straightening a curl as I walk

A short story in Vietnamese by Nguyễn Văn Thiện
Translator: Nguyễn Thị Phương Trâm 

Straightening a curl as I walk

On Mount Chư Mang – yes again Mount Chư Mang, where else could I go? – There are eyes sparkling innocently like stars, but there are also the devilish red eyes in the enchanted night. There’s nowhere for saints and angels to hide; they’re forced to confront the peril.

I’m straightening a curl. Not because I’ve lost my mind, it’s my way to attain perspective before facing angels and demons. Both sides find my stupidity pitiful; they tolerate me; probably I’m still alive.

No one will come to your aid if unluckily you fall into the mouths of demons. Your friends shall be oblivious to the point of viciousness, and they’ll watch and laugh as you drop from the ninth level of heaven. But entertaining for any distraught crowd. 

Hence, don’t be so straight, smile, don’t worry if it’s a little crooked, tasteless, add a bit of spit on your lips for drama, and you’ll be just fine.

I’m on the contrary, always straightening a curl as I walk!

How hard is it to straighten a curl? Hard, but not impossible. How hard is it to keep your balance on a rope between the mouths of angels and demons? Hard, but not impossible. It would be best if you didn’t look down too long at the rowdy crowd. They were born there; their heads were stuffed with hard ideologies, tough as nails, they’re everywhere like mosquitoes like water droplets in canyons, so don’t lose your temper. If you lose your temper, the curl shall break in half. Try it if you don’t believe me!

You asked me: “Why would anyone want to write something so depressing?”. I don’t have an answer for that, I didn’t have a chance to prepare an answer, so I won’t. My attention for the moment is focused on sketching a person in a storm or a dusty red sunset walking on a road. I wanted to describe my current situation; whether it’s happy or sad?

The last few days, images of a young boy floating face down in a pool of water washed up on a beach had plagued people’s minds. There has been a unified expression of love for humanity through evidential tears of compassion beyond borders. But, no one bothers to cry for the children at home, right by their side. The lives of the tiny little souls, yellow skin, they too bleed red, we watched them as they were being stepped upon, and we averted our eyes?

You said: “We cry for them now, who will cry for us later?”. In a place where every folklore is a tragedy then whether there are tears or no tears, compassion or indifference, there’s nothing of consequence!

Me fiddling with my one hair like an autistic child, jaw clamped shut as the teacher asked for an answer—the very curly hair, mystically shiny in the sunlight. Not every tear is a precious gem, and that’s the truth! I told you a story about a fairy godfather who had a kind face, tearful, and a bloody hand in the dark. Believe it or not, but if you’re not careful, you may drown in the tears of these righteous saints. Me, with a hair the colour of sunlight in my hand, I will continue to move forward, in the light, in the rain, through the screams of fanatics trying to protect a corpse in a pool of darkness. I tried to keep my sense of perspective, like a professional circus performer on a tightrope, across a valley of knives.

Sometimes I’m anxious, confused, since down there, the crowd never once stopped screaming. The fleshy red maws could swallow the whole of humanity. They were chosen for an important job of controlling the rhythm of this noisy life. But day after day they’re becoming more and more powerless, more helpless, more dangerous. “Take whatever you can!”, their pride is like an angry wave. Then there are times when they are soft and ignorant. Watching me straightening out my tight curl as I walked, they laughed, I was an alien from another planet. I laughed, with a bit of spit on my lips, though confused, I would continue with whatever I was doing, a circus performer on a tightrope.

Dangerous, but exciting, this is something, only I know!

Straightening a tight curl as you walk. Blokes with faces as cold as blocks of ice stopped me: “Hey, what are you up to?”. “Mate, what have you got up your sleeve?”… I laughed and showed them the tight curly hair in my hand. And they would laugh till they almost choked to death, before they abandoned me again, on my tightrope!/

_____

June 2020

Vừa đi vừa vuốt thẳng một cọng lông

Trên núi Chư Mang – lại núi Chư Mang, chứ còn biết đi đâu được nữa? – có những đôi mắt trẻ thơ như sao lấp lánh, nhưng cũng có những đôi mắt quỷ đỏ lòm trong đêm đen huyễn hoặc. Không có nơi nào cho thần tiên trú ngụ, bắt buộc chúng ta phải tìm cách đối phó với những hiểm nguy.
Tôi ngồi vuốt thẳng một cọng lông. Không phải điên khùng loạn não đâu, đó là cách tôi lấy lại thăng bằng để chơi cùng một lúc với thánh thần và ác quỷ. Cả hai phía đều thấy tôi ngu đần lẩn thẩn đến tội nghiệp, nên họ bỏ qua cho, để còn sống đến ngày mai.

  Không có ai dám bênh vực bạn đâu, nếu như bạn không may ngã vào miệng quỷ. Bạn bè của bạn sẽ trở nên vô tâm đến tàn độc và hả hê cười khi thấy bạn rơi từ chín tầng trời. Thậm chí cú rơi ngoạn mục ấy trở thanh trò giải trí cho đám đông quẫn bách.
Vậy nên, tốt nhất là hãy giữ thăng bằng, trên miệng hãy luôn luôn một nụ cười, méo mó cũng được, vô vị cũng được, thậm chí chảy thêm một ít nước bọt giả ngây giả dại cũng chẳng sao.

Tôi thì khác, vừa đi vừa vuốt thẳng một cọng lông!

  Vuốt thẳng một cọng lông có khó không? Khó, nhưng không phải là điều không thể. Giữ thăng bằng trên một sợi dây giăng ngang giữa miệng thiên thần và ác quỷ có khó không? Khó, nhưng cũng không phải là điều không thể. Có một điều cần biết là bạn không nên ngó xuống quá lâu đám đông nhảy múa gào thét dưới kia. Họ sinh ra ở đó, trong đầu được nhồi nhét một mớ giáo điều cứng như đinh thép, nhiều như muỗi như vắt trong hẻm núi vậy nên bạn hãy đừng nổi giận với họ.
Nếu bạn nổi giận, cọng lông sẽ đứt làm đôi. Không tin thì cứ thử xem!

Bạn hỏi: “Viết cái gì mà đau đớn buồn rầu đến vậy?”. Tôi thì không biết trả lời sao nữa, tôi chưa kịp chuẩn bị câu trả lời, nên đành bỏ ngỏ. Tôi cắm cúi ngồi vẽ gương mặt người trong gió mưa vần vũ hay nắng đỏ bụi đường. Tôi chỉ muốn vẽ lại một cách trung thực nhất gương mặt của khoảnh khắc mà tôi đang sống, còn đó là gương mặt buồn rầu hay vui vẻ, tôi làm sao biết được?
Những ngày qua, khi thân thể một cậu bé ở một xứ sở xa xôi nào đó nằm úp mặt trên một bờ biển xa xôi nào đó, mọi người có dịp chứng tỏ tình yêu thương đồng loại của mình bằng những giọt nước mắt nhân từ không cần biên giới. Nhưng hầu như không ai muốn khóc cho những đứa bé sống lay lắt ngay bên cạnh, đang bị đày đọa bởi những người thân yêu của nó. Cuộc sống của những sinh linh bé nhỏ, máu đỏ da vàng, đang bị chà đạp không thương tiếc ngay bện cạnh bạn đó, sao đành ngoảnh mặt làm ngơ?
Bạn nói: “Mình khóc thương cho người ta, rồi mai kia ai khóc cho mình?”. Ở xứ sở mà mỗi huyền thoại đều nhuốm màu bi kịch thì nước mắt hay không nước mắt, xót thương hay hững hờ, nào phải là chuyện gì ghê gớm!

Tôi mân mê cọng lông trên tay như một thằng bé tự kỷ, miệng ngậm hột thị khi thầy giáo hỏi bài. Cọng lông xoăn tít, lấp lánh dưới ánh sáng kỳ diệu của mặt trời. Không phải giọt nước mắt nào cũng châu ngọc cả đâu, thật đấy! Tôi đã từng kể cho bạn nghe về một ông tiên luôn luôn vẻ mặt nhân từ và nhạt nhòa nước mắt có bàn tay đẫm máu trong đêm đen. Tin hay không thì tùy, nhưng nếu không cẩn thận, bạn có thể chết đuối trong biển nước mắt của các thánh nhân đểu cáng. Còn tôi, với cọng lông màu nắng trên tay, tôi sẽ tiếp tục bước đi, trong nắng, trong mưa, trong sự gào thét của đám đông cuồng tín đang ra sức bảo vệ một xác chết chưa chôn hoặc một vũng lầy tăm tối. Tôi cố giữ lấy thăng bằng, như một diễn viên xiếc thạo nghề đang biểu diễn màn đi trên dây, qua một rừng gươm dao dựng ngược dưới chân.

Có nhiều khi cũng lo lắng, hoang mang, vì dưới kia, đám đông không ngớt thét gào. Những cái miệng há ra đỏ lòm chực ăn tươi nuốt sống đồng loại. Họ được lịch sử lựa chọn và giao nhiệm vụ vẻ vang giữ nhịp cho cuộc sống ồn ã này. Nhưng càng ngày họ càng tỏ ra bất lực, càng bất lực họ càng manh động, nguy hiểm.  “Không giành được thì cướp!”, họ nói thế và tỏ ra hãnh diện điên cuồng như sóng dữ. Nói thế chứ họ cũng yếu mềm và có khi đần độn. Khi thấy tôi vừa đi vừa cố gắng vuốt thẳng một sợi lông xoăn tít, họ ôm bụng cười lăn cười lộn, tưởng như được tận mắt thấy người ngoài hành tinh vừa rơi xuống. Tôi cười, miệng chảy ra một ít nước dãi ngớ ngẩn và tiếp tục công việc của mình, công việc của một diễn viên xiếc đi trên dây. 

  Nguy hiểm, nhưng rất thú vị, điều này, chỉ có tôi biết thôi!

  Vừa đi vừa vuốt cho thẳng một sợi lông xoăn tít. Những gã mặt lạnh như tiền chặn đường hỏi: “Này, mày định âm mưu gì đấy?”. “Này, mày có ý đồ đen tối gì đấy?”… Tôi cười hì hì và chìa ra cọng lông trước mặt, xoăn tít. Chúng nó bật cười sằng sặc, bỏ đi!/


Nguyễn Văn Thiện
Born: 1975
Home town: Anh Sơn – Nghệ An
Master in Comparative Literature and Critical Theories
Currently a high school teacher, and a prolific writer.
Editor of Chư Yang Sin (Đắk Lắk) Art and Literary Journal.

Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.

a writer ingested

A short story in Vietnamese by Nguyễn Văn Thiện
Translator: Nguyễn Thị Phương Trâm 

 A WRITER INGESTED

Up high, it’s a slow pace in the morning. The cicadas’ song stretches endlessly through the grass, like morning light through leafy canopies. He lay on his back, chewing grass because he is a cow. Last night in his dream, he swallowed an entire calf into his stomach. This morning, he saw himself as a cow with wet eyes, long tail and hanging teats. He’d thought the grass was fragrant and delicious, because of this fact, anyone who is not a cow would be envious of him. Compared to cows, no one could appreciate this deeply on how grass can be so fragrant and delicious. Happiness is simple. He opens his middle age gauntlet to a healthy eight teeth and even grins then staggered to a stance stretching his shoulders into a yawn. 

Moooo…

You’re thinking, in the night dreams of ingesting any creature by morning will you become one? With this matter, he can’t give you an answer, ask the philosophers, the writer-poets of whom are wilfully manufacturing stories out there. He concedes! He can speak only of his tale. Some nights, he dreamt of swallowing an entire lake into his stomach. Noon the next day, he saw himself as a vast lake. His deep blue spirit is spreading wide, quietly reflecting the sky. A playful kingfisher leapt high into the air and fell in a sudden moment. Liken to something piercing the umbilicus, as the whole body squirmed in rippling waves of agony. The kingfisher then flew away with no promise of return, left behind is a blistering scar at the umbilicus beneath the blinding Sun. 

He wanted to scream, but his voice in the moment calm, like the bubbling wriggle of a fishtail, a whimper amid the desolation. How can the lake bewail, even when it’s in its eternal yearning!

Life is a constant grapple; looking back on his dreams with loath and longing, happiness seems rare while common is break up and resentment. We chase each other with knives at the edge of mountains in our thoughts, waking to shaken knees and pounding hearts. An odd nightmare, some drunken night of drinks, fully dressed to bed, to dream. In his dreams, he swallowed all at once three politicians! Morning came, out of bed, jumped to ablutions, washed hair, sprayed before he stepped out. His steps proud and deliberate, lips quiet, eyes focus on the distance, a look of indescribable compassion. 

He figured the three politicians in his dreams the night before had indeed possessed him. He went to the city gate and stood, raised his hand way too high above his head and greeted the people in a fashion custom to how one would greet one’s constituents, with a gentle smile. The faces of the stream of passersby were either blank, full of contempt, or filled with hate. 

Hang on, why’s that?

Sometimes he sat like a dense clump of sand. He tried to remember what he swallowed in his dreams last night? What stands still quiet in place, surrounded by gaudy bright flags? What leaks silently rotting mouldy fleshy excremental chilling air? Can you work out what it could be? He let out a shout at the hint of the smell that overwhelmed him: In last night’s dream, he swallowed a mausoleum! Now, standing there, square and imposing, evident, challenging. His shadow draped long, a dark black shield on the autumn lawn. He said: “Hey, whose body lies in my mausoleum, can you hear the befoulment of history? Can you still taste the splendour of the banquet and the skin of those women, can you hear echoing taunts of the demons from the nine circles of hell?”.

