THE BRILLIANCE OF MINH TUỆ | Phạm Hiền Mây

Minh Tuệ, source: social media.

A poem in Vietnamese by Phạm Hiền Mây
Translator: Nguyễn Thị Phương Trâm

Pure heart and brilliant mind
compassionate and kind
forgiving patience and humility
to all living things the unreserved generosity

Ready quiet feet across a clear sky
Dhutanga care not for the attachments of worldly might
the mind is freed by physical burden
the truth evident
in the brilliance
of Minh Tuệ.

SÁNG NGỜI TUỆ MINH



Minh, tâm sáng. Tuệ, trí thông
Từ bi bác ái ngài công phu trì
Vị tha, nhẫn nhục, diệu kỳ
Đức vô lượng, hết thảy vì chúng sanh

Bước chân lặng lẽ trời xanh
Hạnh Đầu Đà, chẳng màng danh hiệu đời
Pháp tu khổ, não phiền rời
Chứng lời tán thán sáng ngời Tuệ Minh.

07.06.2024
phạm hiền mây

Chuyện bạn Lê Anh Tú dễ giải thích mà. Bạn ấy hiểu một điều vô cùng đơn giản là tiền không mua nổi tinh thần.

Nguyễn Thị Phương Trâm

Phạm Hiền Mây, the poet born in 1971 in Saigon, Vietnam. The prolific poet speaks, thinks, sleeps, and dreams in Kanji, Lục bát, six-eight syllables. Her poetry can be accessed through all platforms, including Facebook, Amazon, and local and international websites.

Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.

NGUYỄN NGỌC TƯ | Phạm Hiền Mây

Sài Gòn 16.11.2023
Phạm Hiền Mây

NGUYỄN NGỌC TƯ VÀ DÒNG NHỚ

Viết về một nhà văn, vốn đã khó. Viết về một nhà văn nổi tiếng, đang nổi tiếng, rất nổi tiếng, quá nổi tiếng, bao người biết, bao người ngợi khen, trầm trồ, thậm chí say mê, thần tượng, cái khó ấy, xem ra phải gấp hai, gấp ba, cái khó bình thường.

Bởi viết gì bây giờ. Sự hay, sự tốt, bao năm nay, người ta đã nói hết rồi. Thậm chí, thuyền to thì sóng lớn, cả tiếng chê, cả tiếng dè bỉu, bỉ bôi, rằng thì là sến súa, quanh đi quẩn lại chỉ có nhiêu, chẳng gì to tát, chẳng gì kinh thiên động địa, chỉ giỏi đánh vào tâm lý, lấy nước mắt miệt vườn, cũng đầy ra, không thiếu.

Kiểu gì kiểu, khen gì khen, chê gì chê, Nguyễn Ngọc Tư vẫn cứ giữ vững sự nổi tiếng. Vẫn cứ đẻ sòn sòn, quanh năm suốt tháng, hết tác phẩm này thì đến tác phẩm khác. Phim, kịch, tuồng, vẫn cứ xếp hàng chuyển thể từ tác phẩm cô.

Kiểu gì kiểu, cô vẫn cứ cười. Người ta nói, cười có thể là một lấp liếm, cười cũng có thể thay thế cho câu trả lời. Ừ, chắc cổ thế thật. Cổ trả lời khen chê của người đời bằng một nụ cười. Cổ lấp liếm cái buồn cái vui trong nghiệp viết của cổ, cũng bằng nụ cười ấy.

Tôi đọc Nguyễn Ngọc Tư từ lâu lắm rồi, đâu như vào khoảng năm 2008, 2009, từ trước khi cổ và Cánh Đồng Bất Tận trở thành bộ đôi làm xôn xao dư luận. Tản văn có, truyện ngắn có, truyện dài có, tuy không đọc hết, nhưng những tác phẩm của cổ mà tôi có đọc, đều từ hay tới rất hay.

Một trong số đó, là truyện ngắn DÒNG NHỚ.

Dòng Nhớ cũng như các tác phẩm tuyệt hay khác của cổ, luôn làm người đọc, là tôi, sau đó, buồn thỉu buồn thiu, buồn ê buồn ủ.

Cái buồn khi đọc truyện Tư ấy mà, dẫu bao giờ cũng được tôi chuẩn bị trước tinh thần, nhưng lần nào cũng như lần đấy, tôi đều thất bại. Buồn vẫn cứ hoàn buồn, không thể khác.

Cái buồn mênh mang như sông nước miền Tây, như lục bình trôi, như dòng đưa củi mục. Cái buồn giống tiếng gọi đò cô đơn bến vắng, giống con cò bay qua, một mình, chẳng thấy bậu đâu. Buồn ơi buồn nhưng vẫn dễ chịu. Buồn rất đỗi buồn mà không thù không oán, không hờn không giận ai.

Đó là điểm làm nên khác biệt giữa Nguyễn Ngọc Tư với nhiều tác giả thời danh khác.

Có nói nhiều đến mấy thì cũng chẳng thể bằng tự tác phẩm giới thiệu về nó. Vậy nên xin mời các bạn, thong thả đọc Dòng Nhớ của Nguyễn Ngọc Tư. Mà nói trước nghen, nó buồn lắm đó.

Câu chuyện, không có đúng sai. Hai người đàn bà, đọc xong, vẫn không thể nào định được, ai mới là kẻ đáng tội nghiệp, ai mới là kẻ đáng thương hơn ai. Hay cái bóng của người đàn ông, không nói gì, chỉ lầm lũi áng chiều, đốt mòn khói thuốc, mới là hình ảnh làm người ta bồi hồi, ngậm ngùi thương cảm nhứt.

Tự dưng, tự dưng hà, tôi nhớ câu, chẳng biết có liên quan không, nhớ là nhớ thôi “sắc tức thị không, không tức thị sắc”, chính là nó, mà, có phải là nó đâu.

******

DÒNG NHỚ

(Nguyễn Ngọc Tư)

Sáng nay, má tôi lại ra đứng tần ngần ở chợ Ba Bảy Chín, nghiêng nghiêng ngó ngó một hồi, biểu con nhỏ chèo đò chèo dài dài chợ nổi. Chợ rao bán rau trái dậy động cả một khúc sông, má tôi thấy ghe nào cũng lần xuồng lại, dòm mặt chủ rồi đi. Con nhỏ chèo đò chắc là chèo mối, nó biết bà già định đi đâu, định làm cái gì nên nó biểu:

– Hỏng hỏi thăm thì vô phương kiếm ra, ngoại ơi.

Má tôi ngẩn ngơ. Hỏi chớ, chú ơi, thím ơi, tôi muốn hỏi thăm một người quen. Tên gì? Ghe bán gì? Hai Giang. Ghe bán hàng bông. Trời đất, ở xứ này có tỷ tỷ ghe bán hàng bông, cũng có biết bao nhiêu người tên Giang, vậy tướng tá người đó ra làm sao. Bây giờ đâu có biết ra làm sao, gặp được một lần mười sáu năm trước, nhớ sao tả vậy nghen. Ðàn bà, chừng sáu mươi, trạc tuổi tôi, tóc dài, da ngăm ngăm, không đẹp không xấu. Mới đầu đi với chồng, sau chồng bỏ lên bờ vì cơ cực quá trời, hồi trẻ có đứa con gái đầu lòng chừng bảy tháng tuổi thì rớt xuống sông chết.

– Vậy thì đông lắm, người sống trên chợ này hễ mười thì có năm người y chang hoàn cảnh vậy, dân Ba Bảy Chín mà, “ba chìm, bảy nổi, chín lênh đênh”, chị hỏng nghe sao?

Má tôi chẩng hẩng:

– Vậy a?

– Ừ, người đó quen sao mà tìm coi bộ cực dữ?

– Quen. Chà, hỏng biết nói sao bây giờ, dài dòng lắm, vợ của chồng tôi.

Nếu vậy thì dài dòng thiệt, chuyện tình tay ba mà phim dính vô chuyện này cũng năm bảy tập trở lên, còn cải lương lâm ly không biết bao nhiêu là nước mắt.

