có ai đó ám hại chúng ta.”
Nàng đứng dậy, rút một điếu thuốc, “Bạn nghĩ rằng bạn muốn sở hữu trang trại này a?” Nàng hỏi.
Tôi nhíu mày: “Cái gì?”
“Đây là ngôi nhà thứ hai của bạn rồi,” nàng nói. “Đừng bận tâm, nó chỉ là những suy nghĩ kỳ quặc của em. Cả tuần nay em không ngủ.”
Khi làm xong món thịt nướng, nàng muốn có thêm mấy lát dưa leo.
“Em nghĩ rằng hôm nay em thèm cả bì nữa.” Chắc nàng nhớ món cơm tấm bì sườn.
Tôi gật đầu: “Tôi thích thịt gà hơn.”
Nàng càu nhàu, “Bạn cứ ăn thịt gà nếu bạn muốn nhưng em đang nghĩ đến bì chả.”
Đó là khi nàng tự cắt vào cổ tay mình, con dao trượt ra khỏi miếng thịt và lướt trên cổ tay mềm mại như bì chả của nàng.
Con dao rơi xuống sàn.
“Chuyện gì xảy ra thế?” Tôi hỏi.
Máu phun từ cổ tay nàng như vòi. Nàng cúi xuống, nhìn cánh tay mình đang tê liệt.
“Em nghĩ em đã tự cắt cổ tay mình,” nàng nói nhẹ nhàng.
“Không sao đâu,” tôi nói, “Tôi có thể giúp.”
Nàng lắc đầu. “Bạn chỉ cần lấy cho em một miếng băng keo.”
Tôi lao ra khỏi bếp, đi tìm miếng băng keo. Nhà nàng đầy những chiếc hộp giấy các-tông mà chúng chứa đựng những thứ có trời mới biết. Nhưng có một thứ đập vào mắt tôi khi tôi đi vào phòng ngủ của nàng. Nó nằm trên giường nàng.
Một khẩu súng dài gần bằng tấm nệm.
Có lẽ đó là của chồng nàng. Anh ta nổi tiếng là một thợ săn. Một vỏ đạn lấp lánh trong phòng. Không biết sao nàng lại lấy súng ra khỏi hộp và để nó trên giường.
Khi tôi quay lại bếp, tay nàng đã cầm máu nên không cần băng bó nữa. Tôi nhìn nàng đang cắt thêm thịt. Cũng không biết là nàng đau đến mức nào. Bao nhiêu năm bên cạnh nàng, tôi vẫn chưa bao giờ biết nỗi đau của nàng đến mức nào.
Nàng quỳ xuống, tay vẫn cầm con dao.
“Đến đây,” nàng nói.
“Chuyện gì vậy?” Tôi hỏi.
Nàng ôm lấy tôi, siết chặt lại hết mức có thể.
Vậy là trong khu cách ly dù chỉ có hai người nhưng có ba hủ tro, vì sau này người ta lại tính luôn cả hủ tro của chồng nàng…
Lê Vĩnh Tài, the poet and translator born in 1966 in Buon Ma Thuot, Daklak, Vietnam. The retired doctor is still a resident of the Western Highlands and a businessman in Buon Ma Thuot.
Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.
A poem in Vietnamese by Lê Vĩnh Tài
Translator: Nguyễn Thị Phương Trâm
Seoul 2019
at the end of the world: it’s like an empty bed
unoccupied
the linen gone
a dress flies away
like the memories that cling on to you
the emptiness
.
together, with the bodhisattvas above we’ll turn around
and we’ll pray
not forgetting a single prayer
when it comes to our fate
.
at the end of the world: it’s like a table
in the corner of a room
where we’ll see you for the last time
as we pocket our dizzy dreams
.
at the end of the world: it’ll be like bruised lips
bleeding like a rose
drunk with the soft touch of our fingers
and nothing that could be remedied
.
they who have just learned how to love will open us up
carefully, with hands void of any scar, unmarred
find that we’ve been hidden and buried
we’ve never loved you
.
at the end of the world: it’s like a year with amnesia
and a number of souls have departed
we’ve dilated our blood vessels
looking for any signs of you
.
it continues to plague me
the confusion, the breathlessness
we’ve instilled our love in a letter, in
paper flowers and the pair of our hands steeped in colour
still found you hidden and buried
a secret that none of us could keep
a hold on her
.
where could she possibly be
.
and that’s all the poem could possibly reveal
after it’s has been hidden and buried
in a chest cavity
—
FEBRUARY 2022
_____
khi thế giới kết thúc: nó giống như một chiếc giường
trống rỗng
khăn trải giường biến mất
một chiếc váy đang bay
như ký ức bám chặt bạn
một sự trống rỗng
.
cùng nhau, chúng ta quay lưng với các vị bồ tát trên cao
chúng tôi cầu nguyện
không quên một lời cầu xin nào
cho số phận
.
khi thế giới này kết thúc: nó giống như chiếc bàn
trong góc phòng
nơi chúng tôi nhìn thấy bạn lần cuối, chúng ta bỏ túi
những giấc mơ chóng mặt của mình
.
khi thế giới này kết thúc: nó giống như đôi môi bị thương
chảy máu như hoa hồng
say trong cái chạm nhẹ của ngón tay chúng ta
và không gì có thể chữa lành
.
những người mới biết yêu sẽ mở chúng ta ra
thật cẩn thận, với bàn tay không có vết thương của họ
và tìm thấy chúng tôi bị chôn vùi
chúng tôi chưa bao giờ yêu bạn
.
khi thế giới này kết thúc: nó giống như một năm bị lãng quên
và một số linh hồn đã rời đi
chúng tôi làm rỗng mạch máu của chúng ta
tìm kiếm những dấu vết hiện diện của bạn
.
nó vẫn khiến tôi
bối rối, khó thở
chúng ta gửi gắm tình yêu của mình vào một lá thư, trong
những bông hoa bằng giấy và đôi bàn tay nhuốm phẩm màu
của chúng tôi vẫn tìm thấy bạn bị chôn vùi
một bí mật mà chúng ta không bao giờ có thể giữ
được em
.
em đâu mất
.
và bài thơ chỉ dám nói thế thôi
sau khi bị vùi
vào bầu ngực
Lê Vĩnh Tài, the poet and translator born in 1966 in Buon Ma Thuot, Daklak, Vietnam. The retired doctor is still a resident of the Western Highlands and a businessman in Buon Ma Thuot.
Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.