The mausoleum continues to persist like the moon. In a fit of decomposition, he heard the quiet crumbling four corners of history. He said to himself; there will eventually be a day; it’ll be your turn.

You asked yourself, what if in a dream you swallow an entire highway? Then what! As dawn came pulling his shoulders back into a yawn he saw his body stretched out thousands of miles, parts dead straight parts curving pieces crooked parts bumpy, elements vastly deserted abandoned, parts clambered with footsteps as those at an open fair. He felt these feet upon him; some tickled like the fondle of a bee, and some delicate or deliberate heavily laden with rocks. Now and then some advanced on their knees toward promotion. He laid bare, conceptualising small feet coming finding a home, like the first yearning encounter of love, but in waiting, they never came. Till it was way past noon, the tropical sun-scorched, he flipped over on all fours and writhed away, like a blind snake crawling through an expanding meadow of vast mountains, like the sound of a long sigh.

He’s a writer! Because of this absurd, laughable title, he had to replace all his hobbies, all those simple desires recently attained. He danced with every word each day. People look at him with empathy like a psychotherapist would at an ill-mind patient they’ve been treating for a length of time. Liken to keeping criminals in check; mass organisations appointed to watch any strange behaviour which may cause havoc for his community. He lived with endless long lost dreams without an escape. He conversed with each vision, in the death of the body he roamed ceaselessly inside each nightmare. Some nights, he swallowed a whole writer in his dreams!

In the morning, over coffee, he prattled along with his colleagues. Profoundly, he concisely explained compared every word and concept. Enthusiastically he discussed a writer they never met or an award-winning piece they never read. Excited, he exclaimed he’s a poet and philosopher. Gosh, he spoke in a moment inspired possessed, literature here are pens slaved to the institution!

Foaming at the corners of his mouth, he talked about the flow of a composition. Then he would head for home around noon. His child rushed to deliver an invitation from the city police department, “to be clear on the subject matter of your recent work”. At that moment, the pretentious writer spontaneously exited his body and disappeared, left him alone on the side of the road, like the victim of a loan shark. Tomorrow is the last day they’ll visit him. He said to himself: “Hey, a writer is a writer or a writer is not a writer? A writer that looks like a writer plus can a writer be that much dissimilar to another writer?”.

That night, he couldn’t sleep, he couldn’t stop thinking of the next day, of the uncertainties, of all the possible plots of cowardice and revenge drawn out in his imagination. Just before dawn, tired laden with worries he closed his eyes, he ingested the wind in a dream. Morning came, in a new light, gently, he rose and took flight. This wind the colour of white light, like his fateful struggle, took a turn over his familial home then stretched out into the mead, found a way to mount Chư Mang, animated, in delirium and enchanted madness.

On his front steps, the invitation “to be clear on the subject matter of your recent work” laid abandoned, to this day.

September 2018

Nhà văn nuốt

       Buổi sáng trên cao thường chậm chạp. Tiếng ve ngân trong cỏ cứ dài ra mãi, như một tia nắng ban mai xiên ngang vòm cây lá rộng. Gã nằm ngửa nhìn trời và nhai cỏ, vì gã là một con bò. Tối qua gã mơ thấy mình nuốt nguyên con bò sữa vào bụng, sáng nay, gã thấy mình là con bò mắt ướt đuôi dài vú sệ. Gã thấy cỏ thật thơm ngon, những ai chưa thử làm bò chắc chắn phải ghen tị với gã điều này. Không ai cảm nhận được một cách sâu sắc vị cỏ thơm ngon bằng những con bò. Hạnh phúc nhiều khi đơn giản thế thôi. Gã nhăn hàm răng bò tám chiếc đều đặn trung niên ra cười rồi uể oải đứng dậy vươn vai ngáp.

       Ò ò ọ…

       Bạn thắc mắc rằng, có phải đêm nằm mơ ăn phải con gì thì sáng dậy mình biến thành con đó hay không? Việc này gã không thể trả lời được, hãy đi hỏi các triết gia, các nhà văn nhà thơ xông xáo bịa chuyện ở ngoài kia. Gã chịu! Gã chỉ kể câu chuyện riêng tây của mình. Có đêm, gã mơ mình nuốt luôn cả hồ nước vào bụng. Trưa hôm sau, gã thấy mình là một hồ nước mênh mông. Tâm hồn gã trải rộng ra xanh biếc, lặng thinh soi bóng mây trời. Có chú bói cá tinh nghịch từ trời cao bất ngờ đâm bổ xuống. Cảm giác đau nhói ngay lỗ rốn, cả cơ thể xôn xao náo động gợn sóng lăn tăn. Bói cá lại bay đi không hẹn quay về, để lại vết thương ngay rốn nước phập phồng dưới ánh nắng chói chang.

       Gã muốn cất tiếng gọi, nhưng giọng gã bây giờ thầm thì nho nhỏ, như tiếng đuôi cá quẫy bọt long lanh, thổn thức giữa hoang vu. Hồ nước thì làm sao mà gọi được, cho dù vạn lần thương nhớ!

       Đời muôn vàn lẩn thẩn, gã ngao ngán nhìn lại những giấc mơ của mình, hạnh phúc thì ít mà chia ly rượt đuổi thì nhiều. Có khi mơ thấy vác dao chạy đuổi nhau trên vách núi chênh vênh, tỉnh dậy tim đập chân run. Có hôm, mơ giấc mơ quái quỷ. Đó là một đêm bia rượu say mèm, gã để nguyên cả áo quần nằm ngủ, và mơ. Trong mơ, gã nuốt vào bụng cùng một lúc ba thằng lãnh đạo! Sáng ra, gã bật dậy khỏi giường tắm rửa xịt keo nai nịt gọn gàng rồi khệnh khạng bước ra đường. Dáng đi khoan thai đường bệ, miệng mím chặt lại, mắt cương nghị nhìn xa, nhân từ không tả nổi.

       Gã đoán chừng ba thằng lãnh đạo trong cơn mơ tối qua đã thực sự nhập hồn. Gã ra trước quảng trường thành phố đứng, giơ tay cao quá đầu chào mọi người theo đúng mô típ lãnh đạo chào dân, miệng cười hiền hậu. Dòng người đi qua trước mặt giương mắt nhìn gã bằng những ánh mắt hoặc vô cảm, hoặc khinh bỉ, hoặc căm hờn. 

       Ô hay, sao thế nhỉ?

       Có khi gã ngồi im như một đống đất cát vô tri. Gã cố nhớ lại xem thử trong giấc mơ đêm qua mình đã nuốt phải thứ gì? Thứ gì mà đứng im lìm một chỗ, xung quanh cờ xí lập lòe? Thứ gì mà hơi lạnh toát ra như thịt xương phân hủy âm thầm ẩm mốc? Bạn có đoán ra được không? Gã à lên khi nghe mùi tử khí phảng phất quanh mình: Trong giấc mơ đêm qua, gã đã nuốt một cái lăng vào bụng! Bây giờ, gã đứng đó, vuông vức rêu phong, như một chứng nhân, như một thách thức. Bóng gã trải dài, đen sẫm oan khiên trên mặt cỏ mùa thu. Gã nói: “Này, ai kia đang nằm trong lăng ta đó, có nghe chăng lịch sử oán hờn phán xét? Có còn không mùi vị yến tiệc ngút ngàn và mùi thịt da cung tần mĩ nữ, có nghe tiếng quỷ thần hai vai rủa nguyền thảm khốc từ chín tầng địa ngục vọng lên không?”.

       Lăng vẫn kiên gan cùng tuế nguyệt. Gã nghe râm ran vôi vữa tứ bề vỡ vụn trong cơn phân hủy lặng lẽ mang tên lịch sử. Gã nói một mình, rồi cũng có ngày, sẽ đến lượt mày thôi…

       Bạn hỏi, vậy nếu nằm mơ nuốt trọn một con đường thì sẽ thế nào? Thế nào nữa! Sáng dậy gã sẽ vươn vai ngáp và thấy cơ thể mình trải dài ra vạn dặm, chỗ thẳng tắp chỗ cong queo chỗ khúc khuỷu chỗ gập gềnh, chỗ vắng lăng mênh mông, chỗ rầm rập bàn chân đi như mở hội. Gã cảm nhận những bàn chân giẫm lên mình, có bước chân nhẹ như ve vuốt, có bước chân nặng như đeo đá hoặc thoăn thoắt hoặc điệu đàng. Thỉnh thoảng cũng có những kẻ di chuyển bằng đầu gối trên đoạn đường tiến chức thăng quan. Gã, con đường ấy nằm ngửa ra, bâng khuâng đợi một bàn chân nhỏ tìm về, như lần đầu hò hẹn yêu thương, nhưng đợi mãi đợi mãi vẫn không thấy. Cho đến khi quá ngọ, mặt trời nhiệt đới thiêu đốt, gã trở mình quằn quại bò đi, như một con rắn mù bò giữa núi đồi trùng trùng điệp điệp, như một tiếng thở dài…

       Gã là nhà văn! Cái danh xưng nhếch nhác buồn cười ấy, gã phải đổi hết mọi đam mê, mọi ham muốn tầm thường mới có. Gã nhảy múa cùng các con chữ mỗi ngày. Thiên hạ nhìn gã bằng ánh mắt chan chứa cảm thông như bác sĩ tâm thần nhìn con bệnh mãn tính mà mình chăm sóc nâng niu. Các ban ngành đoàn thể cắt cử người theo dõi hành vi lạ lùng có lúc gây hiểm nguy cho cộng đồng của gã, như theo dõi một tội phạm. Gã sống với những giấc mơ dằng dặc viễn miên không lối thoát. Gã trò chuyện với từng giấc mơ, đi biền biệt vong thân trong từng giấc ngủ.  Có đêm, gã mơ thấy mình há miệng thật to và nuốt một nhà văn vào bụng!

       Sáng ra, gã ngồi cà phê phét lác với các đồng nghiệp. Gã phân tích so sánh từng chữ từng khái niệm một cách chặt chẽ, uyên thâm. Gã hăng hái tranh luận về một tác giả nào đấy mà mình chưa hề gặp hoặc về một tác phẩm vừa đoạt giải nào đấy mình chưa hề đọc. Cao hứng, gã xưng là thi sĩ kiêm triết gia. Mẹ kiếp, gã nói trong cơn hứng khởi thần nhập, văn chương xứ này toàn bọn bút nô!

       Gã nói mãi về các trào lưu sáng tác cho đến khi hai cục bọt mép bay lên như bong bóng xà phòng… Gã quay về nhà khi đã xế trưa. Con gã chạy ra đưa tờ giấy mời của công an thành phố, “để làm rõ những nội dung trong những bài viết gần đây”. Đến lúc đó, gã nhà văn phét lác lập tức chui ra và biến mất, bỏ lại một mình gã đứng bên thềm, như một con nợ vay nặng lãi, chỉ đến hạn ngày mai là giang hồ vác dao đến xử… Gã nói một mình: “Ô hay, nhà văn là nhà văn hay nhà văn không phải là nhà văn? Nhà văn giống nhà văn và nhà văn khác nhà văn đến vậy sao?”.

       Đêm đó, gã không ngủ được, gã nghĩ đến ngày mai, nghĩ đến những bất trắc, những mánh khóe trả thù hèn hạ nhất được vẽ ra trong tưởng tượng. Gần sáng, vừa chợp mắt trong mệt nhoài vì lo lắng, gã mơ thấy mình nuốt trôi một cơn gió. Sáng ra, mặt trời vừa nhô lên, gã nhẹ nhàng cất mình lên và bay. Cơn gió ấy màu sáng trắng, như thân phận nhọc nhằn của gã, lượn một vòng trên ngôi nhà thân thuộc rồi vươn dài ra ngoài thảo nguyên, tìm đường lên núi Chư Mang, rạo rực, hào sảng và mê mải điên cuồng.

       Trước thềm nhà gã, tờ giấy mời “để làm rõ nội dung những bài viết gần đây” vẫn còn nằm lăn lóc, cho đến tận bây giờ.


Nguyễn Văn Thiện
Born: 1975
Home town: Anh Sơn – Nghệ An
Master in Comparative Literature and Critical Theories
Currently a high school teacher, and a prolific writer.
Editor of Chư Yang Sin (Đắk Lắk) Art and Literary Journal.

Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.

Wild stallion

A short story in Vietnamese by Nguyễn Văn Thiện
Translator: Nguyễn Thị Phương Trâm
Photography: Nguyễn Thị Phương Trâm 

Wild stallion

I drew a stallion and set it free in the mountains. Before leaving, the stallion turned and reminded me one last time before it left: If you hear neighing from the West remember…! I whipped his butt, rearing back on its hind legs, it was off in a single gallop. On the mountain was a ladder, and on top of the ladder was the moon. The moon was like a mirror made from gold. Looking at the moon, I saw a reflection of the stallion, munching on grass, it was relaxed. The horse’s eyes were full of melancholy being all alone, without company. I’m sure of it. I wanted to draw a white mare to keep the stallion company but changed my mind: What if solitude is the ideal disposition for a stallion. With this thought, I slept peacefully through the winter. Upon my awake from the long sleep, the golden moon was still there on top of the silver ladder, but my friend the stallion was no longer there. In the mirror, remained were the reflections of a pair of sad eyes. Even now, every day, I would try to listen for the stallion’s long neigh.