Má tôi cũng khóc nhiều rồi. Má tôi nói hoài, ba mươi tám năm bà về làm dâu nhà chồng, cực có, sướng có, chưa bao giờ nội tôi khắt khe, nhỏ nhặt, khó chịu với dâu, nhưng má tôi vẫn hận nội tới chết mới thôi. Hỏi sao kỳ vậy, má tôi kéo chéo khăn lên chậm chậm vô đôi mắt: “Bộ hết người rồi sao mà nội bây cưới tao cho ổng, đó – bà chỉ tay ra bến – gần hết đời rồi tao có được vui đâu”.

Ðó là lúc “ổng”, tức ba tôi chống cây gậy khật khừng lang thang xuống bến. Ông dừng lại chỗ mấy cây tra, lấy tay rờ rẫm, săm soi từng cái lá, cái bông như tay bắt mặt mừng thằng bạn lâu năm mới gặp. Rồi ông lần ra tới đầu bến, đứng dưới hàng mắm già ngày xưa ông trồng để giữ đất cho khỏi lở, để mặc cho mấy cái hoa nắng vàng xơ rơ đậu xuống cái đầu húi cua, bạc trắng của mình, ông già tha thiết nhìn ra sông. Chỉ vậy thôi rồi khật khừng quay lên, cái chân trái yếu ớt như tựa hẳn vô cây gậy, cứ mỗi lần chân bước, đầu gậy lại xoáy sâu vô đất một lỗ tròn tròn.

Cảnh thì quen lắm, thì ngày nào, buổi nào ba tôi chẳng làm vậy nhưng cứ tụm cả nhà lại, rồi ngồi lặng lẽ dòm, ai cũng nghe đau đau xót xót như ai lấy cật tre cứa tới cứa lui trong lòng. Bởi cái lúc này là lúc sum họp đây, vậy mà sao vẫn thấy thiếu một người, mà thiếu đúng cái người đang lững thững đi dưới nắng kia mới chết.

Sau đợt tai biến mạch máu não lần thứ nhất, nửa người bên trái ba tôi yếu hẳn đi, tưởng chỉ vậy thôi, đến lần thứ hai bỗng dưng tâm trí ông già nhớ quên, ít nói, lẩn tha lẩn thẩn. Nhưng còn sống, còn tự mình đi đứng được là may lắm rồi, ai cũng nói vậy. Lúc đó cả nhà đang ở chợ, ba tôi càng lúc càng buồn, hay chống gậy đi, mấy lần cả nhà bỏ tiệm may đi kiếm ông. Sau này chỉ cần một mình tôi, vắng ông, tôi chạy xe dọc theo con đường về vườn cũ là gặp. Thấy tôi, ông già khựng lại, không nói gì, nhưng cặp mắt khẩn cầu, da diết, tôi làm như không biết, cầm gậy, đỡ ông lên xe chở về, có lần ba tôi khóc, ông khóc rưng rức, nước mắt nước mũi nhễu nhão, lòng thòng.

Sau lần ấy, cả nhà quyết định đưa ông về sống trong vườn nhà nội. Vườn bỏ lâu nay, nhưng nhờ cô dượng Ba ở kế bên nhà trồng trọt, trông coi nên chỉ cần dựng căn nhà lên là ở được. Chuyện cắt cử người ở lại với ba tôi thì khỏi phải bàn bởi chừng nào mà má tôi bỏ ông được, “làm gì má cũng phải giữ ba”, tôi đùa. Má tôi xua tay:

– Ổng còn nguyên đó chớ có đi đâu, trước không mất, giờ còn sợ mất mát gì nữa – giọng má chợt cay đắng, hồi đó giờ ổng có phải của tao đâu mà giữ.

Nói rồi má tôi trùm cái khăn lên đầu bước xuống xuồng, đưa tôi qua sông, tới bờ bên kia, ngó lại, ba tôi đứng chênh vênh trên bến, đôi mắt như đang nhìn da diết mà không biết nhìn ai, chỉ thấy mông mênh vậy thôi. Chơ vơ, cô độc. Má biểu tôi đi đường cẩn thận rồi bơi xuồng trở về, còn nói với theo:

– Sao má lo quá, má sợ ba mầy, ổng mà chết ổng cũng xuống sông để chết.

Lo cũng phải, không phải ba tôi nhớ vườn xưa mà chống gậy về, ông nhớ sông, một ngày ba bốn lượt lủi thủi chống gậy ra bến, cặp mắt như ngó mong, như hờn giận. Ba tôi vốn là người của sông mà. Ông đang ở đây nhưng tâm hồn ông, trái tim ông, tấm lòng ông chảy tan vào dòng nước tự lâu rồi.

Và cũng y như má tôi, ba cũng không sống được mấy ngày vui, vui thật, vui đúng nghĩa. Hồi tôi còn nhỏ, còn sống chung với bà nội, đêm đêm cả nhà đi ngủ, ba tôi ngồi hút thuốc trên bộ vạc kê trước nhà, chống rèm lên, ngó ra sông. Kiểu ngồi một chân xếp bằng, chân kia dựng lên, rồi tì cái tay cầm điếu thuốc lên cái đầu gối, đêm này qua đêm khác, kiểu ngồi không đổi. Nửa đêm, má tôi đi ém mùng lại, tôi thức giấc, ngó ra chỉ thấy đốm lửa lập lòe, lúc đỏ rực, lúc lại tắt thiu thiu. Má tôi ngồi trong mùng lặng lẽ nhìn ba, còn ba thì nhìn ra sông. Sông cách nhà một cái bến dài chẻ ngang đám dừa nước, đám ô rô mọc lởm chởm, chồm từ mé lá lên. Những đêm trăng sáng, nếu không vướng mấy bụi ráng, bụi lức dại có thể thấy một dòng chảy líu ríu, sáng loáng, lồng lộng.

Ban đêm, con sông trước nhà tôi không ngủ, nó thức theo những chiếc tàu rầm rì chảy qua, theo tiếng mái chèo quẫy chách bụp rất đều. Dài từ ngã ba Vàm đến đây, nước chảy êm, khuất gió, những chiếc ghe đi đêm hay đậu lại, nghỉ ngơi. Lâu lâu, có chiếc ghe hàng bông lặng lẽ neo lại ngoài bến nhà tôi, treo ngọn đèn chong lên cây đước chơm chởm những cái nhánh con, mỗi nhánh lủng lẳng trái khóm, trái bầu dầm nắng mưa đã teo héo. Không thấy bóng người, chỉ nghe tiếng gàu tát nước cọ vô xuồng xao xác. Hừng đông chạy xuống bến thì ghe đã đi rồi. Những đêm đó, ba tôi hút thuốc dữ, cứ nhìn chong chong ra ngọn đèn đỏ ối, nhỏ nhoi, buồn hiu ngoài kia. Ba tôi thở dài. Má tôi thở dài, chạy qua buồng bên khóc với bà nội tôi, không biết nói cái gì, chỉ nghe lõm bõm, tiếng nội làu bàu: “Vậy ra má đã làm sai cái gì?” và má tôi tuyệt vọng: “Kiểu này biết chừng nào ảnh mới quên chuyện xưa hả má?”.

Ngày xưa ba tôi cũng yêu thương một người. Nội tôi dứt khoát không chịu (nội có tỷ tỷ lý do để không chịu), ba tôi mới dắt díu người ta bỏ nhà đi, sống kiếp thương hồ. Hai người trải qua biết bao nhiêu cơ cực, nào là gặt mướn, làm cỏ lúa, đắp bờ, mới có được một ít vốn, ba tôi sắm cái máy Kohler xuống rẫy bán hàng bông. Họ sống nghèo lắm. Mỗi lần đi ghe đi ngang qua nhà, ba tôi khắc khoải ngó lên, vừa nhớ, vừa đau vì cãi nội. Rồi hai người có với nhau đứa con, nhưng chị bạc mệnh chết đuối, tận cùng đau khổ, ba tôi bỏ về nhà, được về, ba tôi cũng phải đáp ứng vài điều kiện của nội, vậy là ba tôi bỏ người ta giữa dòng bơ vơ. Tôi biết được có bao nhiêu đó thôi, kể ra cũng mấy dòng vậy thôi. Mà, cũng phải đợi tới năm mười lăm tuổi, cả nhà mới cho tôi biết.