When there is finally movement in the mead, a hint of spring in the air, our insides feel like it’s on fire. Completely lost of substance, I was an adamant red bouncy ball flying, I was set for the road, and I was ready to go and look for my friend. I shouted for the stallion amongst the endless tithonia and endless reeds: Mate, where are you!

In the middle of the afternoon one day, the silver-grey reeds held onto me asking: Who’s this friend of yours, what does he look like, do you want us to help you find him? I drew a sad pair of eyes inside the palm of my hand and said: My friend has been lost in the mead for a long time now. The reed laughed and released me so that I may be on my way. The streams sang a song filled with encouragement, the clouds rolled enthusiastically as they cheered me on, and I would then continue on my way.

The thousand years old ancient trees one night holding onto me asked: Who is your friend, would you like us to help you look? I drew a golden moon and the silver ladder inside the palm of my hand and said… The ancient trees laughed shaking their head, and let go of my arm so I may leave. Again I was on the road, the mead stretching out endlessly.

Until one day, I stopped by a stream. I can’t remember its name, but the water was clear with lots of bright white pebbles. I settled myself on a boulder and waited. The streamy was idyllic like a young woman running through a field of wildflowers. Joking, I asked: Has the lady seen the gentleman…? The lady shyly smiled. At that very same moment, I saw a lady’s hand, I mean no, my friend’s hand: The wild stallion. Those eyes, you couldn’t mistake it, were in a daze, staring at the mead, never once closing them. I opened my palm, and the eye on my palm was overjoyed, and greeted me. The two eyes moved towards each other, and my friend appeared rearing on his hind legs. The stream teasing, broke out in crisp laughter and bounced away, it was too suddenly lost in the middle of the endless mead.

I chased after them, losing my voice and shouting. My voice carried away by the wild wind, disappeared into the vast wilderness. I had found the other pair of eyes, they were so close, but just like that, they were gone! My heart felt as though it was in someone’s tight fist, with all my might collected what strength I could muster, I chased after them. My arms grew wings as my legs shrivelled up to nothing, I took to the sky flying. My pupils were shrinking, shiny like the eyes of an eagle, gliding across the sky, making one round circle of the area, I tried to search carefully for my friend. Exhausted trying to fight the maddening turbulence in the wind, I rested on the top rung of the silver ladder. The rain turned up without notice, erasing any remaining scents of where it might be. Cold and tired, I had no strength left to call out. An eagle on the ladder nodding off, I was sad and overwhelmed with dejection. Not sure from which village the sound of a gong resounding earnestly. When will I be able to find you, my friend?

Suddenly from within the mountainous wind and rain, I could hear the long neighing. The rain stopped, and the wind eased. The moon awkwardly appeared from behind the bumpy row of mountains, and from it poured brilliant cold rays of light. The mead was as clear as day—the childish river this morning, now an unhappy soulless thread of light. At the top rung of the ladder looking down, I could make out an uncountable number of eyes drifting. The eyes were like leaves, like stars, like wild drifting reeds, floating, comfortable in a river of light at my feet. Falling over, I chased after them salvaging an eye at a time. Where were the sad eyes of the stallion? Where were the heart-drenching eyes of the eagle? Where were the single-lid eyes of autumn I met once along the way searching for my friend? I skimmed the entire area as the light slowly picked up each pair of eyes then I would replace them with another, but couldn’t find my eyes, nor my friend’s eyes, hey wild stallion!

In the overwhelming hopelessness, I let myself fall into the river. The water cold like tiny daggers, like light, dragged us away with the current. Drifting, sometimes above sometimes below the current, passing not sure how many mountains and valleys, fields of wild grass. The eyes were sailing alongside me, in cut-off conversations without a beginning nor an end. There were verses of poetry crumbling on the lips of a reader, someone’s eyes mumbling. The trees looked rough but were full of fragrant perfumes, other eyes followed, and so on and so on. Another pair of eyes riddled with crow’s feet popped up to the water’s surface, in all seriousness: How many people were now lost, still unable to find their way back in time for spring! A crinkling pair of emerald eyes were laughing: In the end, we were all on the same path, in the same direction. Just like that, it went on and on, endlessly. Up high in the sky, the moon continued to shine, a kind of fuzzy blinding light. Kicking, I came to the surface. On both sides of the stream, there was the sound of human feet. They were also moving along, sometimes with deliberation, in a hurry, but sometimes slowly with caution. Now and then someone would stick their hand in the river to search for their eyes.

In the sizeable endless crowd, I saw a glimpse of myself, my friend, the wild stallion, and my family, no one with eyes on their head, always walking onward in a long line, towards the other side of the mountain. The pathway on both sides was overwhelmed with the scent of tithonia.

It was spring.

[October 2020]

Ngựa hoang 

Truyện ngắn Nguyễn Văn Thiện

Tôi vẽ một con ngựa và thả cho nó lên núi chơi. Trước khi đi, ngựa quay lại dặn tôi: Khi nào nghe tiếng hí từ trên ngọn núi phía tây thì bạn…! Tôi quất roi vào mông, ngựa ta lồng lên, phi thẳng. Trên núi có một chiếc thang, trên chiếc thang có một vầng trăng. Vầng trăng như chiếc gương bằng vàng. Tôi nhìn vào gương, thấy bạn mình đang thong thả gặm cỏ. Mắt ngựa rất buồn vì trên ấy không có bạn. Chắc chắn thế rồi. Tôi muốn vẽ thêm một nàng ngựa trắng để cho nó lên núi chơi nhưng rồi lại nghĩ: Biết đâu, cô đơn lại là trạng thái tốt nhất đối với loài ngựa. Tôi bình thản ngủ một giấc thật dài cho đến cuối mùa đông. Thức giấc, tôi vẫn thấy vầng trăng bằng vàng trên chiếc thang bằng bạc, nhưng bạn tôi đã không còn trên ấy nữa. Trong chiếc gương, chỉ còn lại một con mắt buồn chưa khép lại. Bây giờ thì ngày nào tôi cũng lắng tai để nghe một tiếng hí dài, lắng tai nghe mãi.

Khi thảo nguyên trở mình cựa quậy, trời đất sắp sửa sang xuân, ruột gan như có ai đốt lửa. Hoàn toàn mất trọng lượng, tôi trở thành một quả bóng bay màu đỏ lặng lẽ lên đường đi tìm bạn. Tôi gọi giữa mênh mông dã quỳ, mênh mông lau lách: Bạn ơi, bạn đang ở đâu!

Có những buổi trưa lau lách bạc đầu níu tôi lại hỏi: Bạn của bạn là ai, hình dáng thế nào để chúng tôi tìm giúp? Tôi vẽ lên bàn tay một con mắt buồn không khép và nói: Bạn tôi lạc giữa thảo nguyên từ lâu lắm. Lau lách lắc đầu cười và buông tay để tôi đi tiếp. Suối hát một bài hát vui vẻ động viên, mây lượn một vũ điệu vui vẻ động viên, và tôi lại lên đường.

Có những đêm rừng cổ thụ ngàn năm níu tôi lại hỏi: Bạn của bạn là ai để chúng tôi tìm giúp? Tôi vẽ lên bàn tay một vầng trăng bằng vàng trên một chiếc thang bằng bạc và nói… Cổ thụ cười lắc đầu cười và buông tay để tôi đi tiếp. Tôi lại lên đường, thảo nguyên mênh mông.

Cho đến một hôm, tôi dừng chân bên suối. Dòng suối ấy tên gì không biết nhưng nước rất trong và rất nhiều đá cuội, trắng phau. Tôi ngồi bên một tảng đá và chờ đợi. Suối mơ màng như một thiếu nữ dạo chơi giữa bạt ngàn hoa dại. Tôi hỏi đùa: Thiếu nữ có thấy một chàng trai…? Thiếu nữ mỉm cười thẹn thùng. Đúng lúc đó, tôi thấy trong tay cô gái, à không, dưới lòng suối, trên lớp đá cuội trắng phau một con mắt còn lại của tôi, à không, của bạn tôi: Ngựa hoang. Đôi mắt ấy, không thể lẫn vào đâu được, đang mải mê nhìn thảo nguyên, chưa bao giờ khép lại. Tôi xòe bàn tay ra, con mắt giữa lòng bàn tay nhấp nháy vui mừng. Hai con mắt xích lại gần nhau, và bạn tôi hiện ra, tung vó. Suối cất lên một tràng cười lanh lảnh đầy giễu cợt và chảy đi xa hút giữa mênh mông.

Tôi đuổi theo, khản giọng gọi. Tiếng gọi bị gió thổi bạt đi, chìm giữa mông lung đại ngàn. Tôi đã tìm được con mắt còn lại, đã ở rất gần, thế mà! Tim như có ai bót chặt, tôi lồng lên, chạy đuổi theo. Tay tôi mọc cánh, chân co rút lại, tôi bay lên. Đồng tử thu nhỏ lại, long lanh như mắt chim ưng, tôi lượn vòng trên bầu trời hoang vu, tìm bạn. Mỏi mệt trong điên loạn gió ngàn, tôi hạ cánh nghỉ ngơi trên chiếc thang bằng bạc. Và cơn mưa đổ xuống rất nhanh, xóa hết mọi dấu vết. Lạnh, và mỏi mệt. Tôi không còn đủ sức cất tiếng gọi nữa. Con chim ưng đậu trên thang, đầu cúi xuống, buồn bã. Tiếng cồng chiêng không biết từ buôn làng xa xôi nào đã cất lên thao thiết. Biết đến bao giờ tìm được, bạn của tôi?

Đột nhiên, trong gió núi mưa ngàn, tôi nghe thấy một tiếng hí dài. Rồi mưa tạnh, gió ngừng. Vầng trăng từ từ nhô lên sau dãy núi lô xô, chiếu những luồng sáng sắc lạnh. Thảo nguyên trông rõ như ban ngày. Dòng suối ban sáng nhí nhảnh reo vui bây giờ lặng lẽ đi như một dòng ánh sáng vô hồn. Từ trên chiếc thang nhìn xuống, tôi nhận ra vô vàn con mắt đang trôi. Những chiếc mắt như lá, như sao, như cỏ dại bồng bềnh, lờ lững, thong thả đi trong dòng ánh sáng dưới chân. Tôi sấp ngửa chạy theo, thò hẳn bàn tay xuống vớt lên từng ánh mắt. Đâu là con mắt buồn không khép của ngựa hoang? Đâu là ánh nhìn chim ưng rút ruột rút gan của tôi? Đâu nữa chiếc mắt lá mùa thu một mí mà tôi từng gặp trên đường đi tìm bạn? Tôi chạy dọc dòng ánh sáng vớt lên rồi thả xuống rồi lại vớt, nhưng không hề nhận ra đâu là con mắt của mình, đâu là mắt của bạn, ngựa hoang ơi!

Thất vọng tràn trề, tôi buông mình xuống suối. Nước lạnh như dao, như ánh sáng cuốn tôi đi. Tôi vừa đi vừa trôi, lúc chìm lúc nổi, qua không biết bao nhiêu là núi non, bao nhiêu là cỏ dại. Những con mắt trôi bên cạnh tôi, chúng nói với nhau những câu chuyện không đầu không cuối. Có những câu thơ vỡ vụn trên môi người đọc, một chiếc mắt thì thầm. Những thân cây xù xì nhưng bên trong chứa trầm thơm ngát, mắt trôi bên cạnh tiếp lời. Một mắt khác nổi hẳn trên mặt nước, khóe rạn nếp chân chim, thâm trầm: Còn có bao nhiêu người đi lạc, chưa tìm thấy lối về trong dịp mùa xuân! Một mắt khác màu xanh ngọc bích nheo cười: Cuối cùng chúng ta cùng đi về một hướng… Cứ thế, câu chuyện nối tiếp nhau, bất tận. Trên trời cao, trăng vẫn sáng, thứ ánh sáng chói lóa, mù lòa. Tôi quẫy mạnh ngoi lên mặt nước. Dọc hai bên bờ suối, có tiếng bước chân người. Họ cũng đang đi, lúc khoan thai, khi vội vàng, khi dò dẫm. Thỉnh thoảng lại có người quờ tay xuống suối tìm đôi mắt của mình. 

Trong đoàn người vô tận ấy, tôi thoáng thấy tôi, và cả bạn tôi, ngựa hoang, và những người thân của tôi nữa, không có mắt trên trán, vẫn bước đi theo một hàng dài, đi về bên kia núi. Hai bên đường, dã quỳ tỏa hương ngan ngát.

Mùa xuân. 


Nguyễn Văn Thiện
Born: 1975
Home town: Anh Sơn – Nghệ An
Master in Comparative Literature and Critical Theories
Currently a high school teacher, and a prolific writer.
Editor of Chư Yang Sin (Đắk Lắk) Art and Literary Journal.

Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.