Tôi bật ngửa, chuyện xảy ra lâu rồi, nhưng người ta vẫn còn nhớ, vẫn còn cắm sào trước bến nhớ ba tôi, vậy mà biểu ba tôi quên cái rụp thì làm sao quên được.

Mà, cũng vì ba tôi quên không được, má tôi mới thương ông nhiều, sau nầy, lớn lên, biết yêu thương rồi, tôi mới ngộ ra. Con người ta, nhất là đàn ông thương ai mà vì nỗi gì đó quay lưng lại quên mất tiêu thì đúng là không tử tế, không đáng tin chút nào. Với tôi, ba tôi thì quên hay không cũng được, ba đã sống tốt với cả nhà tôi lắm rồi. Ông sống tử tế đến vô cùng, đến thừa, dường như ông gởi gắm tình thương yêu đến cả người vắng mặt.

Ở cái xóm quê, mười người đàn ông thì nhậu nhẹt hết chín, trong chín người hết năm, nhậu về chửi vợ, đánh vợ như đánh bịch muối, ba tôi là người duy nhất còn lại. Ông ít nói, hiền lành, từ tốn với má tôi, những lần má tôi bệnh, ba chèo một hơi mười mấy cây số vừa đi vừa về, đưa má tôi ra trạm xá, không than mệt, không thở ra, tận tụy. Lúc nào cũng mình mình tôi tôi, mấy bà hàng xóm nghe tủi cho mình mà khóc, má tôi cũng òa khóc theo, cảnh mỗi người tự người đó biết, người ta hay đứng núi này trông núi nọ vậy mà.

Mơ hồ dường như mình mắc nợ ai đó, cả nhà tôi lúc nào cũng cảm thấy không vui, dù hạnh phúc (hai thứ này sao lại không thể đi chung). Không thấy ai đòi nhưng nợ vẫn cứ là nợ, nó rờn rờn quanh quất trong chái bếp ngày ngày khói tỏa, trong mấy chiếc giường ngủ con con, trong hai bữa ăn mỗi ngày. Ngồi quây quần như vầy trong bụng cứ nghĩ, có một người nào đó cô độc, bơ vơ. Mà tội nhất là nội tôi, vốn mê cải lương, nhưng bữa nào tivi chiếu mấy tuồng có bà mẹ chồng ác nghiệt chia rẽ duyên của con, dâu là thấy nội tôi rầu. Cho tới lúc cuối đời, chắc nội tôi vẫn băn khoăn trong lòng câu hỏi: “Vậy ra, mình giống mấy bà già trong đó thiệt sao?”.

Má tôi thấy nội bứt rứt cũng không tỏ ra phiền muộn nữa, cốt để an ủi nội tôi lúc cuối đời. Khi nội tôi vừa khuất, má quyết định gặp đối thủ một lần, chỉ định nhìn vậy thôi, chưa biết làm gì mà cũng không biết làm gì người ta, nhưng chắc chắn phải biểu người ta buông tha ba tôi ra, còn gì nữa đâu mà neo ghe trước nhà ngó mong hoài.

Chờ đợi, rình rập, hụp hửi mấy lần, chiếc ghe nhỏ với ngọn đèn đo đỏ lại về đậu trước bến nhà tôi, như mong đợi của má. Bữa đó, má nói với ba tôi chèo xuồng về chơi bên ngoại một đêm. Gà gáy chập đầu, bà trở lại, trên xuồng chất đầy mấy thứ rau đồng, bà giả đò làm người đi chợ sớm.

Ngang qua, má tôi tấp xuồng lại kế bên chiếc ghe, than:

– Tính đi chợ cho sớm mà gió quá, chèo không lên, bậy thiệt.

Má tôi tin rằng, người đàn bà kia, cũng như ba tôi, những đêm như vầy không bao giờ ngủ. Mà thật, dì đang chong đèn ngồi thêu áo gối, nghe tiếng má tôi, dì quay lại, dường như sững sờ, bất ngờ một chút dì cười:

– Dà, đêm nay nhiều gió thiệt – Dì vẹt mớ quần áo, kim chỉ trên cái sạp tre – Chị vô mui ngồi cho ấm, chờ bớt gió rồi đi, ngồi ngoài đó cảm sương chết.

Má tôi không từ chối, bà buộc dây xuồng lại, bước qua ghe. Bà cao người nên ngồi trong cái mui lợp bằng lá chầm đóp phải khom một chút. Họ ngồi đối mặt với nhau. Má tôi thấy lòng mình bình lặng lạ lùng, hồi ngồi dựng cái cảnh gặp mặt nầy, cứ tưởng là phải làm một cái gì ghê gớm lắm. Có thể vì người đàn bà của ba tôi hiện lên rất hiền, dì mặc chiếc áo cộc tay màu cau khô ở trong, khoác thêm chiếc áo bà ba ở ngoài, mỏng te, nhiều mụn vá. Tóc đã bạc nhiều, lơ thơ vài cọng rủ xuống mặt. Sương gió đã làm cho khuôn mặt dì đen sạm, nhăn nheo. Má tôi nghĩ thầm trong bụng: “Xấu hơn mình nhiều”. Má tôi sợ cứ nhìn chằm chằm người ta hoài cũng không phải nên má ngó lơ chỗ khác. Ðồ vật trên ghe món nào cũng nhỏ nhắn, tuềnh toàng. Ngay sau lưng chỗ má tôi ngồi, bỏ khoang tát nước có một cây ớt hiểm, một cây sống đời đang trổ bông trồng chung trên miệng cái khạp bể. Dì lúi húi dẹp miếng vải đang thêu dở, với lấy bình thủy, châm nước vô cái bình trà sứt vòi, ho khúc khắc. Má tôi chép miệng: “Cha, có trà uống thì còn gì bằng, mà chị bệnh hả, mấy lá sống đời nầy ngậm với muối cũng đỡ ho lắm”. Dì ngước lên cười: “Dà, lúc nầy trở gió, cũng nhờ nó…”.

Má tôi hỏi:

– Chị đi ghe một mình à, một mình cũng được sao?

– Dà, cũng được, chị.

– Ủa, chồng chị đâu?

– Dà, dì bối rối, ảnh… đi xa lắm.

– Còn chồng tôi thì theo vợ bé mất rồi, má tôi nói luôn.

Dì nhìn sững má, dường như để xem xem nỗi đau mất chồng của má với dì có giống nhau. Hồi lâu, dì chợt cúi mặt:

– Uống trà, chị, hoàn cảnh của chị cũng buồn thiệt. Nhưng thể nào rồi ảnh cũng quay về. Thiệt đó chị, đa số đàn ông đều tốt.

Tốt sao? Người ta bỏ cô để cưới tôi mà là tốt à, má tôi ngồi lặng, tự hỏi, mà không biết nói gì nữa, cái câu quan trọng nhất chắc không phải nói lúc nầy. Má tôi ngồi ngó quanh, một ánh đèn nhỏ nhoi thôi cũng đủ hắt sáng vài xâu cốm gạo treo trên vách, mấy hũ kẹo, bánh ngọt, tiêu tỏi để bên này, trái cây như khóm, bí rợ, khoai lang thì chất thành hàng bên kia. Sát bên hông dì, dưới tấm vải trắng thêu dở là hai xấp quần áo cũ, người lớn có, trẻ con có được xếp ngay ngắn, nhưng hết thảy đều cũ kỹ, bạc mầu. Má tôi vọt miệng:

– Ủa, chị có cháu nhỏ à?

Sau nầy, má tôi nói, đó là cái câu tàn độc nhất mà má lỡ miệng đánh ngay vào nỗi đau của dì. Dì nhìn trân trân vào ngọn đèn, cái nhìn đau nặng. “Con bé Phước nhà tôi vô phước lắm chị à, tại tôi không cẩn thận nên cháu vừa mới biết bò đã té sông, trôi mất. Cũng mười mấy năm rồi, bây giờ nó còn sống, chắc tôi thêu gối cưới cho nó cũng vừa. Tôi, tôi chiêm bao thấy cháu nó hoài, chiêm bao lãng nhách hà, tự nhiên tôi thấy con tôi biết nói, nó biểu má đừng bỏ con, trời ơi, tiếng nó thấy cưng lắm kìa, vía tôi trả lời, mẹ sẽ sống trên sông hoài với con, vía tôi thấy nó cười…”.