Waiting for them

A short story in Vietnamese by Nguyễn Văn Thiện
Translator: Nguyễn Thị Phương Trâm 
Art: Đinh Trường Chinh

WAITING FOR THEM

Entirely obedient, we searched for a grove to hide. They will turn up, today, it was what we believed. I shoved the whole piece of bread into my mouth, swallowed it quickly as I ran after my father. Leading us was my father, like a scuttering old hen. I asked my father: “Who’s coming?”. He replied: “Them!”. I don’t know who they might be, but here, we’re afraid of them. The terrified look in our eyes spoke louder than words. When everyone had already found a place to hide, I, my father and my brothers were just leaving. We were anxious, they shouted nervously: “Quick, hurry up, no one’s that slow!”.

We found a small grove to hide in in the end. It was a beautiful autumn morning. Through the canopy, the sky looked as though it was painted with vivid blue ink. A spotty green grasshopper perched between the leaves in front of my face, on its head were these tiny quivering antennas. My little brothers, one on each side of me, both were too scared to even breathe. Only the spotty grasshopper had no fear, it looked as though it was singing. I asked my father quietly: “Father, where are they?”. 

They didn’t show up, for the entire day no one came. The air was as silent as death. The leaves began to quiver with the renewed chatter. A few heads could be seen popping in and out from between the dense shrubs. Someone said: “Maybe they’re not coming!”. I could hear someone chewing so loudly it caused my stomach to rumble, but I was too scared to complain to my father. A bird mid-flight plopped a pile of its excrement on the canopy. The white shit incidentally painted a human face on a leaf. The face had toothless grinning, a ridiculously pale face plastered on a fresh green leaf that shimmered in the afternoon light. In a passing breeze, the image shifted visibly, an expression of complete seriousness replaced the jovial face.

Night fell on the feral unknowing tree groves, a cover for a bunch of people. The night was gradually cooler, but we were all too afraid to light a fire, we were afraid the fire would attract them. In pitch-black darkness, with my hands feeling the ground around me, I tried searching for my father and brothers, but they were gone. Where did they go and when, I didn’t know, but I was still too scared to crawl out from the shrubs even though I was starving. Suddenly, my nose was so itchy as though some insect had managed to crawl up my nostrils, I sneezed continuously. Next thing I knew someone grabbed my arm and shoved something in my hand. My father whispered: “Eat this, for that grumbling tummy of yours!”. Not even knowing what it was I shoved it straight into my mouth, chewing audibly. It could have been a raw piece of potato, guava or fig. A bit sweet, sappy, and I chewed and swallowed it eagerly. Chewing, breathlessly I asked my father: “Where are my little brothers?”. My father replied softly, his words choking in his throat: “They’ve moved to a nearby shrub”.  

I’m asleep amongst the shrubs, woke up amongst the shrubs, just like that, day after day. Now and then my father would manage to salvage something edible, with a gulp of water, that was how I survived to this day. They were yet to arrive. In the surrounding shrubs, it was much the same, people ate, slept and got on with their lives amongst the shrubs. One day, then two days, we all got used to it. I came up with the idea of digging a deep hole so we can all pee and relieve ourselves as needed, then fill it up, cover it with leaves.

A couple of times I would wake up in the middle of the night, but this time I found a stranger next to me. “Can I stay with you” – the stranger quietly pleaded – “there’s no other shrub left!”. I asked: “Where are you from?”. “From the village” – the stranger replied, a little less shy. It was a girl, her voice clear, kind and sweet. Naturally, as a reflex action I would have stood up straight away, but after so many days either laying down or on my knees, my feet were like jelly, all wobbly. I could not rise further than my knees, my arms raised in front of me, not sure why. The young woman grabbed my hands, her hands were soft, gently she pulled me down. “Sit” – she said quietly – “they’re nearly here!”. The scent of the young woman overwhelmed my tiny familiar grove of trees. My fears were somewhat suddenly lighter. Perhaps they will come. The four hands held onto each other, locked tighter onto each other. We stared into each other’s eyes for a moment, as though it was something preordained, two pairs of teardrops rolled slowly down the two pairs of cheeks, two pairs of tears shattered on two pairs of youthful knees. We grabbed hold of each other, groaning through the deep darkness beneath the canopy.  

I don’t know what my father gets up to, but after a few days he would turn up. Father announced, I still need to feed your little brothers. I asked my father, how are my brothers? My father answered as a matter of fact, they’re okay! Then he would again crawl his way through the shrubs and left. Out of nowhere, my companion announced: “Let’s get married!”. Gosh, why would anyone want to be married in the trees? Why would anyone want a union in such a cramped dark gloomy place? What if they turned up all of a sudden, what would happen to our children? So what if they did, we’ll take it as it comes, my girlfriend had already made up her mind. Then there we were suddenly, husband and wife, with no ceremony, no gifts or offerings, nor were there any outwardly spoken vows. To us, in each other’s arms in this particular tree grove, we were less afraid, sharing what bit of warmth we had was a gift, it was enough for both of us. We slept with each other like a pair of beggars in a hovel, with no blanket, no mats. The soil embedded in our backs, the shrub shifting next to us. Sometimes I would part the leafy shrubs, to take a look beyond our patch of earth, they were yet in sight!

Then came our first child. His brilliant cries broke the silence beneath the dense canopies of the grove, even the leaves were excited. My wife wiped off the sweat on her brow and looked at the both of us, like sunshine was the smile on her face. I gather the child in my arms, as precious as any newfound treasure. There, all of a sudden, I had a perfect family, inside the tree grove, while they were yet to appear. 

The first words our child learned and uttered were to ask: “Where are they?”. I didn’t know how to answer him, so I looked at my wife pleadingly for an answer. My wife would busy herself by quietly combing her hair. Her eyes now and then would swell up. Above our head, the wind played with the clouds, a bird flew by, the leaves rustled, a dotty grasshopper sang, buzzing away as though nothing was amiss. I would lie on my back to watch the sky through the gaps in the trees. Being in fear for so long I’d never taken note of it, but now I could see that the trees looked a lot like them! Hang on, why is that? Or are they using the trees as their disguise? It’s very possible, many have used leaves and trees as their camouflage, not just the one person but entire battalion of soldiers. They use leaves to cover their heads, chests, and their back. Once the enemy was deceived, they win. If this is true, then we’re in a bad situation indeed: We have been completely surrounded! We’re so full of ourselves, that we decided we would stay, comfortable enough to get married, have children, we’re recklessly fearless!

I was suddenly as confused as the very first moment my family ahd stepped into the trees. A gust of wind arrived in due course, twisting the branches, as though it was the arrival of a battalion of soldiers. They have turned up to torture us until we are at the brink of death. But what have we done to deserve such punishment! My father is a hard-working farmer, our lives revolved around potatoes and yam. I said to my wife: “What if we can’t escape!”. My wife was so frightened, she didn’t answer. While our child, learning to talk, was chattering on and on about something nonsensical. He grabbed the spotty grasshopper laughing, excitedly sang: “The sky is l..l.lue there too a grasshopper…”. Gosh, child, there was plenty of time for singing. Why are you singing when we’re threatened, in danger. stop talking, stop singing! My wife took our child into her arms, shoved a dummy into his mouth, so he could stay quiet. Out there, the trees and shrubs intimidatingly shifted.

And amongst the battalion of people in camouflage, my father came home. He could no longer walk, he crawled around close to the ground like a crocodile. He mumbled: “I’ve seen them, for real, I’m not kidding!”. I asked: “What were they doing father?”. My father did not answer, he continued: “Get me some water, I’m thirsty, and starving!”. I didn’t have water, I didn’t have any food, I didn’t know what to do. For a long time now, whatever we could get our hands on we ate, sometimes it’s an insect of some sort, grass, or tree root, we ate to just survive the day. We do nothing all day, so why would we need to eat or drink! My wife whispered firmly into my ears, bring me a leaf and fold it into a funnel! What for? My wife, annoyed, snapped – give it to me, and ask if my father could turn the other way! Shocked, when it dawned on me what she was about to do. But I stayed quiet, didn’t say a word. My father licked every drop of the murky white liquid collected in the leafy funnel that my wife had just extracted, then he fell asleep. It was my son’s breast milk!

My father woke at the very end of the afternoon. Still on his stomach, like a reptile, he said: “Try and make something of your life, your little brothers are now gone, I’ve lost track of them, I don’t know if they are dead or alive. I’ve crawled through every tree, shrub and bush around here and I can not find them. I’m tired!”. His words were defeating, they dissipated in silence. My father’s shrivelled up form quickly deflated in mere moments. We buried him when it was finally dark. I dare not light a single incense for my father, just in case they may catch sight of it. My son was fast asleep. The tears poured out of me but I did not cry. Husband, you’re a coward! Your father just died, and you refused to light not even an incense, is this how a son repays his father, how could there be anything sadder than that! In the pitch-black darkness, the wind continued to belt out its arrogant fearless, intimidating anthem. Through my locked jaw, through my grinding teeth I said: “Yes, what are you going to do…”. I got up, flicked a match, lit the single incense, pinned it on my father’s grave, still overwhelmed with the scent of freshly turned soil. 

The flame ignited brightly, red like the eyes of a drunk, rolled across the moonless wintry field.

And they have not turned up … 

[January 2021]

ĐỢI CHÚNG NÓ

Truyện ngắn  Nguyễn Văn Thiện

Hoàn toàn bị động, mỗi người tìm cho mình một bụi cây để trú ngụ. Chúng nó sẽ đến, ngay trong ngày hôm nay, ai cũng tin như thế. Tôi nhét luôn miếng bánh vào miệng, nuốt đánh ực và chạy theo cha đi trốn. Cha tôi, như một mụ gà mái lục tục dắt chúng tôi đi. Tôi hỏi cha: “Ai đến?”. Cha nói: “Chúng nó!”. Chúng nó là ai, tôi không biết, nhưng tất cả chúng tôi ở đây đều sợ chúng nó. Những ánh nhìn khiếp đảm nói lên điều đó. Trong khi ai nấy đã chọn được chỗ ẩn nấp thì cha con tôi vẫn dùng dằng dắt díu nhau trên đường. Mọi người sốt ruột, có người đã không chịu nổi, rít lên: “Nhanh nhanh nấp đi, sao chậm thế!”.

Cuối cùng thì chúng tôi cũng nấp được vào một bụi cây. Ấy là vào một buổi sáng mùa thu trời rất đẹp. Tôi nhìn qua kẽ lá thấy trời xanh như đổ mực. Con châu chấu màu xanh chấm bi nằm trên kẽ lá rung rung đôi râu nhỏ xíu trên đầu. Bên cạnh, hai thằng em tôi không dám thở, chúng sợ. Chỉ có con châu chấu chấm bi là không biết sợ, hình như nó đang hát. Tôi hỏi nhỏ trong hơi thở: “Chúng nó đâu, cha?”. 

Suốt cả ngày hôm đó, chúng nó không đến, không có ai đến. Không gian yên tĩnh như đã chết. Trong một vài bụi cây, đã có tiếng người thì thầm nói chuyện, những bụi cây rung lên. Vài cái đầu thò ra rồi lại thụt vào. Có tiếng ai nói: “Có lẽ chúng nó không đến!”. Có tiếng ai nhai rau ráu, tôi thấy đói bụng, nhưng không dám nói với cha. Con chim bay ngang qua trên bầu trời, thả xuống một bãi phân trên lùm cây. Bãi phân trắng hếu tình cờ vẽ trên chiếc lá xanh hình một khuôn mặt người. Khuôn mặt trắng loang lổ với cái miệng cười không răng xanh mướt trong bóng chiều chập choạng. Làn gió thổi qua, chiếc lá chao nghiêng, gương mặt trở nên nghiêm nghị khác thường.

Rồi bóng đêm đổ xuống, trên những vạt cây hoang dại chứa đầy người bên trong. Đêm lạnh dần, nhưng không ai dám đốt lửa, họ sợ, thấy lửa chúng nó sẽ đến. Tôi quờ tay tìm cha và hai thằng em nhưng không thấy. Họ biến đi đâu từ lúc nào? Tôi không dám bò ra khỏi bụi cây dù bụng đã đói cồn cào. Tự dưng, mũi bị ngứa như có con gì đó bò vào, tôi hắt hơi liên tục. Bỗng có một bàn tay nắm lấy tay tôi, rồi có một cái gì đó nhét vào tay. Tiếng cha thì thầm: “Ăn tạm đi đỡ đói!”. Tôi bỏ ngay vào miệng nhai rau ráu, không rõ đó là thứ gì. Có thể là củ khoai sống hay quả ổi quả sung cũng nên. Ngòn ngọt, chát chát, tôi nuốt ngấu nghiến. Tôi vừa nhai vừa hỏi cha, giọng phều phào: “Các em con đâu?”. Cha nói nhỏ: “Chúng nó tản qua các bụi cây khác rồi”. Trong tiếng nói của cha, có cái gì đó nghèn nghẹn.

Tôi ngủ trong bụi cây, thức dậy cũng trong bụi cây nốt, ngày nọ qua ngày kia nối tiếp nhau. Thỉnh thoảng cha đem về một thứ gì đó ăn được, với một ngụm nước, tôi sống hết ngày. Chúng nó vẫn chưa đến. Trong những bụi cây xung quanh mọi chuyện hình như cũng tương tự, người ta ăn ngủ sinh hoạt trong đó, một ngày, hai ngày, rồi cũng thành quen. Tôi nảy ra sáng kiến đào một cái lỗ sâu rồi đi tè vào đó, bí quá, vệ sinh cũng vào đó, rồi đậy lại, hái lá lấp lên trên.