Dì nói một hơi dài, giọng dì hơi nghẹn lại: “Trời ơi, chị có chuyện buồn lòng mà tôi lại kể chuyện buồn lòng nữa, chắc chị phiền tôi lắm. Mớ đồ nầy tôi cất lâu rồi, sợ mốc, cứ mấy tháng là tôi đem ra giặt lại, của con bé con tôi có, của chồng tôi có. Chồng tôi… , tôi chỉ còn giữ lại bao nhiêu đây thôi. Chị coi, tôi khùng hôn, không giặt thì không được, mà giặt hoài, tới hơi chồng cũng bay, tôi cũng quên mất rồi…”.

Dì cười quay quắt. Má tôi chút nữa đã bật khóc, bà cố nén nghẹn ngào:

– Ðàn bà mình sao khổ vậy?

Tiếng gà gáy xa xa, con nước đêm nay mau lớn quá, mới đây thôi đã ngập nửa cây sào neo ghe rồi. Lúc nầy, nước lớn không nghe bìm bịp kêu, mà nhờ không có, chứ nghe bìm bịp kêu càng buồn nữa. Má tôi ngồi bình tâm lại, vậy thì mình nhỏ nhen gì mà giành với người ta chút nầy nữa. Năm nầy qua năm khác, mình được sống chung với ảnh, ban ngày ngoài ruộng, ban đêm chung giường. Ngó mặt nhau, ăn cơm, ngủ cũng đấu mặt lại ngủ. Còn người ta, nhớ thương đứt ruột, có thể chạy ào lại để gặp nhau nhưng vì lương tâm không làm được, đành ngồi đây ngó lên, ngồi ở trên ngó xuống. Ðau lắm chớ. Má tôi nhìn ra ngoài trời, vẫn còn khuya lắm, nhưng đã thấy mấy chiếc xuồng đi chợ sớm lướt qua, tiếng mái chèo quẫy chũm trên mặt sông ngọt, nhẹ, cứ tưởng từng lát nước xếp lên nhau như những lát đất cày.

Dường như trời bớt gió nhiều rồi. Dì nghiêng đầu ra ngó trời, chừng như nuối tiếc, thảng thốt:

– Trời đất, đêm qua lẹ thiệt. Chắc tôi phải đi bây giờ.

– Sớm vậy sao?

– Dạ, tôi thường đi… , trước lúc người ta thức… .

– Tại tôi nhiều chuyện làm chị thêu không xong.

– Không, người đàn bà cười, nét mặt thốt nhiên buồn bã, tôi thêu cho hết đêm, xong rồi lại tháo chỉ ra thôi, tôi sợ, nếu không làm gì, tôi… , tôi sẽ nhớ chồng con tôi rồi mắc khóc, cầm lòng không được. Mà, đàn ông chịu cực khổ nhiều lắm rồi, lấy nước mắt trói buộc họ nữa, tội họ lắm, chị à.

Vậy rồi hai người chia nhau đi. Ghe nổ máy rồi, khói xịt tơi bời, dì còn dặn lại: “Nếu ảnh có quay về, chị đừng giận ảnh nghen. Người ta có đi đâu làm gì thì cũng thương mình chị thôi”. Má tôi không nói, quay đi và khóc.

Tháng sau, má tôi quyết định gom mớ của cải cả nhà có được ra chợ, mua cái nhà. Ba tôi biết chút ít nghề mộc nên nhận đóng tủ, bàn ghế ở nhà, má tôi chiên đậu hũ bỏ mối, chị tôi mở tiệm may, tôi vào đại học. Mọi thứ được sắp đặt lại, mới mẻ, gọn ghẽ. Má tôi bắt ba phải xa sông, nhưng chính bà cũng biết, những dòng nhớ vẫn tiếp tục chảy mãi trong hồn ông. Má tôi cũng không kể với ba cái đêm gặp “tình địch” ấy, nhưng mãi mãi, mỗi khi cả nhà ngồi ăn cơm, tim má lại hiện lên hình ảnh cái rổ úp chén đan bằng nan tre đã xỉn mầu, trên đó có cái dĩa, cái tô và ba cái chén, ba đôi đũa như thuở người đàn bà trên ghe còn nguyên một gia đình.

Bây giờ má tôi muốn gặp dì, nhưng lâu quá, chờ hoài không thấy dì ghé lại đậu ngoài bến như ngày xưa, đã mười mấy năm rồi, không biết có biến cố gì không. Chỉ tội má tôi tảo tần kiếm cho kỳ được. Tôi hỏi má tìm làm gì, má tôi nói để cho hai người gặp lại, coi thần trí ba mầy có đỡ hơn không.

Rồi thì ba tôi cũng mỏi mòn nằm xuống trên mảnh vườn của nội tôi, bình yên. Má tôi vẫn không ngừng tìm kiếm dì, hỏi để làm gì, má tôi nói để cho dì hay và nói với dì, nếu sống mà không gần được, chừng nào chết, mời dì lên nằm trên đất vườn tôi.

Ðó là nỗ lực cuối cùng má tôi làm để chấm dứt cái cảnh ba nằm bên má mà hồn vẫn hướng về nơi dòng sông miên man chảy.


Phạm Hiền Mây, the poet born in 1971 in Saigon, Vietnam. The prolific poet speaks, thinks, sleeps, and dreams in Kanji, Lục bát, six-eight syllables. Her poetry can be accessed through all platforms, including Facebook, Amazon, and local and international websites.

NHÃ CA | Phạm Hiền Mây

Sài Gòn 08.12.2023
Phạm Hiền Mây

NHÃ CA VÀ BÀI THƠ NHÃ CA THỨ NHẤT



Nhã Ca, một tên tuổi quá lớn.

Nhã Ca, cái tên mảnh mai như lá cỏ, nhẹ nhõm như làn mây, thanh thoát như hương hoa, thế mà, so với đồng nghiệp, nhất là đồng nghiệp cùng giới, thì sự nghiệp văn chương của bà, phải nói là to lớn, khiến người khác phải nể phục và ngưỡng mộ.

Mỗi khi nghe ai đó nói bằng cái giọng điệu móc méo, giễu cợt, chê bai, nhạo báng, rằng thì là, bà vốn là một nữ sinh Huế, bỏ trung học vào Sài Gòn, đi theo Trần Dạ Từ – và bây giờ là người chồng duy nhứt của bà, cuộc hôn nhân đã được hơn sáu mươi năm nay – một nhà báo, rồi nhấn mạnh, một người Bắc di cư, thú thật, tôi rất ghét.

Là ghét những người nói kiểu như thế.

Bà như vậy, thì đã sao? Thì có gì sai?

Thế kỷ hai mươi là thế kỷ nào rồi mà con người ta lại không được quyền đi tìm tình yêu cho mình chớ?

Những ai thường nói chuyện đạo lý, những ai thường đấu tranh cho bình đẳng, bình quyền, giúp giùm tôi cái, trả lời giùm tôi cái, vượt thoát khỏi những cấm cản cực đoan, vượt thoát cái lề thói phong kiến, cổ hủ, kiểu như, tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử, đi theo lời mách bảo của trái tim, đi tìm kiếm tình yêu, cho mình, một tình yêu tuyệt mỹ và duy nhứt – như bà, thì có gì sai không?

Mạnh dạn lựa chọn tình yêu cho mình, con đường hạnh phúc cho mình, bằng sự tự do và quyền tự quyết mà thượng đế trao cho mình, liệu, như vậy, có sai không?