Sau một lần ngủ dậy, tôi quờ tay qua bên cạnh và chạm phải một người lạ. “Cho tui trú với” – người lạ thì thầm – “thực ra là không còn bụi cây nào nữa!”. Tôi hỏi: “Bạn từ đâu tới?”. “Trong làng ra” – người lạ trả lời, giọng đã rõ ràng hơn. Đúng là giọng con gái, trong, ngọt dịu dàng. Một phản xạ tự nhiên, tôi định đứng dậy, nhưng suốt mấy ngày nằm và quỳ, chân tôi mềm nhũn. Tôi dừng lại ở tư thế quỳ, hai tay đưa ra trước mặt, cũng không biết là để làm gì. Cô gái đưa tay ra đỡ lấy tay tôi, mềm mại, nhẹ nhàng. “Ngồi xuống đi” – cô gái nói – “chúng nó sắp đến đấy!”. Tôi nghe mùi hương thiếu nữ tỏa ra trong lùm cây quen thuộc. Tự dưng thấy bớt đi phần nào sợ hãi. Có thể rồi chúng nó sẽ đến. Bốn bàn tay tìm nhau, bóp chặt. Chúng tôi nhìn thật lâu vào mắt nhau, và như có hẹn trước, bốn giọt nước mắt từ bốn khóe mắt từ từ lăn xuống, vỡ tan tành trên bốn đầu gối thanh tân. Chúng tôi ôm chặt lấy nhau, rên xiết trong bụi cây tăm tối. 

Rồi cha đi đâu có khi vài ngày mới trở lại. Cha nói, còn phải kiếm thêm cái ăn cho hai thằng em mày nữa. Tôi hỏi cha, chúng nó thế nào? Cha bảo, cũng tàm tạm! Rồi cha lại bò đi giữa các bụi cây. Đột nhiên, cô bạn đưa ra đề nghị: “Có khi chúng mình nên kết hôn!”. Trời, ai lại đi kết hôn trong một bụi cây? Ai lại lấy nhau trong một không gian chật hẹp tối tăm thế này? Lỡ chúng nó lại đến, bất ngờ, những đứa con chúng ta sẽ ra sao? Kệ, đến đâu hay đến đó, bạn gái tôi cả quyết. Thế là chúng tôi thành vợ thành chồng, không lễ lạt cưới xin hay thề thốt hương hoa. Với chúng tôi, ôm nhau trong bụi cây này, truyền cho nhau một chút hơi ấm để bớt đi nỗi sợ, thế là đủ. Chúng tôi ngủ với nhau như cặp cu li ngủ đông, không chăn nệm, không giường chiếu. Đất lún sâu xuống dưới lưng chúng tôi, bụi cây nghiêng ngả bên cạnh chúng tôi. Lâu lâu tôi vạch lá nhìn ra ngoài, chúng nó vẫn chưa đến!

Và rồi, đứa con đầu lòng ra đời. Tiếng khóc của nó vỡ òa rạng rỡ dưới vòm lá xôn xao. Vợ tôi vuốt mồ hôi, nhìn hai chúng tôi, cười như nắng. Tôi ôm lấy hình hài bé nhỏ vào lòng, nâng niu báu vật. Thế là tôi đã có một gia đình hoàn hảo, trong bụi cây này, trong khi, chúng nó vẫn chưa đến. 

Cho đến khi con tập nói, câu đầu tiên, con hỏi: “Chúng nó đâu?”. Tôi không biết trả lời con như thế nào, nhìn sang vợ cầu khẩn. Vợ tôi đang bận chải đầu, lặng im. Mắt nàng mọng lên. Trên đầu chúng tôi, gió đuổi mây bay, con chim bay qua, lá xanh cựa quậy, con châu chấu chấm bi vẫn hát ri ri như không có chuyện gì sắp sửa xảy ra. Tôi nằm ngửa nhìn trời qua kẽ lá. Bấy lâu, do hoảng sợ nên không để ý, giờ tôi mới thấy, những bụi cây có hình hài rất giống chúng nó! Ơ hay, tại sao? Hay chúng nó biết lấy lá cây để ngụy trang? Có thể lắm, nhiều người đã từng dùng lá cây ngụy trang, không phải một người mà là cả một đoàn quân. Họ lấy lá che đầu, che ngực, che mông. Cuối cùng, khi kẻ thù bị đánh lừa, họ xông lên và trở thành người thắng cuộc. Nếu đúng thế thì tình trạng của chúng tôi đang rất xấu: Đã hoàn toàn bị bao vây! Vậy mà chúng tôi dám ở đây, ung dung lấy vợ lấy chồng sinh con đẻ cái, quá liều mạng!

Tôi bắt đầu hoang mang lại từ đầu. Gió từ đâu thổi bạt qua, vặn vẹo những lùm cây. Tôi tưởng cả đoàn quân đang nhất tề đứng dậy bắt chúng tôi mà ngấu nghiến hành hạ cho đến chết. Mà nào chúng tôi đã gây nên tội tình gì! Cha tôi bần nông, đời chúng tôi bần cùng khoai với sắn. Tôi nói với vợ: “Có khi, chúng mình không còn lối thoát!”. Vợ không trả lời, có lẽ là vì quá sợ. Trong khi đó, đứa con tập nói vẫn bi bô. Nó thò tay bắt con châu chấu chấm bi và ngọng líu chuyện trò, cao hứng, nó hát nhặng xị: “Trời màu hanh có con trâu trấu…”. Thôi con ơi, thiếu gì lúc, tại sao con lại chọn lúc hiểm nguy này để tập nói với tập hát! Vợ ôm con vào lòng, nhét vú vào miệng nó, nó mới im. Ngoài kia, những bụi cây vẫn rung rinh, chập chờn dọa dẫm. 

Và giữa đoàn người ngụy trang bằng màu xanh đầy nguy hiểm đó, cha tôi trở về. Ông không bước đi được nữa, mà bò sát trên mặt đất như một con cá sấu. Cha thầm thì: “Tao đã thấy chúng nó rồi, rõ lắm, không phải đùa đâu!”. Tôi hỏi: “Chúng đã làm gì cha?”. Cha không trả lời, nói: “Cho tao hớp nước, khát lắm, đói nữa!”. Tôi không có nước, không có cơm, biết lấy gì cho cha đây? Lâu nay, được chăng hay chớ, lúc vớ được con côn trùng, lá cỏ hay rễ cây gì chúng tôi ăn tạm qua ngày. Chúng tôi có làm gì đâu mà phải ăn uống nhiều! Vợ bảo, anh lấy cái lá gấp lại đưa đây cho em! Để làm gì? Vợ gắt, đưa đây, rồi bảo cha quay mặt đi nha! Tôi giật nảy mình, hiểu ra vấn đề. Nhưng tôi im, không nói gì. Cha liếm những giọt nước màu trắng đục trên lá cây vợ tôi vừa vắt ra, xong rồi chìm luôn vào giấc ngủ.  Đó là sữa của con tôi!

Cuối buổi chiều, cha tỉnh lại. Vẫn nằm úp xuống với tư thế của loài bò sát, cha nói: “Con cố mà sống, các em của con lưu lạc hết, không biết là còn sống hay chết rồi. Cha bò khắp các bụi cây trong vùng đi tìm nhưng không thấy chúng nữa. Cha mệt quá rồi!”. Tiếng cha tắt lịm. Cái thân thể còm cõi của cha xẹp xuống rất nhanh. Chúng tôi chôn cất cha vào lúc trời tối. Tôi không dám thắp nhang cho cha, vì lỡ chúng nó nhìn thấy. Con đang ngủ rất say. Nước mắt tôi chảy dài nhưng tôi không khóc. Mình hèn quá! Thằng con trai không dám thắp nhang cho cha đẻ của mình khi ông lìa đời, còn gì tệ bằng? Trong đêm đen, gió vẫn say sưa bài ca kiêu hùng, dọa dẫm. Tôi nghiến răng: “Ừ, thì chúng mày muốn làm gì tao…”. Và tôi đứng thẳng dậy, bật lửa lên, thắp một que hương, cắm lên ngôi mộ vừa mới đắp xong còn thơm mùi đất mới. 

Ngọn lửa bùng lên như mắt người say rượu, lăn tròn trên đồng cỏ mùa không trăng.

Chúng nó vẫn chưa đến …


Nguyễn Văn Thiện
Born: 1975
Home town: Anh Sơn – Nghệ An
Master in Comparative Literature and Critical Theories
Currently a high school teacher, and a prolific writer.
Editor of Chư Yang Sin (Đắk Lắk) Art and Literary Journal.

Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.

April

A short story in Vietnamese by Nguyễn Văn Thiện
Translator: Nguyễn Thị Phương Trâm
Art: Đinh Trường Chinh

April

April begins in the garden under an eclipse, through the immersing sounds of cicadas from within the heart of people. The poets continued to smile, grinding down the words in their poems, the self-absorbed writers reserved in their minds the convoluted plots and desperate shredded ideas. The self-serving autocrats with their hands in each other’s pockets were pleased with themselves.

April begins with the drooling of an arrogant battalion spitting at a red hot summer far and beyond. A friend, in a moment of thoughtful brilliance, composing poetry with the intention of killing himself. But did not succeed! Because the dictators after patting themselves on the back came to the humiliating conclusion that in this world, no one could escape being discovered when they only think about themselves!

April would begin like a fish waving its tail to welcome the summer…

April begins with a communal procession of the dead. When the last drop of water in the mead disappears, it’s when the delusions begin to appear. Like a mirage that appears out of nowhere, the sheep obediently chew on the grass at the side of the road, proudly in rows, in their suits and ties, ready for the commemorations. It was not long before a sea of people-like waves would indiscriminately overwhelm everything. The craziest of ideas exploding spread like wildfire during the dry periods. All thought they were above the other or higher, atop the trees. So much so that some thought they were flying above humanity, in pairs of redwings, made from cilium and bird feathers. 

The entire crowd was deranged, no one bothered to ask themselves, how were they going to safely land after all that.

April begins with the excavation of the deep dark crevices that could never be whole again. The crowds on this side shouted at the crowd on the other side, back and forth, the chaotic racket waiting for the return of a hot sunny April with the Sun high up in the sky. Humiliating, pointing out each other’s faults… Once upon a time, swearing and insults were resolved with artillery, obliterating flesh and bone. Now these deep crevices are unseen by most people, but there they were from the very bottom of those dark pits trying to shed light, the fissures, they were fully aware of their power in the divide.

It’s not the Lam river, not the Gianh river, not Bến Hải, not some kind of river with two sides, but despair at the heart of humanity, in angry waves, over the deep moats, over the fortification of the hoe and hacksaw, to prove that they’re on the winning side, flying over the top of humanity with cilium and bird feathers not the fresh blood of our fellow citizens…

April begins with a rather strange record: More than three million butterflies turned up at the top of Mount Chư Mang! Something that has never happened before. In the middle of the day in the steaming burning sunlight, the butterflies of all shapes, sizes, and colours overwhelmed the mountain like tidal waves after an earthquake. Attracting them was a halo in seven brilliant shades. The swarms of butterflies were drawn towards it by some kind of transcending power at the peak of summer. The sounds of singing blended in with the laughter and tears, the sounds of feet rubbing against each other, the rustling sounds of lazy falling broken wings. The nymphs, exhausted, lay scattered along the side of the road, they couldn’t take their sad eyes off the old butterflies drifting in waves across the spine of the lush green mountain…

April begins with the tired hearts learning how to spell happiness. The passing rain in dreamy sketches of the mountains and rivers, the image of a familiar yet unfamiliar face, not of yesterday nor exactly the face of tomorrow. In the minutes before the sunrise was a change of heart, at the point of the return of the wind, there were these turns of events. Adding an accent you might end up with a cool game of hiding and seeking, adding a full stop meant the end of someone’s marriage, the absence of accents meant someone else’s husband, the punctuations belonged to no one… Why isn’t April a certainty like the wind, not fragrant like the streams high up the mountains, not a clear affirmation of the simplicity of such truths like if we were to walk we would then reach our destination, the cool summer rain always in front of us? Why must we wander around deceiving the deep dark holes, turning them into tall walls of roundabout vows and promises?

At the end of April, the end of the horizon, a storm is brewing, and there is a hoarding of knives and swords, weapons ready for an expedition of blood and bone in the river? Why would there be within the exodus of butterflies the warning signs of such a strange turn of events…

Eventually, all will be gone, the sea of crazy people, dictators, arrogant army men, even the festive sounds of cicadas, the hiding and seeking of happiness, all shall be no more, as the seasons follow one after the other, leave, be then be no more.

[October 2020]

Tháng Tư

Truyện ngắn Nguyễn Văn Thiện

  Tháng Tư bắt đầu bằng tiếng ve rộn ràng trong những tâm hồn và khu vườn u tối. Các nhà thơ lại tiếp tục bỏ thơ vào cối giã, các nhà văn ưa triết lý vụn vặt và xây dựng những cốt truyện lộn lèo lại hào hứng vung tay. Các nhà độc tài lại đút tay vào túi quần tay nọ bắt tay kia xoa xoa tự sướng.