******

Thơ bà, hòa trộn giữa nét âm trầm, sâu kín, dịu dàng của xứ Huế và nét xông xáo, cởi mở, sẵn sàng đón nhận, hóa giải nhẹ nhàng mọi vấn đề của kiểu Sài Gòn, nên thi vị:

lời hứa của chàng cùng với mùa mưa lũ
anh đã không quên em
chuyến xe đêm những bầy sao tình tự
trời mưa trời mưa vẫn trời mưa
má ơi má ơi
con còn sống
(Khi Trở Lại Sài Gòn)

Chưa kể, khi người thơ yêu người thơ – Nhã Ca và Trần Dạ Từ, họ yêu nhau – thế nên, chất thơ trong họ, ngày mãi bồi đắp, ngày mỗi dạt dào, sóng nhỏ sóng to, cuốn lôi, quấn quýt, đánh vào bờ rồi nắm níu nhau dạt ra khơi. Như trò chơi thuở bé. Như tình yêu. Vừa trẻ thơ vừa long đong thân phận. Thơ dựa thơ mà sống. Thơ dựa thơ mà đứng giữa đất trời. Thơ dựa thơ, mà đơm hoa kết trái.

Không giống ai, lại cũng không mang hơi hướm ai, không na ná giọng ai, đó là điều đặc biệt mà tôi nhận ra trong thơ của bà:

mắt dõi theo vừa ngút bóng cây
đời chia dăm bảy dấu chân bày
tôi hồn vẫn đứng yên như tượng
trông tháng ngày đi trên cánh tay
(Ngày Tháng Trôi Đi)

Nhã Ca là Nhã Ca. Một góc bể. Một phương trời. Một đầu non. Một đỉnh núi. Vừa an nhiên vừa thấu hiểu nỗi buồn vui nhân thế. Đón nhận và đối đầu, không chỉ là tính cách con người bà, mà nó còn thể hiện trong phong cách viết của bà.

Thơ bà tràn ngập nữ tính, yêu và yêu, sẵn sàng chết vì yêu, sẵn sàng gian truân, sẵn sàng chịu khổ, đọa đày, thậm chí tan tác:

tóc hết thời xanh, tuổi hết dài
hồn bưng bình mật đắng tương lai
tôi về ngó lại thời con gái
thành phố già nua những gốc sầu
(Bàn Tay Chàng)

Thơ bà, như con người bà vậy, dấn thân và đương đầu, không đổ lỗi, tự nhận chịu và cáng đáng, không biết sợ, không mệt mỏi, điềm nhiên.

******

Bà đã có tác phẩm đăng báo từ thời còn là nữ sinh trường Đồng Khánh. Lúc chính thức góp mặt vào giới văn chương với những bài thơ đầu tiên, giới thi văn đàn đã ngạc nhiên, đã thất kinh mà hỏi nhau: Trần Thy Nhã Ca, Trần Thy Nhã Ca là ai?

Bà xuất hiện, và ngay từ ban đầu đã mang một tâm thế mạnh mẽ, tự tin, rõ ràng, minh bạch, không che che giấu giấu, không mơ hồ, xa xôi, bóng gió, như các nhà thơ nữ khác:

đời sống ôi buồn như cỏ khô
này anh em cũng tợ sương mù
khi về tay nhỏ che trời rét
nghe giá băng mòn hết tuổi thơ
(Thanh Xuân)

Cả trong lãnh vực thơ ca và viết văn, bà đều thành công như nhau, nổi trội, gây tiếng vang, có thể nói là nhứt nhì trong giới văn nghệ, suốt mười lăm năm, từ năm bà đặt chân đến Sài Gòn, một ngàn chín trăm sáu mươi cho đến biến cuộc năm một ngàn chín trăm bảy mươi lăm.

Điều khiến cho tôi thích thơ văn bà, không chỉ vì bà là một tài năng, mà thú thật, phần lớn là vì, tất cả các tác phẩm của bà, đều không đề cập đến sex.

Tôi nghe đâu đó rằng, một số nhà văn trẻ, khi họ sớm khao khát sự thành công, danh tiếng, quá nôn nao trong việc muốn tìm kiếm ngay lập tức một số lượng lớn bạn đọc riêng cho mình, thì con đường ngắn nhất để dẫn đến những ước mơ ấy là viết truyện có nhiều cảnh chăn gối.

Nói như vậy, không có nghĩa là tôi không ủng hộ loại văn chương nghiêng về sex. Ở một mặt nào đó, viết về dục tính, tương tợ như một sự ngấm ngầm phản kháng, phản kháng những o ép, những bí bức trong con mắt nhìn phân biệt, trong những cái đầu lấy nho giáo, lễ giáo làm thước đo phẩm chất và năng lực của con người.

Sex trong thơ văn còn là một thái độ, một khẳng định, thái độ tự tin và khẳng định cái tôi.

Tuy nhiên, cá nhân tôi, tôi thích sự chừng mực. Và chuyện thân xác ấy mà, kiểu gì kiểu, tôi cũng thích nó được mô tả bằng những ngôn từ thật mới, những phương pháp, những phong cách thật mới, mới lạ, dễ thương mà vẫn khơi gợi được cảm xúc và ham muốn tự nhiên.

Còn bằng như, đậm quá, mặn quá, thú thiệt, tôi cũng bị dội.

******

Tôi thích sự lãng mạn, thơ mộng, nhẹ nhàng, dẫu rằng, những thức ấy toàn là những thức xa xỉ cho một đời sống thuộc về nửa sau của thế kỷ hai mươi. Nhã Ca cung ứng được điều này, và, tôi thích bà:

và đôi mắt uống hình nhau đã chật
tay nâng tay thương nhớ nuốt trong lời
đêm buồn sương làm mắt ướt xa xôi
và giá lạnh bao nhiêu lời tình tự
(Ghé Môi Sầu)

Bà không chỉ lớn trong văn chương, nghệ thuật. Với tôi, bà còn lớn ở cả tình cảm, nhân cách. Nhìn sự chung thủy tuyệt đối của bà với ông Trần Dạ Từ, nhìn cách bà lui về gia đình, mỗi khi có dịp, là cũng đủ hiểu, bà thuộc tuýp người nào. Văn chương thì cứ văn chương nhưng gia đình, như cái cây vậy, ánh sáng không thể thiếu, và nước tưới, cũng cần phải có mỗi ngày:

con nói đi, kìa, mặt trời mọc
mặt trời đang mọc, mặt trời hồng
mặt trời đang mọc, ba đừng khóc
mưa gió nào chôn nổi rạng đông
(Thơ Sớm Mai)

Tôi còn thích bà ở chỗ, khi được một nhà báo phỏng vấn, nếu chỉ được chọn một trong ba lĩnh vực, là thi sĩ, văn sĩ hay nhà báo, Nhã Ca đã trả lời rất nhanh và dứt khoát: tôi sẽ chọn làm thi sĩ. Mặc dầu, ai cũng biết, Giải Khăn Sô Cho Huế, của bà, một thời, xuất bản không kịp bán; Giải Khăn Sô Cho Huế, được dựng thành phim; Giải Khăn Sô Cho Huế, một trong những tác phẩm đầu tiên của Việt Nam tại hải ngoại, được chọn dịch ra tiếng nước ngoài.

Và hàng trăm truyện ngắn, truyện dài, bút ký… , khác của bà, cũng luôn được độc giả xưa và nay, tìm kiếm.

Có đọc những lời thơ tình tự của bà, tình tự cùng quê hương, tình tự cùng cỏ cây hoa lá, tình tự với cuộc chiến, tình tự với người thương, thì mới hiểu, tại sao bà lại yêu thơ đến như vậy:

Tôi lớn lên bên này sông Hương
Con sông chẻ đời ra những vùng thương nhớ
Cây trái Kim Long, sắt thép cầu Bạch Hổ
Cửa từ bi vồn vã bước chân sông
Mặt nước xanh trong suốt tuổi thơ hồng
Tháp cổ chuông xưa sông hiền sóng mọn
Những đêm tối bao la những ngày tháng lớn
Những sáng chim chiều dế canh gà
Tiếng chuông buồn vui dợn thấu xương da
Người với chuông như chiều với tối
(Tiếng Chuông Thiên Mụ – 09.1963)

Bài thơ nào bà viết cũng hay, nhưng thích nhứt với tôi, vẫn là:

BÀI NHÃ CA THỨ NHẤT

tôi làm con gái
buồn như lá cây
chút hồn thơ dại
xanh xao tháng ngày

tôi làm con gái
một lần qua đây
rồi không trở lại
ôi mùa xuân này

tôi làm con gái
đời như heo may
tình bằng cỏ dại
giận hờn không khuây

tôi làm con gái
một lần yêu người
một lần mãi mãi
bao giờ cho nguôi

tôi làm con gái
bao nhiêu tuổi đời
bấy lần thơ dại
buồn không ai hay.

******

Ngay từ câu đầu tiên, bà đã khẳng định:

tôi làm con gái
buồn như lá cây

Có nhiều kiểu buồn lắm, buồn như hoa rụng, buồn như nước chảy qua cầu, buồn như màu sim tím… . Kiểu buồn của bà, khác chút, bà nhìn thẳng vào nỗi buồn, và thấy nỗi buồn mình, như lá. Chiếc lá mỏng tang, nhỏ bé, non nớt, mới chỉ được ít ngày trên cây, chưa hiểu hết sự đời, mà sắp rồi đây, phải hòa mình vào dòng bôn ba nhân loại, cùng những tháng ngày đằng đẵng:

chút hồn thơ dại
xanh xao tháng ngày

Bài thơ có năm khổ, mỗi khổ bốn dòng, mỗi dòng chỉ bốn chữ, và mở đầu khổ nào, cũng là câu khẳng định, nhắc đi nhắc lại – tôi làm con gái.

Tôi “làm” con gái chớ không phải “là”. Làm với là khác nhau nhiều lắm. Làm, động từ, có nghĩa là chính tôi, chính tôi chuyển động, phải tự chuyển động, phải tự chính mình, chuyển dịch chật vật, cam go trong cái bể đời con gái ấy. Làm, nghe cái gì đó như là, bất đắc dĩ, như là, không được quyền chọn lựa, như là, sinh ra, đã được định sẵn như vậy rồi.

Tôi “làm” con gái. Thì sao?

tôi làm con gái
một lần qua đây
rồi không trở lại
ôi mùa xuân này

Qua đây là qua đâu? Bạn ơi, cũng như tôi đây, tác giả chỉ cho mình bài thơ chớ không cho mình lời giải thích. Tự mà nghĩ lấy, tự mà đoán lấy, nếu bạn đã lỡ thích quá, bài thơ.

Qua đây, là qua cái tuổi còn thơ. Qua đây, là qua các tuổi được gọi là con gái. Qua đây, là qua cái thời gian mà người ta ví, độ tròn trăng.

Cũng có thể, biết đâu, xa hơn, qua đây, là qua xứ Huế, nơi cha sinh mẹ đẻ, mà một lần dứt áo ra đi, là mãi mãi, là vĩnh viễn, khó thể quay về.

Ai mà biết được, tâm tình của những nhà thơ. Có khi mình mới nghĩ tới đầu ngõ nhà thôi, thì trong đầu nhà thơ, họ đã nghĩ tới đẩu tới đâu, xa tít dãy ngân hà rồi.

tôi làm con gái
đời như heo may
tình bằng cỏ dại
giận hờn không khuây

Đời như heo may, với Nhã Ca, lúc này, ở ngay thời điểm này, thì không nên hiểu đời đang ở mùa thu, đang ở buổi xế chiều, mà phải hiểu “heo may” đây là ngọn gió hơi lạnh, hơi se lạnh.

Hơi là hơi hơi, là khẽ khàng, là se sẽ, là yếu ớt, là mỏng manh, là rất nhẹ. Đời thì mong manh mà tình thì như cỏ dại. Dại đây không phải chỉ ngọn cỏ bướng bỉnh mọc cao quá đầu, um tùm, mà dại đây là dại dột, khờ khạo, chưa trải nhiều trường đời, phong ba, bão tố. Bằng chứng là, mỗi lần giận, chỉ giận thôi, chỉ hờn thôi, chưa gì to tát, chẳng gì to tát, cũng đã đủ khiến người viết bài thơ, không khuây.

Là không nguôi quên đó. Giận hờn thôi mà đã không nguôi quên.

tôi làm con gái
một lần yêu người
một lần mãi mãi
bao giờ cho nguôi

Đoạn này tiếp nối với đoạn trên. Mở rộng ra thêm và khẳng định thêm một lần nữa. “Làm” con gái là sao? Là yêu ai, yêu chỉ một người. Yêu ai, là yêu mãi mãi. Và không biết bao giờ mới nguôi, nghĩa là mới thôi, mới dừng lại, tình yêu ấy.

Nhã Ca ơi, tôi xin trả lời thay bà, chỉ cái chết mới chia lìa đôi lứa. Chỉ khi vào thiên thu, thì mới có thể nguôi ngoai.

tôi làm con gái
bao nhiêu tuổi đời
bấy lần thơ dại
buồn không ai hay

Đến đoạn cuối này, thì không chỉ là khâm phục đâu, hơn cả khâm phục, ấy chính là sự ngưỡng mộ của tôi. Ngưỡng mộ một tài hoa hơn những tài hoa bình thường. Ngưỡng mộ một tài năng, một tài năng qua bao vùi dập, vẫn cứ ngang nhiên và cả an nhiên nữa, thênh thang đường cái quan chân bước.

“Làm” con gái, có bao nhiêu tuổi đời, thì xin thưa rằng, tôi sẽ dại đủ bấy nhiêu ngày tháng, tương đương. Dại dột, dại khờ, dại ngây – nên buồn. Mà cái buồn tôi, thì nào có ai hay, nào có ai biết.

Giùm cho.

Xin không nói nữa, vì nếu nói nữa, như cái hoa, nở đến phút giây cuối cùng, chẳng còn gì e ấp, nó trơ ra, và rụng cánh. Nên thôi, xin không bình thêm nữa.

******

Đơn giản mà thiệt hay. Dịu dàng mà sâu sắc. Ngây thơ mà sớm chín. Hồn nhiên mà rất buồn. Tĩnh lặng mà đam mê. Khổ đau mà hạnh phúc. Nhỏ bé mà tự chủ. Đó chính là Nhã Ca.

Nếu chúng ta từng biết một nhạc sĩ lẫy lừng Trầm Tử Thiêng với những bài như: chuyện một chiếc cầu đã gãy, cơn mưa hạ, đêm nhớ về sài gòn, có tin vui giữa giờ tuyệt vọng… , thì, hẳn các bạn yêu nhạc của ông, cũng sẽ biết, ông từng phổ thơ cho Nhã Ca, đó là Bài Nhã Ca Thứ Nhất.

Và đặc biệt, ông không sửa, không thay, không đổi, bất cứ một từ nào, một chữ nào của nguyên gốc bài thơ.

Làm sao mà đổi được.

Bài thơ hay quá mà.


Phạm Hiền Mây, the poet born in 1971 in Saigon, Vietnam. The prolific poet speaks, thinks, sleeps, and dreams in Kanji, Lục bát, six-eight syllables. Her poetry can be accessed through all platforms, including Facebook, Amazon, and local and international websites.

CÓ LÚC… . | Phạm Hiền Mây

Phạm Hiền Mây

Sài Gòn 31.10.2023
Phạm Hiền Mây


Hôm nay, ngày cuối tháng của tháng mười, ở thành phố Sài Gòn này – cái thành phố mà người nào, dẫu vừa mới tới lần đầu thôi, cũng đã thấy thân quen, ruột rà như có mối liên hệ từ tận thời ông tằng bà tổ và người dẫu chưa rời đi, cũng biết, rồi đây, nếu phải xa, sẽ hoài trong lòng một nỗi nhớ lớn lao, triền miên, khôn xiết – trời đất cứ ui ui làm sao ấy.

Ui ui không chỉ là từ dùng để chỉ trạng thái thời tiết, không nắng không mưa, kiểu dở chừng, nửa nọ nửa kia mà ui ui còn là từ diễn tả tâm trạng khá hay, như tôi vậy, lúc này và đa phần những ngày tháng khác trong đời, thường thế.

Ui ui, buồn vui không rõ rệt. Ui ui, niềm vui thú, sự hứng thú như màu nắng tắt, như bầu trời âm u, chứa đựng nhiều cảnh báo, dằn chừng, sẽ rồi cơn mưa tới.

Và bỗng dưng trên môi tôi, buột ra lúc nào không hay, bốn câu thơ của Mai Thảo:

có lúc nghĩ điều này điều nọ
cảm thấy hồn như một biển đầy
có khi đếch nghĩ điều chi hết
hệt kẻ ngu đần cũng rất hay

I/ CÓ LÚC NGHĨ ĐIỀU NÀY ĐIỀU NỌ



Tôi cũng là kẻ võ vẽ làm thơ, giải thưởng cũng có, bài giới thiệu về tôi từ những tác gia tên tuổi cũng nhiều, tác phẩm xuất bản cũng đâu đó trên một bàn tay, bài in trên báo và tạp chí thì đếm không xuể, nhưng tôi rất ít nói về thơ, đúng hơn, là, ngại nói về thơ.

Vì tôi tự biết, với cái kiến thức rất giới hạn của một cô giáo dạy văn cùng với hàng ngàn bài thơ, mà phần nhiều được viết theo cái thể thức rất đỗi hồn Việt, người Việt – lục bát – với con đường quan san, với bóng người đi xa, với thiên lý vạn dặm, với chia ly đầy nước mắt, với bóng chim tăm cá… , thì làm sao, và, nói gì giờ đây, cho đủ, cho đúng, cho hết về thơ.

Nhưng hôm nay thì tôi sẽ nói, thơ là gì và như thế nào thì được xem là một bài thơ hay.

Thơ là suy nghĩ của một cá nhân về một vấn đề nào đó, có khi rõ ràng, gọi tên được, lại có khi cũng không mấy rõ ràng, và vì thế, rất khó để gọi tên.

Thơ có thể là một tư tưởng đã được ăn sâu, tạo gốc rễ trong tâm hồn tác giả. Thơ cũng có thể chỉ là một ý tưởng thoáng qua, vừa mới hình thành, chưa kiểm nghiệm. Hơi thơ, hoặc bi, hoặc hài, hoặc vừa bi vừa hài, hoặc nó đơn giản chỉ là sự hứng chí, nhất thời, mang tính đùa ghẹo, bỡn cợt, vui là chính, nên có thể nghe được tiếng cười, hoặc cay đắng mỉa mai, hoặc ý nhị khẽ khàng hoặc ha ha sảng khoái theo suốt chiều dài bài thơ.

Thơ được viết bằng văn vần hoặc văn không có vần. Nhưng với tôi, bài thơ dù không vần đi nữa thì khi đọc lên, chữ thơ vẫn cần lắm sự uyển chuyển (dịch chuyển hợp lý), duyên dùng. Hơi hướm đằm thắm, e thẹn, dịu dàng, thẩn thơ cũng được mà mạnh mẽ, liều mạng, khí phách, ngạo thế cũng không sao, miễn là có lên có xuống, có thăng có giáng, tạo được sự đã đời, kiểu như là, nó khiến ta phải tặc lưỡi, thốt lên tán thưởng, phải thế chứ, phải là như thế chứ.

Các nhà định nghĩa thường gọi đấy là nhạc tính.

Có Lúc của Mai Thảo là một bài thơ. Và là một bài thơ hay.

có lúc nghĩ điều này điều nọ
cảm thấy hồn như một biển đầy
có lúc đếch nghĩ điều chi hết
hệt kẻ ngu đần cũng rất hay

Thơ hay là thơ khiến độc giả, đọc lên, ngay lập tức, có cảm giác như thấy mình ở trỏng, như tác giả đương nói hộ lòng mình, tâm hồn mình vậy.

Thơ hay là thơ, dù đang không cùng tâm trạng ấy nhưng khi đọc lên, người ta vẫn dễ dàng hiểu (không cần phải rõ), dễ dàng nhận ra được ý (không cần phải chính xác) chứa đựng trong bài thơ và dễ dàng cảm thông được tình (không cần phải bằng hết) mà tác giả thầm kín hoặc lộ liễu gửi gắm. Thơ hay là thơ còn khiến cho người đọc như muốn xẻ chia đến tận cùng niềm vui, nỗi buồn mà tác giả đang nặng mang.

Thơ hay là thơ làm bạn đọc cười cùng, khóc cùng, làm trái tim bạn đọc gõ cùng nhịp với trái tim tác giả.

Đọc lên, khiến cho nhiều thế hệ cách biệt nhau, không cần qua phân tích, không cần qua giảng giải, vẫn đồng cảm được, ấy chính là thơ hay.

Cuối cùng, thơ hay là thơ khiến người ta bâng khuâng hoài vì nhiều điều chưa tỏ, nghĩ ngợi hoài vì nhiều chỗ chưa chắc, nhớ nhung hoài vì tâm tư thơ tương đồng với nỗi niềm riêng của mình. Người ta dễ dàng thuộc lòng cả bài thơ, dù có dài đến mấy.

II/ CẢM THẤY HỒN NHƯ MỘT BIỂN ĐẦY



Tôi sinh ra ở miền Nam, uống nước sông phương Nam, ăn hạt lúa phía Nam, nên tâm hồn tôi, cũng lồng lộng mây trời Nam.

Tôi yêu mọi thứ ở nơi đây, từ con người đến cảnh vật, từ tiếng nói đến miếng ăn vào miệng. Và, đương nhiên, tôi yêu văn chương miền Nam, tự hào về văn chương miền Nam. Tôi yêu và cố chấp với tình yêu ấy lắm.

Ngay cả đến các tác giả cũng vậy. Dù nhà trường có nhồi sọ tôi cỡ nào, thì khi lớn lên, tự tôi, tôi cũng quên sạch sành sanh những Tố Hữu, Chính Hữu, Minh Huệ, Lê Anh Xuân, thay vào đó, tôi đọc Bùi Giáng, Tô Thùy Yên, Nguyễn Tất Nhiên, Nguyên Sa.

Và tương tự thế, với văn, cũng không khác.

Tôi tìm đọc về họ, bằng nhiều nguồn, nhiều cách khác nhau. Tôi lân la với các bậc tiền bối, tôi hỏi han các người bạn vong niên về Mai Thảo, về nhiều người nay đã khuất núi. Hai người tôi hay trò chuyện, một là phê bình gia Đặng Tiến, đã mất, hai là anh Khánh Trường, người anh đa tài nên trời già cũng lắm ghét ghen – họ thường kể cho tôi nhiều kỷ niệm xưa với Mai Thảo.

Anh Khánh Trường rất thương và nể ông Mai Thảo. Anh kể nhiều nhưng tôi nhớ nhất là thời gian Mai Thảo không hoạt động văn chương nữa và yếu nhiều. Gần như ngày nào, anh Khánh Trường cũng ghé qua Mai Thảo một lần và nhâm nhi cùng ông. Có lúc ông mệt quá thì Khánh Trường uống một mình. Rượu, trong phòng ông Mai Thảo, chẳng bao giờ thiếu.

Có lần, Hợp Lưu của Khánh Trường gặp khó khăn, anh đến tâm sự cùng ông. Chẳng giàu có gì, nhưng nghe xong, vẫn rất hào hiệp, vẫn rất đàn anh, thủ lĩnh, ông Mai Thảo liền lấy tiền đưa Khánh Trường mượn, mượn hay cho, và là bao nhiêu, thú thực, tôi không nhớ rõ, nhưng có anh Khánh Trường đây, nếu tôi sai gì, ảnh sẽ đính chính, đồng thời, xốc tinh thần anh Khánh Trường dậy, ông nói: Khánh Trường làm được, làm được mà, tôi tin Khánh Trường sẽ làm cho Hợp Lưu tốt mà.

III/ CÓ LÚC ĐẾCH NGHĨ ĐIỀU CHI HẾT



Tôi có hai hình dung về Mai Thảo. Một, Mai Thảo – với rượu và văn chương. Hai, Mai Thảo – con người vô cùng thông minh, duyên dáng, và, thừa lịch lãm.

Lịch lãm ấy mà, ngoài nghĩa hiểu biết rộng, bản lĩnh, thức thời, lời ăn tiếng nói từ tốn, nhẹ nhàng, cử chỉ cởi mở, bặt thiệp, theo tôi, lịch lãm còn hàm chứa cả việc ý thức vị trí cao hơn người của mình mà vẫn luôn giữ được vẻ khiêm tốn không hề giả tạo.