Tháng Tư bắt đầu bằng một bãi nước bọt của bọn kiêu binh nhổ vào mùa hè đỏ lửa còn đang nằm chờ phía trước. Bạn của ta, trong một phút huy hoàng sáng chói của tư duy đã lao đầu vào thơ định tự sát. Nhưng rồi bạn sẽ không chết, đương nhiên! Vì các nhà độc tài sau khi xoa tay tự sướng thì bỗng bẽ bàng nhận ra rằng, thế giới này không có ai lại tự nâng bi của mình mà không bể! 

Tháng Tư mới chỉ bắt đầu như chú cá quẫy đuôi trước cửa mùa hè…

Tháng Tư bắt đầu bằng những cơn lên đồng tập thể. Khi giọt nước cuối cùng trên thảo nguyên biến mất, là lúc những cơn hoang tưởng vừa xuất hiện. Như một phép màu được thực hiện cùng lúc trên bầy cừu đang ngoan ngoãn bên lề đường gặm cỏ, bỗng nhiên áo mũ xênh xanh thẳng hàng thẳng lối như đang tham dự một lễ diễu hành tưởng niệm. Thoáng chốc, biển người đã như sóng trào dâng cuồn cuộn. Những ý tưởng điên cuồng nhất được dịp bùng phát dữ dội, như đám cháy rừng mùa nắng. Ai cũng tưởng tượng ra rằng mình đang ngồi trên đầu người khác hoặc đang ngồi cao trên tít tắp ngọn cây. Thậm chí có người đinh ninh rằng mình đang bay trên đầu nhân loại, bằng đôi cánh màu hồng, bằng lông mao lông vũ của loài chim.

Cả một đám đông loạn não, không một ai nghĩ rằng, rồi đây, bằng cách nào, mình sẽ hạ cánh an toàn…

Tháng Tư lại khởi động những hố sâu thăm thẳm không thể nào hàn gắn. Đám đông bên nọ réo gọi đám đông bên kia mà chửi và ngược lại. Những âm thanh cuồng loạn âm ỉ chỉ đợi tháng Tư về nắng cháy lại vút lên cao. Làm nhục nhau, kể tội nhau, lêu lêu nhau… Có một thời, tiếng chửi bới, tiếng lăng mạ đã trở thành bom đạn nát thịt tan xương. Bây giờ, có vẻ ít người nhìn thấy hố sâu, nhưng từ tận cùng sâu thẳm dõi lên, hố sâu biết rất rõ khả năng ngăn cách của mình.

Không sông Lam, không sông Gianh, không Bến Hải, không phải con sông hai bờ nào hết, mà chính là lòng người trong giờ phút điên cuồng nhất, đã gọi về sóng dữ, gọi về hào sâu, gọi về những lưỡi cuốc lưỡi mai công sự, để chứng minh bằng được mình đang ở phe thắng cuộc, đang bay trên đầu nhân loại bằng lông mao lông vũ của loài chim chứ không phải bằng máu tươi đồng loại…

Tháng Tư lại bắt đầu bằng một kỷ lục lạ lùng: Hơn ba triệu cánh bướm đồng loạt vỗ cánh bay lên đỉnh Chư Mang! Chuyện chưa từng xảy ra, người già nhất cũng chưa từng được thấy. Giữa cơn nắng cháy khét mù trời, cơn bão bướm đủ màu sắc và hình dạng nô nức tràn lên như sóng thần sau động đất. Trên đỉnh núi xuất hiện quầng sáng sặc sỡ bảy màu mời gọi, níu kéo. Lũ bướm bay theo một lực hút bí ẩn nào đó giữa đỉnh trời mùa hạ. Tiếng hát chen tiếng cười hòa vào tiếng khóc, tiếng chân va nhau, tiếng cánh rụng lông rơi lả tả. Bọn bướm non mệt lả, nằm lại thoi thóp bên đường, rên rỉ nhìn theo lũ bướm già đang tràn lên vách núi màu xanh…           

Tháng Tư bắt đầu với những trái tim mệt mỏi nằm im tập đánh vần một bài học về hạnh phúc. Cơn mưa thoáng qua vẽ lên núi lên sông những nét mơ hồ về một gương mặt nào đó không quen không lạ, không phải của hôm qua cũng chưa chắc đã mai sau. Chút nữa nắng lên sẽ thay hình đổi dạng, mai kia gió về sẽ bãi bể nương dâu. Bỏ dấu huyền vào sẽ là trò trốn tìm thú vị, dấu nặng vào sẽ là của người ta, thêm dấu ngã nữa là vụn vỡ, không dấu không thanh cũng không phải của mình…Vì sao tháng Tư không an nhiên như gió, không thơm lừng như suối trên núi cao, không minh định rõ ràng những chân lý giản đơn rằng cứ đi rồi sẽ đến, rằng phía trước là cơn mưa mùa hè mát rượi? Sao cứ phải quẩn quanh dối lừa hố sâu thành cao hứa hẹn vòng quanh?

Cuối tháng Tư, chân trời xa đang ủ giông ủ gió, đang tích tụ gươm đao để tiếp tục cuộc viễn chinh bể xương sông máu? Sao trong cánh bướm thiên di đã ngấm ngầm báo động những thay đổi lạ lùng…

Rồi cũng sẽ ra đi hết thảy, những biển người loạn não, những gã độc tài, những đứa kiêu binh, cả tiếng ve rộn rã, cả trò trốn tìm hạnh phúc, tất cả rồi sẽ ra đi, cho mùa nối tiếp mùa, đi mãi.


Nguyễn Văn Thiện
Born: 1975
Home town: Anh Sơn – Nghệ An
Master in Comparative Literature and Critical Theories
Currently a high school teacher, and a prolific writer.
Editor of Chư Yang Sin (Đắk Lắk) Art and Literary Journal.

Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.

burying nothing

A short story in Vietnamese by Nguyễn Văn Thiện
Translator: Nguyễn Thị Phương Trâm 
Photography: Nguyễn Thị Phương Trâm

BURYING THE NAUGHT  

I’m too scared to climb that mountain, I’ve even forgotten its name, those things up there, I’ve already forgotten their names, the words not worthy of mention. I returned home to amuse myself alone. I drew a huge zero on the wall, then 7 steps backward, pulled my gun aimed to shoot. Into the zero, I shot, in the middle of the bulls-eye. Before shooting, I read the order of execution. It nodded in acceptance of the crimes, a pitiful sight.

           In the judgment, I said: “You, you’re the numeral 0, correct, your crime is nothing at all, correct?”.

           It quietly sobbed. 

“I’ll allow you a last request, speak!”.

It remained silent.

Coldly I squeezed the trigger.

The bullet landed in the middle of its black heart, creating a hole. That’s the end of your life, the unjustified numeral 0.

From the hole, the wind rushed through from the outside. I turned white; maybe it’s been wronged?

The wind was black in a twister. It was a fit of nature, a tornado. It hissed up the cabin wall, ripped across the ceiling, digging into the floor, crazy. I cowered in a corner, eyes closed, ears covered, grinding my teeth. My life, though has been much, has never encountered such a terrifying storm, yet in this tiny room, next to the body of 0 on its last breath. Why?

I thought hard; mistakes began from when? And from where came the black wind? I asked the white mist: “ What can I do?”. The mist didn’t answer and continued to float around the room. I screamed amidst the gale and violent wind: “Just stop, stop moving!”. It kept its way, in a circle. I thought, in the wind, in the gale; one thing is definite, I must bury the body.

In the most confounding moment, my father appears. When my father came into the room was unclear. Father said: “This storm is the end of the world!”. I turned to look at my father, but it was now just a white skeleton?

Amongst the chaos, I kicked down the door to escape. Outside heaven and earth remain harmonious and peaceful like a hymn. Strange right?

           Immediately, I began to suspect heaven and earth. How could they remain peaceful, when in my home there was a violent storm? I also imagined the glorious hymn that had brought joy to that earth and sky, how could there be green trees and flowers, while bouts of the black wind invade my shelter?

I consoled myself: relax, calm down, it started from where? Right, it started at 0, an apparently dead body.

           The neighbours rushed over to watch like they were watching someone having a seizure. Sheepishly I laughed like I did something wrong: “I must bury this body!”. They broke out in laughter: “There’s nobody, what body?”. They couldn’t see the sizable dead body nor the white skeleton lying in the middle of the yard. My next-door neighbour looks at me full of compassion: “Yeah, quickly bury it, before it deteriorates!”. Then he scoffed loudly and left.

It turns out, what I could see, doesn’t necessarily mean all could, what most of those who stood for the truth, could see. Whether my next-door neighbour was sincere or joking, I started to smell the decay, and I had to bury the body.

I made up my mind to bury it.

A real burial.

I rolled up my sleeves, dug a grave in the middle of the yard, inside, the wind continued its turns. I spat into my hand like a professional grave digger and said: “Hey 0, I know you’ve been dead for a while, I’m going to bury you now so that you can be at peace!”.

           Now all is done, no dead body, no white skeleton. The house returns to its original tranquillity. Now in this calm, can we possibly acknowledge this folly, that a zero can cause so much anxiety? People can’t see it because it is the numeral 0. In reality, its presence – face, nothing – at all. When the truth is nothing – at all, it can still cause a storm. 

Now, I can indeed fall into a deep sleep. While on top of the grave is a baby cricket singing, an anthem amidst earth and sky, as though a disaster has never been.

January 2019

Chôn cất số không

       Bây giờ tôi không dám lên núi ấy nữa, tôi quên luôn tên núi rồi, trên ấy đầy các ấy, tôi cũng quên tên bọn ấy rồi, bọn ấy không đáng để ấy. Tôi về nhà, đóng cửa lại, chơi một mình.

       Tôi vẽ một số 0 to tướng lên vách, rồi lùi lại 7 bước, rút súng ra ngắm bắn. Tôi bắn vào số 0, chính giữa hồng tâm. Trước khi bắn, tôi có đọc lệnh tử hình. Nó cúi đầu nhận tội, thấy cũng thương thương…

       Tôi đanh thép kết án: “Mày, mày là số 0, đúng không, tội của mày là không có gì cả, đúng không?”.

       Nó im lặng thổn thức.

       “Cho mày một ân huệ cuối cùng, nói đi!”.

       Nó vẫn im lặng.

       Tôi lạnh lùng bóp cò.

       Một lỗ thủng ngay giữa tim đen của nó. Thế là hết đời mày, số 0 oan nghiệt.

Từ trong lỗ thủng viên đạn vừa xuyên qua, gió từ bên ngoài tràn về, cuồng nộ. Tôi xây xẩm mặt mày, hay là có oan sai?

       Gió, mà gió màu đen, ùn ùn kéo vào khuấy đảo. Đó thực sự là một trận cuồng phong, một cơn bão tố. Chúng rít lên trên vách gỗ, xé dọc trần nhà, cày nát sàn nhà, kinh hoàng. Tôi ngồi xuống một góc, nhắm mắt, bịt tai, cắn răng chịu đựng. Đời tôi, dầu dãi đã nhiều, song chưa khi nào gặp một trận bão khủng khiếp đến thế, mà ngay trong căn phòng nhỏ này, bên xác số 0 vừa tắt thở.

Sao thế nhỉ?

       Tôi vắt óc suy nghĩ, sai lầm bắt nguồn từ đâu? Và cơn bão đen ấy, từ đâu tới? Tôi hỏi bầy xương trắng: “Làm thế nào bây giờ?”. Lũ xương không trả lời, vẫn cặm cụi bước đi xung quanh căn phòng. Tôi hét giữa gió cuồng bão giật: “Thôi đứng lại xem nào, đừng đi nữa!”. Họ vẫn đi, theo một vòng tròn. 

       Tôi nghĩ, dù gió, dù bão, vẫn phải mai táng những bộ hài cốt này, may ra mới ổn…

       Đúng lúc hoang mang nhất thì cha ghé về thăm. Cha lẻn vào phòng lúc nào không rõ. Cha nói: “Gió bão chi mà như tận thế!”. Tôi quay sang nhìn cha, ô hay, sao lại là một bộ xương trắng? Hoá ra… Không thể chịu nổi nữa, tôi đạp cửa lao ra ngoài. Trời đất vẫn yên bình như một bài hát nâng bi. Lạ chưa?

       Ngay lập tức, tôi nghi ngờ bầu trời và mặt đất. Làm sao có chuyện chúng vẫn bình yên được, khi trong căn nhà tôi đang gió bão mịt mùng? Tôi nghi ngờ cả bài hát đang rạo rực đất trời, làm gì có chuyện toàn là hoa lá được, khi trong nhà tôi đầy những ngọn gió đen? 

       Tôi tự nhủ: Bình tĩnh lại nào, bắt đầu từ đâu nhỉ? Phải, đầu tiên là số 0, một cái xác chết to tướng. Vậy thì phải kết thúc ở đấy. Tôi vào nhà, khiêng xác số 0 ra ngoài, như người ta kéo một tên trộm chó vừa bị đánh hội đồng cho đến chết.

       Hàng xóm ùn ùn kéo đến xem, như xem một thằng động kinh lên cơn. Tôi cười bẽn lẽn như mình có lỗi: “Tôi phải mai táng cái xác này mới được!”. Mọi người cười ồ: “Xác nào, có xác nào đâu?”. Họ không nhìn thấy số 0 to tướng như một bộ xương trắng nằm ngửa giữa sân. Gã thợ hồ sát cạnh nhà nhìn tôi đầy thông cảm: “Ừ, thì chôn nhanh đi, kẻo nó phân hủy!”. Nói xong gã cười khà khà, quay đít ra về.