Nhưng, kiêu bạc và khiêm tốn, nhiều người yêu thương và đơn côi, đông đúc bạn bè và không tri kỷ, kiếm tiền dễ dàng và sạch túi, lên voi và xuống chó, sinh ly và tử biệt, lãng mạn và hiện sinh, tự do và ràng buộc, hy vọng và tuyệt vọng, say và tỉnh, lịch lãm và hư hoại, những thứ ấy, không phải là tính hai mặt của một bản thể, không phải là tính hai mặt của nhà văn Mai Thảo cũng như tất cả chúng ta đây sao.

Ngửa bên này là lịch lãm, ngửa bên kia, ông thốt lên, có lúc đếch nghĩ điều chi hết. Nghĩ được gì khi mà, tất cả mọi thứ giờ đây đều đã là không, đều chỉ là không:

Sau đường chân trời là không.
Cõi không. Không còn gì nữa hết.
……
Dưới nữa là không.
Cõi không. Không còn gì nữa hết.
Cõi không là thơ. Không còn gì nữa hết là thơ. Nơi không còn gì nữa hết là khởi đầu thơ. Một xóa bỏ tận cùng. Từ xóa bỏ chính nó. Tôi xóa bỏ xong tôi. Không còn gì nữa hết. Tôi thơ.
(Bờ Cõi Khởi Đầu)

IV/ HỆT KẺ NGU ĐẦN CŨNG RẤT HAY



Tài hoa, thông minh mấy thì cũng sẽ có những lúc rơi vào trạng thái thờ ơ, chán chường, phiền muộn, đau đớn và nhận ra, chẳng có gì hết, khi ông, người biệt xứ, có quê hương mà chẳng thể về, khi ông, người làm văn chương, có tài viết mà viết thì giờ đây ai đọc.

Trạng thái ấy, ai chẳng vài lần trong đời, nên khi Mai Thảo ví von, hệt kẻ ngu đần cũng rất hay, ông đã dễ dàng được bạn đọc ngậm ngùi san sớt và cảm hiểu cùng.

Chỉ khi ý thức được con người ta sống chết gang tấc và trong đời mọi chuyện thường bất như ý thì mới có những câu thơ đơn giản và gần gụi đến như vậy

có lúc nghĩ điều này điều nọ
cảm thấy hồn như một biển đầy
có lúc đếch nghĩ điều chi hết
hệt kẻ ngu đần cũng rất hay

Có nghĩ đến mấy nữa thì cũng đã mất hết. Gió thổi mãi, chẳng gì giữ lại được.

******
Có Lúc là một bài thơ rất thơ của Mai Thảo.

Và, Có Lúc, như lúc này, đang là tâm trạng rất tôi. Nói một cách khác, đây là trường hợp tâm-thơ-tương-đồng.

Đỉnh cao, và rồi hư không.

có lúc chập chùng có lúc mù sương
có lúc đại dương có lúc dặm hồng
có lúc nghìn phương bờ điệp điệp
có lúc bơ thờ mây trắng tan.


Phạm Hiền Mây, the poet born in 1971 in Saigon, Vietnam. The prolific poet speaks, thinks, sleeps, and dreams in Kanji, Lục bát, six-eight syllables. Her poetry can be accessed through all platforms, including Facebook, Amazon, and local and international websites.

Forever yes | Phạm Hiền Mây

A poem in Vietnamese by Phạm Hiền Mây
Translator: Nguyễn Thị Phương Trâm

MÃI NHA… 



mãi nha
màu cánh hoa vàng
lung linh với cỏ xanh tràn non tơ

cho ngày trọ cứ hoài thơ
cho đời khách cứ mộng mơ trú tình

mãi nha
năm tháng bóng hình
dù trần gian vẫn chúng mình gió vai

bên thềm em ước một mai
cùng anh ngắm nắng trời phai dặt dìu

ngắm hàng hiên lá rơi chiều
và nghe sáo hót yêu nhiều
mãi nha… .

forever, yes
forever yellow petals
a forever shimmer on new grass

forever be a poem is the new day
a perpetual guest of a loving world as it may

forever yes
through the shadow of time
the tempest of this world on our shoulders

at the precipice of my dream by your side
gaze at the dying light

watch the falling leaves 
listen to the the blackbird’s song of courtship
forever, yes.

December 2020


Phạm Hiền Mây, the poet born in 1971 in Saigon, Vietnam. The prolific poet speaks, thinks, sleeps, and dreams in Kanji, Lục bát, six-eight syllables. Her poetry can be accessed through all platforms, including Facebook, Amazon, and local and international websites.

Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.

Surprisingly infinite | Phạm Hiền Mây

A poem in Vietnamese by Phạm Hiền Mây
Translator: Nguyễn Thị Phương Trâm

SURPRISINGLY INFINITE….



even when the sky is draped in smoke
a golden moon will shine gloriously in all realms of light
as we will be abundant always like the clouds
forever green leaves drifting beyond winter

quiet beyond the thunderstorms
sunlight blooming beyond the evening mist
as we will be always an infinite bloom
beyond the endless separation….

June 2022
_

VÔ CÙNG CẢ KHI… .



cả khi trời khói vào giăng
thì cung nguyệt vẫn này trăng rất vàng
như ta vậy, lá mây ngàn
sau ngày đông sẽ xanh vàn cánh thêm

sau giông bão gió nằm êm
và hoa nắng mới sau đêm mịt mùng
như ta vậy, đóa vô cùng
cả khi đời đó muôn trùng cách chia… .


Phạm Hiền Mây, the poet born in 1971 in Saigon, Vietnam. The prolific poet speaks, thinks, sleeps, and dreams in Kanji, Lục bát, six-eight syllables. Her poetry can be accessed through all platforms, including Facebook, Amazon, and local and international websites.

Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.

I thought | Phạm Hiền Mây

A poem in Vietnamese by Phạm Hiền Mây
Translator: Nguyễn Thị Phương Trâm

humanity may remain forever in my heart
to myself more so true
the way the wind always blows through
the fall is so very blue

the way the clouds mark the sky
affection like smoke passes by
unconditional love thought reserved for humanity
trice I am more true to my heart than my love for thee… .

TƯỞNG… .


thương người bằng hết chân tình
tưởng thôi mình vẫn thương mình phần hơn
như muôn thuở gió hoài cơn
lá thương bày rụng cô đơn xuống đời

như muôn thuở nước in trời
khói thương dòng bóng mây vời vợi qua
thương người tưởng rất bao la
mà thương mình lại gấp ba thương người… .


Phạm Hiền Mây, the poet born in 1971 in Saigon, Vietnam. The prolific poet speaks, thinks, sleeps, and dreams in Kanji, Lục bát, six-eight syllables. Her poetry can be accessed through all platforms, including Facebook, Amazon, and local and international websites.

Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.

Last words | Phạm Hiền Mây

A poem in Vietnamese by Phạm Hiền Mây
Translator: Nguyễn Thị Phương Trâm

https://www.abc.net.au/news/2019-10-24/39-bodies-found-in-container-truck-in-essex-what-we-know/11634182

mum mum I can not breathe

mid one life this appalling plead
be the next life indeed

born again no, not of this land
as feral birds not man

oblivious to poverty
wings wide forever free

(better than) a stream cut off by rotting trees
(a heart) in blinding waves of agony

forgive me please for letting go 
I’m sorry mum
mum… .

(October 2019)

LỜI CUỐI…


con không thở được mẹ ơi
tiếng kêu bi thiết giữa đời trần ai
nếu còn thêm nữa kiếp mai

xin thôi đừng tiếp đầu thai chốn này
thà như muông thú chim bày

hồn nhiên no đói ăn mày trời không
tự do cánh sải mênh mông

hơn dòng lạc củi rêu sông nước tù
đớn đau lòng khói sóng mù

thứ tha con đứa buông phù thế rơi
con xin lỗi mẹ
mẹ ơi… .


Phạm Hiền Mây, the poet born in 1971 in Saigon, Vietnam. The prolific poet speaks, thinks, sleeps, and dreams in Kanji, Lục bát, six-eight syllables. Her poetry can be accessed through all platforms, including Facebook, Amazon, and local and international websites.

Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.