       Hóa ra, điều tôi thấy rõ ràng, chưa chắc mọi người, số đông, đại diện cho chân lý, đã thấy được.

       Không biết gã thợ hồ hàng xóm nói thật hay nói đểu, tôi thì thấy bốc mùi thật rồi, nếu không nhanh tay thì…

       Tôi quyết định chôn.

       Mà tôi chôn thật đấy.

       Tôi xắn tay lên, đào huyệt giữa sân, trong nhà, gió bão vẫn xoay vần. Tôi nhổ bãi nước bọt vào tay xoa xoa, đúng phong cách một anh phu đào huyệt sau khi xong việc. Nói: “Này số 0, dù sao thì ngươi cũng đã chết lâu rồi, bây giờ, ta chôn ngươi, để được mồ yên mả đẹp, nhé!”.

       Giờ thì mọi việc đã xong, không còn tử thi, không còn xương trắng. Căn nhà trở lại bình yên. Giờ thì bạn thấy vô lý không, chỉ một số 0 mà làm khổ người ta biết bao nhiêu? Mà vì nó là số 0 nên nhiều người không nhìn thấy. Thực tế, nó có – mặt, dù nó không – có – gì. Vì vậy, dù sự thực là không – có – gì, nó vẫn có thể gây ra bão bùng giông tố…

       Giờ thì, tôi ngủ giấc ngủ rất sâu. Chú dế con trên mộ cất lên tiếng hát ri ri, một bài hoan ca giữa trời đất thanh bình như là chưa hề có chuyện ghê gớm mới xảy ra.


Nguyễn Văn Thiện
Born: 1975
Home town: Anh Sơn – Nghệ An
Master in Comparative Literature and Critical Theories
Currently a high school teacher, and a prolific writer.
Editor of Chư Yang Sin (Đắk Lắk) Art and Literary Journal.

Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.

The letter “T” in the word “Time”

A short story in Vietnamese by Nguyễn Văn Thiện
Translator: Nguyễn Thị Phương Trâm 
Art: Đinh Trường Chinh

The letter “T” in the word “Time”

If time was a woman, then that woman must be extremely fickle and a player. When we want time to pass by anxiously faster, she prances around in her camisole; when we want time to pause for a second to catch our breath, rest, to absorb the sharpness and or nothing at all she seems to be in a rush tripping over her own feet. If we were to be a benevolent god, by default, time might be an older man, composed in his pace, steadily moving forward, contrary to humanity’s rush or calm. 

If time has a scent, it would be fragrant, often sweet. The fragile threads gently tug from morning to noon, day to night, the week of moonlight to a new season, generally changing a note in its scent. If you don’t believe me, try dangling your feet on a cliffside during the fall, close your eyes and stick out your tongue. Time will graze the tip of your tongue, dreamy-like the breeze, a long kiss, scented with the woodland. Indeed, there would be times when it’s mouldy with waiting, and as the sun sets as the moon rises, it’s salty and bitter with deceit. So what, if time possesses a scent, a frame, eyes and or limbs.

This afternoon, on a familiar path up an unplanned mountain or river, I caught a shirtless boy walking with the sunlight on his back, his dark tan skin was very familiar but the sparkle in his bright eyes were strangely unfamiliar. It made me wonder whether maybe his eyes were the eyes of time, restless, chasmic; distant, full of wistful dreams. I waved at him as though he was a friend, but once those eyes of time met the ancient eyes facing him, quickly he turned away, as though they were strangers, he continued on the spine of the mountain in the fading light. Time’s gaze was breaking, crumbling, covering the entire setting horizon.

If you’re happy, full of joy, affection will be time, it will play with you, embrace you. But if you’re sad or in despair, immediately she turns on you, she’s cold and distant, sometimes thug-like. You will get slaps on the face till you’re dizzy or she would be ripping at your hair while your face’s on the pavement. That’s time, if it has arms and legs. It was never colourless, unscented, desiccated, without a form as physicists have made you believe. Time is the manifestation of weak souls and human impulses amidst this big wide uncertain world.

You may ask yourself whether time is your kindest companion? In all separations and tragedy, we blame time, yet when it comes to our scars, we ask time to mend it? This morning, I asked Nietzche, hey, scholarly philosopher, if time is a fragrant piece of cake would you eat it, right here, right now? Nietzche, as usual, laughed with disdain, as he agitated a puddle on the side of the road. Carefully I would study it, in the muddy pool, reflections of drifting clouds, horses, vehicles, living, guns, knives, bullets, and her, most endearing! But suddenly, it would all fall apart, changed, no longer ever whole again.

It seems writing has not been excellent for the brain cells, affecting all the other major organs. Let me tell you, dear, talking to myself like a lonely madman in folklore: “Hey, so you live to acknowledge time or are you actually the victim, that time chews on and swallows, plays with like a tiger about to eat its prey?”. The brown little boy with bright eyes has moved on; the lonely elderly philosopher has cruelly stirred up and destroyed the reflection of the crumbling pieces of time. As for me, I’m still delving day and night into the desolate tales of Chư Mang.

The moonlight in pieces, pouring sunlight storms spitting, lips unknown and distant, the world’s a blur. Time losing its sweetness, now scented with bitterness, like seawater in the most glorious century of our people. I sat spelling out my name T-Thờ – i– ê- n – iên – nặng. My namesake has a body, a pair of legs, a pair of arms, ascending a period, laden in every step, no? My name and her name – Time, begins with the same letter, varied but accented!

Have you ever caught such a laden time in your hands? Time could be incredibly heavy. Nights in a flurry of gale and rain, I’m alone kicking in my bed, twisting and turning, arms and legs numb, burning, listening to the storm. That is time, and the longer I lay here, counting her withdrawing footsteps, the larger time becomes, as though the world is on top of me. 

Lucky, the fragile letters, they are full of life, dancing passionately as though ever tainted by time. I’m here spelling out the words with them like a teacher naturally absorbed in a classroom teaching. So, again children: T – i –me…

Time.

[October 2020]

_____

Chữ “Th” trong chữ “Thời gian”

Truyện ngắn Nguyễn Văn Thiện

  Nếu thời gian là một cô gái thì cô gái ấy phải cực kỳ đỏng đảnh và trắc nết. Khi ta cần thời gian trôi mau thì nàng ấy thướt tha xiêm áo lượn vòng sốt ruột, khi ta muốn dừng lại một chút để thở, để nghỉ ngơi, để cảm nhận vẻ đẹp của cõi người sắc sắc không không thì nàng lại ra vẻ vội vàng cuống quýt chân nọ đá chân kia. Nếu ta là thượng đế hiền minh, ta sẽ mặc định, thời gian là một cụ già, điềm tĩnh bước đi, không nhanh, không chậm, mặc cho phàm trần vội vã hoặc khoan thai.

Nếu thời gian có mùi có vị thì chắc chắn thời gian rất thơm tho, đôi khi ngọt ngào. Những sợi tơ mong manh kéo nhẹ từ sáng qua chiều từ ngày qua đêm từ tuần trăng này sang mùa khác, thỉnh thoảng lại tỏa hương. Không tin bạn hãy ngồi im bên vách núi mùa thu tĩnh lặng, nhắm mắt lại và lè lưỡi ra xem. Thời gian sẽ đi qua đầu lưỡi, mơ hồ như cơn gió thoảng, như nụ hôn xa, thơm mùi thảo mộc. Cũng có khi tháng ngày ẩm mốc đợi chờ, mặt trời lặn rồi mặt trăng lên mặn chát dối gian. Biết làm sao được, khi thời gian cũng có mùi vị, có dáng hình, có cả đôi mắt hoặc chân tay.

Chiều nay, trên con đường quen thuộc núi nọ sông kia, mình bắt gặp một chú bé con cởi trần đi ngược nắng, làn da nâu quen thuộc nhưng đôi mắt sáng rực, long lanh lạ thường. Mình băn khoăn, không biết đó có phải là con mắt của thời gian không, sao mà bồn chồn, mà thăm thẳm xa mờ khát vọng. Mình đưa tay vẫy vẫy, như vẫy người thân, nhưng đôi mắt thời gian ấy, sau khi bắt gặp ánh mặt trời già nua chiếu ngược, đã vội vàng ngoảnh đi, ra vẻ chẳng hề quen, rồi tiếp tục di chuyển bên sườn đồi nhạt nắng. Những tia mắt gãy vụn ra phủ rợp trời chiều.

Nếu bạn đang vui, đang hạnh phúc, thời gian sẽ vuốt ve mơn trớn bạn, trước mặt bạn sẽ là một vũ điệu đáng yêu. Nhưng nếu bạn đang buồn đang thất vọng hoặc nhục nhã ê chề, thì ngay lập tức nàng ấy sẽ trở mặt, hành xử lạnh lùng, có khi hơi côn đồ nữa là khác. Bạn sẽ nhận được những cái tát nảy đom đóm mắt hoặc những cái giật tóc lệch đầu sấp mặt. Thời gian đấy, nếu thời gian cũng có tay chân. Nó không hề vô sắc vô hương vô thủy vô chung như các nhà vật lý khẳng định. Thời gian, chẳng qua là sự hóa thân của hồn người yếu đuối và manh động giữa cõi trần ai bất trắc rộng dài.

  Bạn đã bao giờ tự hỏi, thời gian có phải là người bạn đồng hành tốt bụng nhất hay không? Khi tất cả những chia lìa đổ vỡ, ta đổ thừa cho thời gian, rồi những vết thương, cũng nhờ thời gian khâu vá? Sáng nay, ta hỏi Nietzsche, này, triết gia thông thái, nếu thời gian là một miếng bánh thơm tho, liệu người có ăn nó không, ngay ở đây, lúc này? Nietzsche, như thường lệ, vẫn cười khinh khỉnh, đưa tay khuấy vũng nước bên đường. Ta tò mò ghé mắt nhìn, trong vũng nước ấy, có bóng mây trời, có ngựa xe cơm áo, có súng đạn gươm đao, và có hình bóng một người, thương lắm! Rồi đột nhiên, tất cả vỡ tan, thay hình đổi dạng, không tài nào nguyên vẹn nữa.

Có vẻ như công việc viết lách đã có tác động không hay đến tế bào não bộ, ảnh hưởng trực tiếp đến các giác quan. Mình nói cho mình nghe, lẩn thẩn như gã khùng cô độc trong cổ tích: “Này, vậy thì mi sống đây để cảm nhận thời gian hay mi chính là miếng mồi để thời gian nhai và nuốt hoặc vuốt ve như con hổ sắp vồ mồi?”. Chú bé mắt sáng da nâu đã bước đi với con mắt thời gian rực sáng, gã triết gia cô độc đã nhẫn tâm khuấy nát tấm gương thời gian vỡ vụn. Ta thì vẫn chưa thôi lẩn thẩn đêm nọ ngày kia với câu chuyện bất tận của xứ Chư Mang hoang vắng.

Bóng trăng vỡ vụn, nắng đổ mưa chan, đôi môi xa ngái, không gian mịt mờ. Thời gian có mùi vị ngọt ngào bây giờ bỗng nhiên đổi ra vị đắng cay, như nước biển của thế kỷ rực rỡ nhất trong lịch sử dân tộc. Ta ngồi đánh vần tên của chính mình Thờ – i– ê- n – iên – nặng. Vậy tên ta có tấm thân này, có đôi chân này, bàn tay này, đi trên khoảng thời gian nặng trĩu, phải không? Tên ta và tên nàng ấy – Thời gian, bắt đầu bằng cùng một chữ cái, chỉ khác dấu thanh thôi!

Bạn đã khi nào hứng một vốc thời gian trĩu nặng trên tay chưa? Thời gian có sức nặng khủng khiếp. Có những buổi đêm mưa gió nhạt nhòa, ta trăn trở mãi trên chiếu giường đơn độc, nghiêng bên này chân tay tê buốt, nghiêng bên kia nghe lệch bão giông. Thời gian đấy, và càng nằm đếm bước đi của nàng, ta càng thấy nặng, tưởng cả thế giới xô nghiêng đè xuống thân mình.

  Cũng may cho những con chữ yếu mềm, chúng tràn đầy sức sống, nhảy múa hào hứng say mê như chưa hề bị thời gian nhuộm kín. Ta ngồi đánh vần với chúng, như thầy giáo say mê tận tụy với nghề trong lớp học hồn nhiên. Nào, bắt đầu nhé: Thờ – ơ –i- ơi…huyền… 

  Thời gian.


Nguyễn Văn Thiện
Born: 1975
Home town: Anh Sơn – Nghệ An
Master in Comparative Literature and Critical Theories
Currently a high school teacher, and a prolific writer.
Editor of Chư Yang Sin (Đắk Lắk) Art and Literary Journal.

Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.

the original storm

A short story in Vietnamese by Nguyễn Văn Thiện
Translator: Nguyễn Thị Phương Trâm 
Art: Đinh Trương Chinh

THE ORIGINAL STORM   

We were lost in the clouds, lit up brilliantly with lightning and thunder. You tried to wipe the water off your face asking me: “Can you see anything, look, the sticks of lightning?”, which meant nothing at all to me. I could barely keep up, barely see, I was afraid. My small life, grazed by sticks of lightning, thunderous thunder, I was done. I held tightly onto your hand, worried we might lose each other, worried we won’t be able to find each other, once the storm was finally gone. You whispered into my ear: “Don’t be afraid!”. Me mumbling quietly, don’t be afraid. But, after every flicker of lightning, I saw everything had changed significantly. In the first flash of lightning: The ancient trees had leaned into the wind, your face drenched with the rain… The second flash: The mountains and valleys were scraped bare like a curse from folklore, you were still by my side, but your face was gone, only a pair of eyes remained like glowing lumps of amber winter coal…

The third flash: Most of your body disappeared except for your hand, still holding on to mine, still warm. All around me, it seemed the mountains and valleys, the trees and vegetation, stood up all at once. They turned into arrows, bayonets, and lances. Black lines pointing directly at the sky. Don’t be afraid. I tried to encourage myself; everything was still in its rightful place. The thunder was brittle, it sounded like a bridge was breaking into halves. It was strange how I had never once felt lonely. Your warm hand was always in mine as though we were never wet by the rain. Even the outlying trees and mountains around me were amicable, endearing. Now different; the trees were usually benign, the mountains always calm, but suddenly they were angry and defensive, why…? It was daunting how they had changed so quickly, it made me question myself. Whether everything was just in my head, the mountain and the forest, the trees… the endless thunder and lightning. I took your hand and placed it on my chest. Your fingers were soft like velvet. Your voice was resounding: “Don’t be afraid!” Though the water at my feet had already risen past my knees.

Steadily I head for the heart of the storm. In front of me were the mountains, deserts, fields, and more, it was difficult to make out everything. My friend at this point had completely disappeared. I was alone. Life grew meaningless. If anyone asks: “Where are you going in the middle of a storm?”. I wouldn’t even know how to start, or reply with a decent answer. But living, does it mean staying put because it’s raining?

The road ahead was vast and wide, spreading out forever on both sides whichever way, rows and rows of crates and cages. Locked inside, all shapes and sizes, all kinds of surprises. Some containers had a tiger, an elephant, an ox, some of those crates had people in them. The various entities were out there in the rain, quietly watching me in complete silence. There was not a whimper, roar, or word.

Life was a point of silent indifference…

Suddenly, you spoke up: “Let go of my hand, I can no longer go on this journey with you, there’s still a long way to go, and it’s dangerous, we need to go on our way from here!”. I let go of your hand and continued on my way. Looking back just once to see your friendly hand waving goodbye. And there was no indication of the storm easing that night. The lighting continued across the sky: As I faced a river or was it the sea. The water glistened, the waves stirring. Floating on the surface were carved wooden idols. They looked like the wooden idols on the tombs at the cemetery of the indigenous people, they were drifting through the devastating deluge, they had to say goodbye to their family, chose to go on such a wet and painful journey? Or were they idols forged from copper, steel, carved from marble by talented artists trying hard to make a better living, carving for themselves a more sustainable life, now abandoned, left adrift in the water?

When I was little, ox herding, I liked to mould idols from clay. The tiny figurines the size of my big toe, I used a mixture of soft clay and ox dung. I would place them next to each other next to the puddle of mud and ox dung. My friend and I would play with them. We would take them home with us, they shared the bed with us when we slept. In front of me for the moment were these idols whisked away by the water, popping up and down along with the current. These idols, what did they do wrong, how have they sinned, what kind of game were they involved with, they were very much human, so now, they had to pay?

I was not sure if I would be able to go on that night, if the storm had not eased. Alone endlessly in the night, have you ever witnessed such a predicament? The person with you had let go of your hand, gone on a different path. What remained of that hand was more like a scar, like the footprint of a boat on the sand, after it was gone, like a wound no longer weeping, but it was still a wound. A painful experience. Then a bolt landed right in front of my face, a terrifying explosion right above my head. I was numb, lost all my senses. The night bloomed, thousands of flowers bloomed in front of my eyes. There were tithonia, lantanas, lilacs, immortelle… If this world came to exist because of a big bang then it may end exactly the same way. But not by treading through mud and deluge, I might fly instead, lightly and high… 

It was now sunny and windy. A glorious period in the mead! The fields were filled with the ripe harvest bathed in the spring sunlight like a mysterious miracle, with barely enough time to let me in on the secret. Though I was not in a hurry to ask. The spring was still here, not anywhere near the end. But, I was looking for something, looking down at my hands: The hand that hurt me, where is it now? Alone I waded through the sea, storm and lighting, through faith, love and betrayal, scrummaging nothing for myself but a scar? I sat down, in the middle of a meadow, picked a fresh leaf, placed it on my chest. The leaf, suddenly, began to sing. A song about an ancient forest long ago, of rivers turning, of desolation, abruptly withdrawing into the past. The song petered off quietly, to a point when there was barely enough sound left to bounce off the side of the mountain, from there within an echo returned, pleading, forever across the expanding distance./

_____

[May 2020]

CHỚP BỂ MƯA NGUỒN

Chúng tôi lạc vào giữa một cơn giông. Chớp từ giữa những đám mây lóe sáng. Bạn vừa vuốt nước mưa trên mặt vừa hỏi tôi: “Bạn có thấy gì không, giữa những tia chớp ấy?”. Thấy, có nghĩa là không thấy gì cả. Tôi không kịp nhìn, không kịp thấy, vì tôi đang sợ. Cái mạng sống nhỏ nhoi của mình đây, chỉ cần một tia chớp chạm vào, cộng thêm một tiếng sét nữa, là xong. Tôi cầm chặt tay bạn, sợ lạc mất nhau, sợ không còn tìm được nhau nữa, sau cơn giông này. Bạn thì thầm vào tai tôi: “Đừng sợ!”. Tôi cũng thì thầm, đừng sợ. Nhưng, sau mỗi tia chớp lóe lên, tôi lại thấy mọi vật đổi khác, rất nhiều. Lần chớp lóe đầu tiên: Cây cối đang rạp mình trong gió, gương mặt bạn ướt nhòe nước mưa… Lần chớp thứ hai: Núi đồi đã bị cạo trọc như sau một phép màu cổ tích, bạn tôi vẫn ở cạnh tôi, nhưng khuôn mặt đã biến mất, chỉ còn lại hai con mắt như hai cục lửa mùa đông… 

Lần chớp thứ ba: Bạn tôi biến mất, chỉ còn một bàn tay của bạn vẫn nằm trong tay tôi, ấm nóng. Xung quanh tôi, hình như núi đồi, cây cối đang nhất tề đứng dậy. Chúng có hình mũi tên, hình lưỡi lê, lưỡi mác. Những vệt màu đen chĩa thẳng lên trời. Đừng sợ, tôi tự động viên, việc đâu còn có đó. Tiếng sấm rất giòn, như tiếng gãy của một chiếc cầu. Lạ là tôi thấy mình không hề cô đơn. Trong tay tôi, bàn tay bạn vẫn ấm nóng như chưa hề bị mưa, bị ướt. Những hình hài cây cối núi đồi bên cạnh cũng gần gũi, thân thương. Ơ hay, cây cối thường ngày hiền hậu thế, núi đồi thường ngày bình lặng thế, sao trong phút chốc thôi, chúng đã biến thành…? Chỉ tiếc là chúng biến hình quá nhanh, khiến tôi nghi ngờ thị lực của mình. Có thật không, núi rừng này, cây cối này… Sấm sét vẫn liên tu bất tận. Tôi cầm bàn tay còn lại của bạn, ấp lên ngực mình. Những ngón tay mềm mại như nhung. Tiếng bạn vẫn văng vẳng: “Đừng sợ!” Dưới chân, nước đã tràn qua gối. 

Tôi lầm lũi bước đi trong gió thẳm mưa ngàn. Trước mặt là núi đồi, là sa mạc, là ruộng đồng, là gì nữa, tôi không dám chắc. Bạn tôi đã biến mất rồi. Bây giờ, tôi còn lại một mình. Cuộc sống trở nên vô nghĩa. Nếu ai hỏi: “Mày đi đâu giữa lúc trời giông gió?”. Tôi sẽ không tìm được câu trả lời hợp lý, dĩ nhiên rồi. Nhưng sống ở đời, không lẽ vì gió mưa mà cứ mãi ngồi một chỗ?
Con đường phía trước trải rộng ra vô tận. Hai bên đường xếp la liệt những chuồng, những cũi. Bên trong, nhốt la liệt hình hài. Có cũi nhốt hổ, nhốt voi, nhốt trâu, có cũi nhốt người. Những hình hài nằm phủ phục dưới mưa, lặng lẽ nhìn tôi. Hoàn toàn không có tiếng nói, tiếng rên hay tiếng gào thét ở đây. 

Cuộc sống đang trở nên câm lặng khác thường…

Đột nhiên, giọng nói của bạn vang lên: “Hãy bỏ tay tớ ra, tớ không đi với cậu được nữa, con đường này còn dài lắm, lại hiểm nguy nữa, chia tay thôi nhé!”. Tôi buông tay bạn ra, bước tiếp. Ngoái lại, thấy bàn tay thân thương ấy vẫn còn vẫy vẫy. Chưa có dấu hiệu gì chứng tỏ cơn giông sẽ ngừng trong đêm nay. Chớp lại rạch ngang trời: Bây giờ, trước mặt tôi là sông, hoặc là biển. Nước lênh láng, dập dềnh. Nổi lênh đênh trên nước là rất nhiều pho tượng. Có phải đó là những pho tượng nhà mồ của người đồng bào bản địa, trong cơn hồng thủy đau thương này, đành giã biệt người thân mà chọn dòng chảy long đong? Hay đó là những pho tượng bằng đồng, bằng sắt, bằng cẩm thạch của những nghệ sỹ tài ba vắt óc thiết kế để kê vào cho cuộc sống này thêm chắc chắn, bây giờ đã đổ sập xuống, trôi đi?

Thuở bé, lúc còn chăn trâu cắt cỏ, tôi từng chơi trò nặn tượng. Những hình người nhỏ bằng ngón chân cái, nặn bằng bùn dẻo trộn phân trâu đặt bên bờ nước vũng trâu đằm. Tôi và bạn bè cùng trang lứa nặn ra để chơi, chỉ để chơi thôi. Cho nên, tối về nằm ngủ, tượng cũng về theo. Còn bây giờ, trước mắt tôi là những pho tượng bị nước cuốn đi, nhận xuống, trồi lên. Những pho tượng này, chúng đã làm gì nên tội, hay đơn giản, chúng đã tham gia vào những trò chơi đầy toan tính của con người, và bây giờ, bị quả báo?

Hết đêm nay, nếu trời không dứt mưa, có thể tôi không bước đi được nữa. Một mình đi trong đêm dài vô định, bạn đã bao giờ ở vào cảnh này chưa? Người đi cùng với tôi đã buông tay, rẽ về lối khác. Dấu vết của bàn tay ấy, đã in rõ trên ngực tôi một vết lằn, như chiếc thuyền nằm trên cát, khi nó đi xa rồi, còn in rõ dấu nằm, tương tự một vết thương không rỉ máu đúng quy trình. Cuối cùng thì cũng có một lần đau. Lần này, tia chớp ở sát ngay trước mặt, và tiếng nổ khủng khiếp ở trên đầu. Tôi hoàn toàn mất cảm giác, mất luôn khả năng tri giác. Đêm đen đã nở hoa, cả ngàn hoa vỡ òa trước mặt. Này thì dã quỳ, nãy thì ngũ sắc, này thì tử đinh hương, này thì bất tử… Nếu thế giới này được hình thành bằng một vụ nổ thì rất có thể, nó cũng sẽ kết thúc tương tự. Không phải lê từng bước chân ngập ngụa trong bùn nữa, bây giờ, tôi có thể bay lên, rất cao và rất nhẹ…

Bây giờ thì nắng, và gió nữa. Thảo nguyên mùa này đẹp lắm! Đồng cỏ chín dưới nắng xuân đang giấu một bí mật nào đó, chưa kịp kể với tôi. Tôi không vội hỏi. Mùa xuân còn, chưa hết. Từ trên cao nhìn xuống, tôi đang muốn tìm một bóng hình quen thuộc: Cái bàn tay đã làm tôi đau ấy, bây giờ ở đâu? Tôi một mình đi qua mưa nguồn chớp bể, qua hết thảy tin yêu và phản trắc, lọc lừa chỉ để giữ riêng cho mình một vết thương ư? Tôi ngồi xuống với đồng cỏ, ngắt một chiếc lá xanh đặt lên ngực. Chiếc lá bỗng cất lên tiếng hát. Đó là bài hát về những cánh rừng trong dĩ vãng, về những dòng sông đã đổi dòng, về những hoang vu đã bất ngờ lùi vào quá khứ. Tiếng hát nhỏ chỉ đủ sức vọng vào vách núi, rồi từ đó mới dội ngược ra, rền rĩ, ngân xa./ 


Nguyễn Văn Thiện
Born: 1975
Home town: Anh Sơn – Nghệ An
Master in Comparative Literature and Critical Theories
Currently a high school teacher, and a prolific writer.
Editor of Chư Yang Sin (Đắk Lắk) Art and Literary Journal.

Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.

%d bloggers like this: