A woman’s desire

A poem in Vietnamese by Đỗ Khiêm
Translator: Nguyễn Thị Phương Trâm


Đỗ Khiêm (source: the poet’s social media page)

Thơ TỰ DO

Đây là một bài thơ Tự Do của Tạ Hiền trong sáu bài thơ tự do được đăng trong Tập san Văn số cuối cùng tháng 4/1975. Tôi rất thích và đồng ý với nhận định lời mở rất trân trọng của nhà văn Mai Thảo dành cho người viết mới: “Những người trẻ tuổi bắt đầu làm thơ nên bắt đầu ngay bằng thơ tự do.Nghĩa là một bắt đầu mạnh bạo, đường hoàng, ở ngoài mọi kiến trúc tiền chế”. Hay là do tôi khởi đi thơ tự do nên đồng cảm. Bây giờ tôi biết được Tạ Hiền chính là Đỗ Khiêm.

Vũ Trọng Quang

A WOMAN’S DESIRE

(Those who have looked at a woman with sinful intent
have already in their heart the desire – Matthieu)

The church bells resounding at high noon
The busy buzzing cicadas salivating made an appearance
a quarter of the young woman’s panties were all bunched up

I had to close my eyes in light of the mind-blowing high
Even the tables and chairs crowding pushed forward in wanton acquaintance
The young woman just by an inch revealing

The mass rose in an offering of smooth pink thighs
She’s so proud in the display of her flesh

Then
There are the kind short sighted priests
Like her now pushing forward revealing the top of her thighs
No one will ever understand
The usefulness of such a yeasty scent over me
Nor the despair of the sperms
In a race in the dark
Spinning round and round
The Fatima steeple cross

(May 2021)

THỊ DÂM

(Ai nhìn phụ nữ mà ước ao phạm tội thì đã tà dâm trong lòng rồi – Matthieu )

Buổi trưa chuông nhà thờ âm a
Ly la ve phù du sùi bọt hiện ngã
Người con gái co quắp một phần tư quần lót

Ta nhắm mắt cơn say lên đến óc
Ghế bàn chồm tới đòi làm quen
Người con gái vẫn hở hang một góc

Buổi lễ dâng lên cặp đùi hồng mơn trớn
Em kiêu căng biểu dương thịt da

Rồi
Các linh mục hiền hòa thiển cận
Những tín đồ đi nhà thờ ngoạn cảnh
Cũng như em đang đưa phía trên đùi ra
Tất cả sẽ không bao giờ hiểu
Tác dụng của hơi men trên ta
Hay nỗi tuyệt vọng của những tinh trùng
Chạy đua trong cõi tối
Thánh giá quay vòng vòng
Trên nóc nhà thờ Fatima (nhà thờ Bình Triệu)

Tạ Hiền



Đỗ Khiêm, the poet, photographer, freelance journalist from Vietnam currently lives in Turkey.

Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.

FIGHT

I’m not a, particularly positive person, more pragmatic than anything, but hell may freeze over before the numeral ZERO will ever stop me!

Fuck that!

Never say die!

I have watched my children, those who came from my loins and those who have not, struggle day after day with this depressing economy to find a job, let alone those who are near and dear to me losing their livelihood LITERALLY over a poem!

I don’t have the answer, I just know that I should not give up. If I refuse to give up. Perhaps then my children will NEVER give up. Those around me WILL NOT give up.

Defiance is NOT reserved for the RICH or the STRONG. Defiance is reserved for those who are the littlest of us, DEFIANCE is reserved for those who are willing to FIGHT.

So FIGHT. Fight for it. Fight for your job, fight for YOUR VERNACULAR!

FIGHT!

—-

May 2022

Tôi không phải là một người đặc biệt tích cực, thực dụng thì đúng hơn, nhưng địa ngục có thể đóng băng trước khi con số ZERO có thể ngăn tôi lại!

Quá chán!

Huống chi nói đến chuyện thất bại, tôi sẽ không bao giờ bỏ cuộc!

Tôi đã chứng kiến những đứa con của tôi, những đứa trẻ đến từ cơ bắp của tôi và những đứa không phải là của tôi, chúng đã phải vật lộn ngày này qua ngày khác với nền kinh tế đang suy sụp này để tìm việc làm, huống chi những người gần gũi và thân yêu của tôi mất đi sinh kế NGAY LẬP TỨC chỉ vì một bài thơ!

Tôi không có câu trả lời, tôi chỉ biết rằng tôi không nên bỏ cuộc. Nếu tôi không chịu bỏ cuộc. Có lẽ khi đó các con tôi sẽ KHÔNG BAO GIỜ bỏ cuộc. Những người xung quanh tôi SẼ KHÔNG bỏ cuộc.

Sự thách thức KHÔNG dành riêng cho những người GIÀU CÓ hay MẠNH MẼ. Sự thách thức dành riêng cho những ai nhỏ bé nhất trong chúng ta, SỰ THÁCH THỨC dành riêng cho những người sẵn sàng CHIẾN ĐẤU.

CHIẾN ĐẤU đi chứ. Chiến đấu vì nó. Chiến đấu cho công việc của bạn, chiến đấu cho NGÔN NGỮ CỦA BẠN!

FIGHT!


Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.

She untied each and every ridiculous knot in Poetry

A poem in Vietnamese by Lê Vĩnh Tài
Translator: Nguyễn Thị Phương Trâm
Art: Nguyễn Thị Phương Trâm

No one was left in the bar in the middle of winter

Except for Poetry

What say Poetry?

Were there words powerful enough to destroy the world?

Especially when Poetry is meaningless

While the young woman came with her entire village

Came the echoes of Poetry’s song

The breaths of sorcery

Poetry is a woman inside a woman

A miracle inside a miracle

The sorcery inside the vernacular

A quarter of a heart

Sing would the man who loves Poetry

It’s a bar

Owned by survivors

Not a place for drinking

It’s a place that could turn the Sun into ice

Not a pile of corrupt envelopes full of cash

Poetry peeling it open to only free

The hissing

Humiliation 

It’s a place that stands for equality

Not for beer and banter

Even the light in the corner is sacred

The star in your eye

A bar, an unknown city, the entire horizon in ice, a shattered meaningless promise

Don’t throw around the law and not abide by it

Poetry shouldn’t be scrap pieces of paper

Drawings of a woman on her back, legs wide open, resigned

What does it mean, when a woman is in a place like that?

Not something Poetry wants to know

As for us?

We are overwhelmed by the sparse air

of gravity… 

Poetry may be crest the young woman with hope

Those fallen dreams of winter

In a bar full of strangers

Their breath was like ice on the window 

Not as Poetry predicted

The young woman climbed onto the window ledge

Affixed a name tag on her chest

Danced on her toes

Removed the crest

Discarded her clothes

Not so anyone could see

But so it would be easier to slide across the ice 

So she may draw the most glorious of rainbows

Once the alcohol is gone

Gone is Poetry’s imagination

A red skirt, the toes on the window ledge

The white dawn, the time Poetry couldn’t catch the breath of the wind

The mist at all

Nor the deer in fairy tales 

In the fall

She untied each and every ridiculous knot in Poetry

The day Poetry left her

To get married

December 2018

_____

Gần như tất cả mọi người đã rời quán rượu giữa mùa đông

Ngoại trừ Thơ

Làm sao Thơ có thể nói?

Có ngôn từ nào đủ sức làm cho thế giới sụp đổ?

Trong khi Thơ chưa bao giờ có nghĩa

Khi cô gái đến và mang theo cả một ngôi làng

Nơi mà Thơ từng hát âm vang

Những hơi thở làm bằng phép thuật

Thơ là người phụ nữ bên trong người phụ nữ

Phép lạ trong phép lạ

Phù thủy trong ngôn từ

Như một phần tư

Trái tim người đàn ông yêu Thơ đang ngồi hát

Đó là quán rượu

Của những người còn sống sót trở về

Không phải là nơi đi tìm đồ uống

Đó là nơi đông lạnh cả mặt trời

Không phải những chiếc phong bì bẩn thỉu

Mà khi Thơ bóc ra

Tất cả mọi người đều nghe vết nứt

Tủi nhục

Đó là nơi mang lại sự công bằng

Không phải chỉ uống bia ngồi lê đôi mách

Cả bóng đèn trong góc quán cũng thiêng liêng

Như ngôi sao chiếu vào ánh mắt

Một quán rượu, một thành phố lạ, sự đông lạnh của cả bầu trời, một hứa hẹn không bao giờ có nghĩa

Đừng ném thia lia lên trên luật pháp

Thơ đừng làm giấy nháp

Vẽ một cô gái đang nằm thả cả hai tay

Một cô gái ở một nơi như thế, là gì?

Đó không phải là điều Thơ muốn biết

Còn chúng ta?

Chúng ta ngập vào một làn không khí mỏng

Nguy cơ…

Thơ niêm phong cô gái bằng niềm hy vọng

Những giấc mơ mùa đông té ngã

Vào quán rượu những người xa lạ

Hơi thở của họ bên cửa sổ đã đóng băng

Không như Thơ dự đoán

Cô gái trèo lên cửa sổ

Gắn một bảng tên lên ngực

Và nhảy múa trên những ngón chân

Cô cởi bỏ niêm phong

Và cởi luôn quần áo

Không phải cho ai xem

Mà là để dễ trượt đi trên băng tuyết mùa đông

Thành một cầu vồng

Lộng lẫy

Ly rượu đã hết Và Thơ không còn sự tưởng tượng của mình

Chiếc váy đỏ, và những ngón chân trên cửa sổ

Bình minh trắng, và những lần Thơ không kịp thở

Sương mù

Cả những con hươu trong câu chuyện cổ

Mùa thu

Nàng gỡ những nút thắt vô lý của Thơ

Ngày Thơ chia tay nàng

Đi lấy vợ


Lê Vĩnh Tài, the poet and translator born in 1966 in Buon Ma Thuot, Daklak, Vietnam. The retired doctor is still a resident of the Western Highlands and a businessman in Buon Ma Thuot.

Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.

A Nation Gang Raped

A short story in Vietnamese by Nguyễn Văn Thiện
Translator: Nguyễn Thị Phương Trâm 
Art: Đinh Trường Chinh

A Nation Gang Raped

In today’s play, the main character is a bright young corseted femme fatale in a wide brim traditional woven hat. Her appearance on the stage caused a stir in the crowd: “Wow, she’s so pretty! Lovely! Gosh The Nation is so beautiful!”.

Her footsteps were so light it looked as though she was riding on top of a wave, her smile was that of a flower about to bloom. Down below, the audience applauded in appreciation. A mother whispered into daughter’s ear: “See there child, the young woman there represents our country. Can you make out the shape of our Nation? Curvy, pretty, see, see that…”. Young children are impressionable, they of course believe everything they see, clapping enthusiastically… And of course, the character’s name is The Nation.

The Nation sang, The Nation danced, The Nation laughed. The screen in the background were images of pretty gardens with flowers in full blooms, avenues lined with shady trees. The Nation would then sit down by the flower beds, picking flowers, one for her hair and a bunch to hold over her heart. It seemed The Nation was thinking of someone, or thoughtful of a bright future, or perhaps a flighty verse of poetry… Then there was the sound of rising cheerful music, the sound of a warm bright voice of a man singing in praises of The Nation. The audience settled, snapping open packets of condiments, snacking on their roasted salted melon seeds, their hearts lifted as though it was new year’s day. The Nation was at peace. 

In the middle of it, the light changed, the light turned red, blaring. The audience was less inebriated. All eyes were on the stage. What happened?

Invariably in barely moments, The Nation hugged her chest, dropped to her knees. The lights flashed on her for a moment before everything was in complete darkness. It sounded like thunder ripping across the stage. The Nation was flat on the ground, amongst the flower beds. Crawling from the stage wing were thieves all in black, their faces hidden under their bucket hats, surrounded The Nation. The audience screamed: “God, what are they doing to our beloved Nation?”

With their uncut sharp fingernails, they began to grab and clawed at The Nation. One guy grabbed the wide brim traditional hat and chucked it on the floor, then proceeded to step on it. The other thieves ripped at her clothes, her silk pants. They laughed as they clawed at her clothes, their laughter audible through the constant thunderous sound. The Nation’s exposed flesh in the tattered clothes was lit up by the spotlight, as fair as pear blossoms, as red as one’s flesh and blood.

The audience was terrified, torn. The babies were crying and screaming. Their mothers wept. Gosh, poor beautiful Nation, how could something like this happen!

The black shadows in turn held The Nation down, gang raped her. The electricity was all of a sudden cut. The theatre was in pitch black darkness, on the stage as well as down where the audience sat waiting. There were cries for help, swearing, sounds of kicking and punching, crying mixed in with lewd laughter. It was no longer possible to differentiate between the audience and the stage. The maddening chaos. Someone shouted: “What happened to the light!”. “An electricity’s cut!” – someone shouted in reply.

The lights were suddenly on. Everyone’s eyes opened even wider, and looked at each other. The patrons looked at each other as though they’ve met for the first time. On the stage, The Nation after the assault was dragging herself around the stage, leaving a long trail of blood behind her, she was black and blue and was as bruised and bloodied as the apocalyptic sun. The villains stood by, in all corners of the stage, laughed, rowdy and vile in their intent, proud of their detestable achievement.

Their lewdness caused a growing anger in the crowd. Someone shouted: “Get them!”. The strongest and most heated of the group climbed onto the stage. Shouting and screaming as they tried to climb onto the stage. But the depraved animals were prepared, they barricaded the stage by standing neatly side by side at the edge of the podium. Any one who has managed to climb up, were kicked in the head, fell back. But the wave of people climbing on top of each other continued. Someone shouted: “Security guards, where are the security guards!”

The guards came running, some with knives, some with batons, some with guns. Something terrible was about to happen. Angry patrons on the one side and on the other side were a bunch of professional performers, a war, weapons ready.

What happened felt as though it was planned, smoke spilled out from both sides of the stage wings, a red spotlight illuminating the stage swung randomly across the stage. The play was reaching its climax. A bunch of people with lumps and bruises on their heads, bled. The patrons had nothing to defend themselves with, defenseless, frozen. A number of young men kicked their seats, breaking their seats, and armed themselves with the feet of the chairs. Gosh, what was happening?

The protagonist continued to drag herself around the stage, leaving a coil of blood trail behind her, not unlike a war in the middle ages.

Crazy right?

There were blackbirds, beaks extremely sharp, screaming, no knew exactly where they came from at all. Eagerly, they followed the blood trail. Black wings the colour of death drew sickening circles on the victim’s head. In their bloodthirst, they were oblivious of the rowdy crowd down in the auditorium. They poked and tore at the opened wounds, ripping out bits of ruby red flesh. The Nation shrieked in agony.

Not sure when the door was left open but a lot more people showed up. The opportunists picked the pockets of those around them in the chaos, alleviating patrons of their phones. A loud inviting voice broke through the pandemonium: “Fresh sugarcane juice anyone, refreshments, intermission, anyone wants a drink!”.”We also have banh mi, hot bread rolls!”…

The black and blue bruised bodies on the ground were trampled by the hoard in the theatre. The screaming continued. A person managed to steal a baton from one of the guards, randomly assaulting the people around them. A patron managed to reach the victim in the middle of the stage, and had attempted to pick the victim up. As soon as he was bent over he was kicked in the backside, when flying head-on into one side of the stage, and altogether disappeared.

It was hard to keep up. The audience and the performers all looked the same. The stage and life piled on top of one another, crammed in amongst each other, could not be separated. The theatre at the moment, to put it simply, was no different to a merciless soccer field, there, the players can chase and fight each other, the fans were allowed to assault the players, even the referee was not left alone, nor were the security team, ending ultimately with the fans fighting each other! There was no difference between them, you couldn’t tell who was whom…

While the star of the play, The Nation, continued to moan in pain, dragging herself around endlessly in a vicious circle. Overhead, the vultures continued to circle, continued to eagerly drool, transfixed, hypnotised.

[March 2021]

Đất nước bị cưỡng hiếp

Truyện ngắn Nguyễn Văn Thiện

Trong vở kịch của ngày hôm nay, nhân vật chính là một cô gái thắt đáy lưng ong nón thúng quai thao trẻ trung rạng rỡ. Khi cô xuất hiện trên sân khấu, lập tức khán giả ồ lên: “Đẹp quá! Cô gái đẹp quá! Đất nước mình đẹp quá!”.
Cô đi nhẹ như người ta lướt sóng, miệng cười chúm chím như hoa sắp nở. Ở dưới, khán giả vỗ tay tán thưởng. Một người mẹ nói vào tai con gái: “Con thấy không, cô gái ấy là hiện thân của đất nước mình đó. Thấy dáng đứng của Đất nước chưa? Cong cong, xinh xắn, đó, đó…”. Các cháu bé, dĩ nhiên là sẽ tin, và vỗ tay phấn khởi… Đương nhiên rồi, nhân vật ấy có tên là Đất nước.

Đất nước hát, Đất nước múa, Đất nước cười. Màn hình phía sau hiện lên những khu vườn đầy hoa, những con đường cây xanh rợp bóng. Rồi đất nước ngồi xuống đưa tay ngắt bông hoa cài lên tóc, ấp vào ngực. Hình như đất nước đang nghĩ đến một ai đó, hoặc nghĩ về một tương lai tươi sáng, hoặc về những vần thơ bay bổng…
Nhạc vui vẻ nổi lên, một giọng ca nam ấm sáng cất lên ngợi ca Đất nước.
Khán giả yên tâm móc hạt dưa ra cắn, lòng lâng lâng sướng vui như tết. Đất nước thanh bình. 

Giữa lúc đó, ánh sáng thay đổi, đèn chuyển sang màu đỏ, lóa mắt. Khán giả thôi không lâng lâng nữa. Tất cả mọi cặp mắt đổ dồn lên sân khấu. Có chuyện gì?

Trong tích tắc, Đất nước ôm lấy ngực, khuỵu xuống. Có những tia chớp vụt chiếu vào Đất nước rồi lại vụt tắt. Những âm thanh kinh động tựa sấm sét. Đất nước nằm xuống, ngay giữa vườn hoa. Từ trong cánh gà chui ra những tên cướp mặc đồ đen, bịt mặt bằng mũ đen, vây lấy Đất nước. Khán giả khóc thét lên: “Trời ơi, chúng nó định làm gì Đất nước thân yêu?”.

Những móng tay sắc nhọn bắt đầu cào cấu. Một tên giật lấy chiếc nón quai thao dẫm bẹp dí. Những tên khác xé áo tứ thân, xé quần lụa lĩnh. Chúng vừa xé vừa cười sằng sặc trong tiếng sấm sét liên hồi. Ánh sáng từ tia chớp chiếu thẳng vào da thịt lõa lồ của Đất nước, trắng như hoa lê, đỏ như máu đào!

Khán giả kinh hoàng, trân trối. Những em bé khóc ré lên. Những bà mẹ nức nở. Ôi, Đất nước xinh đẹp ơi, sao lại thế này!

Những bóng đen đè nạn nhân xuống và thay nhau hãm hiếp. Điện phụt tắt. Rạp tối om, cả trên sân khấu lẫn dưới hàng ghế khán giả. Tiếng kêu cứu, tiếng chửi thề, tiếng đấm đá, tiếng khóc và tiếng cười man dại trộn lẫn vào nhau. Không còn phân biệt được đâu là sân khấu, đâu là khán giả nữa. Điên loạn mất rồi. Tiếng ai đó hét: “Bật đèn lên xem nào!”. “Mất điện!” – có tiếng trả lời.

Đột nhiên, đèn bật sáng. Mọi người mở to mắt nhìn. Khán giả nhìn nhau như mới gặp lần đầu. Trên sân khấu, Đất nước đang lết đi sau trận cưỡng hiếp kinh hoàng, để lại phía sau một vệt máu dài, đỏ bầm như mặt trời ngày tận thế. Những kẻ thủ ác bây giờ đang đứng ở các góc sân khấu, cười hả hê, sảng khoái.

Hình như vở diễn đã kích động người xem, đến mức không thể chịu nổi nữa. Tiếng ai đó hét lên: “Bắt lấy chúng nó!”. Những khán giả khỏe mạnh và nóng tính liều lĩnh trèo lên sân khấu. Họ vừa lao lên vừa hò hét điên loạn. Những kẻ thủ ác mặc áo đen bịt mặt đã lường trước điều này, chúng dàn hàng ngang ngay mé đài. Hễ có người leo lên, là chúng đạp ngã nhào xuống. Sóng người vẫn tràn lên. Có tiếng hét: “Bảo vệ đâu, bảo vệ đâu!”.

Bảo vệ xông ra, đứa cầm dao, đứa cầm gậy, đứa cầm cả súng. Có vẻ như sắp sửa xảy ra một trận chiến không cân sức. Một bên là đám khán giả bị kích động cao độ và bên kia là những diễn viên lành nghề, thiện chiến, vũ khí sẵn sàng.

Hình như đã có sắp đặt trong kịch bản, từ hai bên cánh gà, khói trắng phun ra, đèn đỏ quét liên tục. Màn kịch đến đoạn cao trào nhất. Đã có người bị bươu đầu, chảy máu. Khán giả tay không, lại hoàn toàn bị động, nên lâm vào thế yếu. Một số thanh niên hung hãn đạp phăng thành ghế, lấy chân ghế làm vũ khí. Trời đất ơi, sao lại thế này?

Nhân vật chính vẫn lết từ từ, vòng quanh trên sân khấu, vẽ những đường tròn bê bết máu, không khác gì đấu trường thời trung cổ. 

Ghê chưa?

Những con chim màu đen, mỏ nhọn hoắt, không biết từ đâu bay ra kêu váng. Chúng lần theo vết máu một cách say sưa, hào hứng. Những đôi cánh màu đen chết chóc vẽ những đường tròn khủng khiếp trên đầu nạn nhân. Chúng say máu đến nỗi quên cả biển người đang hăm hở hỗn chiến phía dưới. Chúng dung mỏ mổ vào vết thương, rứt từng thớ thịt đỏ lòm. Đất nước hét lên đau đớn!

Không biết cửa mở từ lúc nào mà xuất hiện thêm rất nhiều người. Có người tranh thủ tình trạng hỗn loạn, thò tay móc túi và trộm điện thoại. Người nào đó lớn tiếng rao: “Nước mía đi, siêu sạch đi, nghỉ tay uống nước đã nào!”. “Bánh mì nè, bánh mì nóng nè!”…

Có những thân thể bị giẫm đạp nát bét. Tiếng hò hét không ngừng. Một người liều lĩnh cướp được cây gậy của bảo vệ, nhảy lên quật túi bụi vào đối phương. Một người khác liều mình nhảy lên chính giữa sân khấu, định cúi xuống ôm nạn nhân lên. Nhưng hắn vừa khom người xuống thì bị ngay một đạp vào mông, ngã cắm đầu vào trong cánh gà rồi biến mất.

Tình hình không thể kiểm soát nổi nữa. Khán giả và diễn viên lẫn lộn, không phân biệt được. Sân khấu và cuộc đời chồng chéo, đan xen, không thể tách rời. Cả nhà hát bây giờ, nói cho bạn dễ hiểu, không khác gì một sân bóng đầy bạo lực, trong đó, cầu thủ rượt đánh nhau, khán giả đánh cầu thủ, đánh luôn cả trọng tài, đánh cả bảo vệ, và cuối cùng là khán giả đánh nhau với khán giả! Không biết phe nào với phe nào…

Trong khi đó, nhân vật chính của vở kịch, Đất nước, vẫn rên rỉ, quằn quại lết đi theo một vòng tròn oan nghiệt. Trên đầu, lũ kền kền diều quạ lượn vòng, hào hứng, say mê.


Nguyễn Văn Thiện
Born: 1975
Home town: Anh Sơn – Nghệ An
Master in Comparative Literature and Critical Theories
Currently a high school teacher, and a prolific writer.
Editor of Chư Yang Sin (Đắk Lắk) Art and Literary Journal.

Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.

slices of time

A poem in Vietnamese by Trần Quốc Toàn
Translator: Nguyễn Thị Phương Trâm
Photography: Nguyễn Thị Phương Trâm

a woman’s beautiful eyes were upon the sea

piercing and cold                  

reality was like an undercurrent 

a river of milk in a windy whirlpool

a tropical dilution

in the garden I’m the caretaker of treetops grass and leaves

in this dusty universe I’m nurturing a dream

drifting

with no beginning nor end

after the explosion, the clock had misplaced the moments

in the autumn seeds remained were bright cold eyes

possibly mine

the black hole of the mountain sucked up a cluster night stars 

the ground contemplative 

the ocean stretched its leg out infinitely

a woman’s beautiful eyes were upon the sea

the yellow man’s grave blossomed into a temple of flowers

cheerful birdsongs

immigrants of the mist….

—–

March 2022

những lát cắt thời gian

người đàn bà mắt đẹp nhìn biển

xuyên buốt,

cả hiện thực như dòng

sữa ngầm ngậm trong bể gió

pha loãng nhiệt đới

tôi cưu mang ngọn cây lá cỏ trong vườn

nuôi cơn mộng trong vũ trụ bụi

trôi

không đầu không cuối

chiếc đồng hồ đánh mất thời gian sau tiếng nổ

chỉ có đôi mắt sáng lạnh trong hạt giống mùa thu

khả thể tôi

một chùm sao khuya lùa vào hố đen của núi

mặt đất trầm tư

đại dương nằm duỗi chân về phía vô cùng

người đàn bà mắt đẹp nhìn biển,

mộ người da vàng đã lên những bông hoa đền tháp,

lảnh lót tiếng chim

di trú phía mù khơi….


Trần Quốc Toàn, the Vietnamese poet born 1992, at Tuy Phước, Bình Định, Vietnam. Prize: Tiền Vệ 2019 Liberal Literature Award for Kinh Đêm, a book of poetry; Văn Việt 2022 Literature Award for the novel Trong Rừng Cây Du Thủ.

Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.

The Vows

A short story in Vietnamese by Trần Băng Khuê
Translator: Nguyễn Thị Phương Trâm

Trần Băng Khuê

The Vows

My intentions were sound, I wanted to swear to her with all the passion I could mustered, in so many words.

The earnest words at the tip of my tongue, the words of never-ending love. But, my tongue was twisted, doing everything else except allowing me to utter a single audible word, no sound of inspiration or passion managed to escape my lips. Thus was her stony proud face was her reply to my supposed professed adoration, not for a moment did she think of me, or my pathetic tongue.

I resented her. In my ignorance, I resented her. In my cluelessness I loved her. But, I despised myself for my inadequacy, my inability to express my ardent love, I would have been more than satisfied to receive the smallest amount of pity thrown at me.

Thus, on one brightest red moon lit night, I decided to cut off the useless tongue and buried it in the deepest part of the most decrepit spot in an abandoned forest. The butterflies awkwardly hovered above my head before disappearing completely. Just like her. She was nothing but an illusion. Nothing stayed except for the imaginary vows over the rise of a red moon, a red moon high on blood.

After I cut off my tongue, burying it as deeply as I could in the cold earth the way they bury dead people.

I left her.

That moon phase of the moon slipped to the very bottom of a leaden universe, sound asleep in the grey clouds. Shutting myself off completely from such an undesirable world. A part of me was so chaotic, the only way I found peace was at the depth of deep darkness, like an undercurrent concealed at the bottom of the sea, a monster trapped inside an abyss for hundreds of years. We all need to rest, especially when we have slipped into such depths. Like me, my tongue, and even this love.

As soon as I decided to cut off my tongue, buried it at the bottom of a pit and made up my mind to leave her.

She began to draw on the past, dwell more on love, on me, on the unspoken vows. She told me she has written letters in dark black ink on very white paper. She confides, she would often venture into the back of the abandoned garden to look for my tongue. But I know, it won’t be long before she will completely lose hope. She will never find even a hint of a scent of it. She continued with how she had wrote all those letters that were now gone with the wind, the letters consistently turning up at my doorstep.

Quietly I would say to myself each time I finished reading one of her letters, my dear, you’re looking for me, you must be patient. Because true love is never easy.

I choose to be silent, from night to day, day to night, from the first glimmer of bright light until the sound was the darkness. I kept her letters, in a small wooden red box, locked up. Dancing around in my head were the lines in her letters. As for my vernacular, it was tightly locked up, I was void of words. I thought of how I may reply to her, when my tongue was buried deep in the ground. I was as silent as the allure of autumn, its changing hues around me reflected what was in my heart.

The quiet evening, facing the darkness in a room saturated in sadness, my stare fixated on the monotonous grey wall repeating over and over again in my head, dear love, I’ve cut off my tongue, I’ve cut off my tongue, I’ve buried my tongue, I’ve buried my tongue.

Short-lived were the bloodthirsty nights inebriated during the red moon phase. Such nights were not as frequent as most people believed. I let out a long sigh as I thought of her, each time the small red box with her letters came into view. She has not worked out that the only chance of ever finding my tongue was during such a period. A period when the moon turns red. And she would have to sing out loud, oh dear love, oh dearest of all vows.

I remember my mother would draw strength from borrowed words of wisdom, to teach us how to be better people. But, through the stubborn awkward age of puberty I would always argue. They’re nothing but hovering shadows on this bare dusty, deceiving planet. Nothing more than that mother.

I thought of her, it seems she’s trying to look for my tongue in that decrepit forest. She busies herself with complaints of not being able to wait for the red moon. Obstinate in my silence, I locked myself up completely inside the jars for lonely souls that my mother and grandmother have coveted to keep them in their most lively state. I certainly also knew I could never go against what my mother had said. 

After cutting off my tongue, I could never utter another word. My voice was cut short, it was stunted in nothingness. But I could never break the habit of listening in on conversations, and then I would lay there on my old bed pondering. What kind of soul would guarantee my valid intention in attaining a suitable ticket to open up the gate of my dreams, after I die? I believe we all want to reach such a place, but no one has the courage to preserve a pure heart. What can I do to preserve such  innocence without hurting anyone, including her, may it be with a single vow, here and now the unspoken vow.

Like my mother, sometimes I would sit at the front of the house to watch the sun go down, thinking about her declarations of love. I would crave for the thoughtlessness and joy of my youth. Those youthful years washed away by time have drifted into the past. Missing her, I was overwhelmed with regret. If only, that day, I shut her up with a greedy kiss, bite her lips so it would bleed. Doesn’t matter how it may have played out, I figured in articulate affirmation, before my resignation to complete sadness, upon the obsession I have carved out for myself. The unbearable aching. The vows that will make both of us bleed.

The state of repeated pondering sadness, we’re so familiar with it that we are never free enough from it to realise how self-centred we’ve become. I thought about how I could be happy again, with the emphasis that I must be happier. I decided upon a resolution for myself, through such quibbles: “We only live once”.

Gone from my mind hence, the pledges of that night in the peach orchard. There were never any promises in the peach orchard, it was a lie, nothing but mere fictitious ideas from those who have too much to say. I decided, clearly, when I no longer want to share my happiness, I had to quietly destroy any kind of promise that I could see, by cutting off my tongue and burying it.

Sure, she will eventually forget me, leave me for affirmations elsewhere. There’s no reason for me to hesitate, to abandon any promises. Perhaps, tugging at our heartstrings is a lingering promise from thousands of lifetimes ago, since then to now between us were the rows of abandoned malabar spinach*. But, sometimes I believe she’s already made up her mind not to let go of an insidious love that burns us like salt rubbed directly onto our raw hearts. 

Perhaps for the moment, I’m the one cutting off my tongue to bury the promises. While she’s determined to hold on to the promises despite the confinement of me      being tortured. When will the continental plates shift and separate? When will the mumbling undercurrents utter the words of the water?

Gosh, the promises, the promises like invisible ropes tying up a body in madness, a state of dwindling vitality. I need to work out how to discard it, throw it into the boiling water precariously atop the burning stove. I must learn how to despise, to abandon her, a lover who has followed me here from a previous life.

I must forget her.

I must distract myself with something else. I thought about my home village, my country. Recalling a father that was very present in my life. The man who has disappeared without a trace. Just like that, I must forget her and the unspoken promises, forget also the tongue buried beneath the layers and layers of dirt.

My village lay scattered along a rectangle, undefined on the map dotted in melancholy, red like some kind of invasion under the hot blaring sun. It’s very hard to work out the vibrant green ancient trees on Google maps. I have no intention of giving an idyllic description of our village. It’s like any other simple village. Poor, scattered with pig’s pens. Poor with garbage thrown all over the place, and stench of decay rising from the depths of the rustic river, not as bright and sweet as in the stories passed down in folklore. 

When I was little, the adults talked about promises and vows every time there was a festival. They explained in detail what it meant when you made a promise. Self-absorbed within the innocence of a child, I had enjoyed every moment of my childhood. And of course, I had no other aspiration outside of saying: One must uphold a vow, keep their promise, the spoken word should never be allowed to be whisked away by the wind, or simply because you said so, so you have to do it. I viewed it as the light showing my way forward, the guide to all my actions. Yet, here we are, I’m older, all I witnessed was the adults doing the complete opposite, they lied to their children. This includes my father, within a bout of drunkenness professed his love for my mother, and in the next drunken night through his teeth the contempt dowsing what was left of the flame of passion from the night before, his actions to me incomprehensible. The promises lay dead upon the dark lips with tints of leathery ox hide.

My father slowly gave up his drinking, drank less towards the end of the drought, wallowing less in debauchery, less in the addictive depravity, less in the defining drunken habits of his youth. Then he left us and my mother. He was gone, and made sure we couldn’t find him. The promises left with him had also disappeared. The vows sank to the bottom of the sea buried by the undercurrents. My mother was insistent in keeping her vows, her sleep drenching the night in swells of tears, her pillows a constant dampness that eventually bleached her hair in patches of grey.

I remember my father talking about the swearing-in ceremonies, when he was lucid and happy, strumming on the guitar passionately singing about a girl named Thi on moonlit nights. Times as such my father’s stature, wholesome and endearing, the shimmering glorious epitome of generosity. I imagined, like how one would describe an incredible person, a great man. Tall and erect, a giant, as big as a mountain, liken to the vastness of the ocean, liken to a god. Clearly, the mind of a child is easily led, easily deceived. It seems no adult is beyond such shame?         

My father’s glowing tale was like the near-permanent stain of her lipstick on my shirt collar. And it was only just yesterday. The mark of the past reflected in every objectionable thing that I could see. Perhaps where I’m standing, sitting right now, whatever comes to mind right now is already a presentation of the past. I could hear my father’s serious voice dwelling soundly in my ear. My father’s voice came from deep within his throat in the utmost enigmatic sombre tone: “those who participate in the swearing-in ceremony must cut their hand, add their drops of blood to the wine before drinking it”.  My father said he, too, had cut his hand, shed his blood. But, so what. The blood from my father’s hand, dropped into silver, copper, porcelain cups. My father took sips of the blood mixed with spirit. My father sprinkled his blood from up high uniting it with the soil on the ground. My father looked up at the sky, the full moon, his blood blending in with the moon light. The moon hid behind the clouds, as my father swallowed his severed promises, stood up, left the tattered woven grass mat. My mother bent over, head low, sat there in silence. The veins on her wrist popped up distinctive, displaying clearly every scrape and callus. My father never spoke up again from that day onward, my father disappeared, and from that very day onward you would find my mother every night by the window staring out at the emptiness outside. My mother sat there the entire winter into summer, summer into autumn, autumn into spring. In her sleep, she whales incoherently incessantly for my father.  

Honey, dearest, you must keep your promise.                      

I noticed that my village continued to follow their tradition, never discarded the swearing-in ceremony, a representation distinctive of this world in such a disorderly time. The ceremony was always a monumental moment, missing nothing, charged with the sounds of trumpets, a band, flags flying, dancing elephants, photographs, film documentation, a bedlam of festivity.

There was still no sign of my father’s return.

Our village voted for someone to replace my father as the celebrant, light the incense, read out the vows. My mother was always in a state of dumbfounding bewilderment, leaning on the doorway mumbling about something. Honey, my darling, don’t let our promises perish in the heat of blood, boiling, mixed in with the voice of the person replacing my father as the celebrant over the village megaphone in the bright moonlight.

Whoever uses the community resources to further build the community, we ask you heavenly spirit, please support them.

Whoever uses the community resources for their private affairs…

The half promise was a sinking sound, stuck in the silent darkness.

Then, the year after that. They were again busy with the same ceremony. The village leaders busy themselves with talks of the festival, but the whole thing had an odd vibe to it. Sure enough, a few ideas were pushed forward, cutting and adding bits and pieces here and there; they decided to broadcast the ceremony part of the festival live on TV. After the commercials, the familiar swear-in shall be performed. The Difference was that there will be no hand cutting, no blood bled into the cup of wine, no blood mixed in with the wine, or wine mixed into blood, or blood being mixed in with the soil as a display to high heaven the vows for new year anymore.

I did not attend the ceremony since my father was gone.

Down the grapevines there was the mention of my father’s name, talks of the old swearing-in ceremonies. The old vows, heartfelt because of my father’s impassioned voice, instilling in one’s heart a fearful resolve. The voice of those after my father had disappeared carried little weight, void of resonance, void of my father’s exuberant spirit. Thus after that, the promises were as fragile as the passing wind disappearing without leaving behind an ounce of ever being there like my father. My mother was in a constant state of melancholy, talking in her sleep. Waking up in the middle of the night mumbling the words of my father’s ceremonial vows. I could never bring myself to remember those choking chasmic verses. Within the darkness, such words could do nothing but perish.

The words of promise haunted me like a curse. 

I was haunted by my mother’s grief-stricken face by the door, washed dry by the wind. I don’t want to think about my love either, but often I would open the small wooden box. Where I kept all her letters. Invaded my thoughts now and then was my severed tongue, buried in the dark patch of forest behind the S-shaped row of mountains.

One moonlit night, roused all of a sudden my decision to return to that patch of the dark forest. I wanted to have a good look at that tongue of mine. What if it will lead me to my father? What if there was a way for the return of the promises. What if my love for her has a different, better, more kind conclusion. What if each night my mother will never be sad again. What if I am like my father, I’m next in line to replace him in renewing the vows here upon this S-shaped row of mountains. What if there was a possible return of the realisation of human law, so that we may all once more upon this earth have solemn respect for the heavenly hallow words from above, that our flesh maybe once more steeped in the words of a thousand lifetimes. The idea of it left me wrapped up in the clouds. I hesitated, perhaps I might end up confused and lost in the narrow wriggly paths up the mountain, every time I decided to head up there on moonlit nights.

I arrived at the chilled and lonely patch of the forest. After digging it up without a word, I looked at my tongue anxiously, all I could hear was the echo of laden sadness coming from some sound sad place. 

What if the promise is some kind of red bloody exchange drip in fresh blood?

Upon my return to the chilly lonely patch of forest.

The moon was bright red. My fingers in the dirt. The lumps of soft earth broke away, revealing a tongue that had disintegrated, turned black. My useless tongue. The tongue that could not keep its word. Then suddenly there it was, I discovered another tongue by it. It was tarried by the soil, but it was still clear that it was still fresh, its flesh damp with blood. I was very confused, for sure I had never buried such a tongue. Who’s tongue is this? Where did it come from? Why would anyone want to cut their tongue off and bury it as I did?

Out of nowhere blue spit came squirting out from the foreign tongue, some sort of poison, it was all over my face, in my eyes. Blinding me. The sky. The earth. The desolate patch of the forest. This sad, sad mountain. My throat was burning, I wanted to vomit. My heart was racing, pounding on my rib cage. I couldn’t see, I could hear nothing, I was completely dumb, wordless. I was tired. All I could do was lay down right where I was, right by the hole where I had just dug up my tongue and a stranger’s tongue. All I wanted to do was to lay down. Sweeping my face was the permeating moonlight through the canopy, upon which my body eerily lingered. The autumn trees have shed all their leaves. My tears fell, drenched the ground where I sat. The salty soil’s pungent. I screamed amidst the icy forest.

Father please, please don’t forget your promises.

The January full moon.

That year, the moon every night was blood red.

Inside a deserted forest behind the row of S-shaped mountains, dwellers in village V heard the sombre rumbling from deep within the ground, grew, unfurling across the sky, slammed into the side of the mountain. Bouncing back and forth in echoes before it dissipated into the surrounding darkness. The vows from the buried tongue, it was exactly that. And the vows returned in parts, one word at a time through all the moonlit nights, as though dead flesh was slowly consumed bit by bit beneath the ground, inside the chilly abandoned graves.

Who used to…

Who took it…

Dear god…

The second man in that family disappeared also without a trace. Now and then, people would see a woman with two faces, sometimes old and wrinkly, lips purplish-grey, tired eye bags, other times a young woman in her twenties, with dark and bright almond eyes, lips red as though she been chewing on betel leaves, wandering around the village mumbling incoherently, some words you could catch others you couldn’t, to crying every night when the night was bright with moonlight. The strange sounds continued to bounce back from the side of the mountains, even when there was never any newly erected temple. It sounded like the chanting of prayers, an echo resounding from thousands and thousands of lifetimes ago. By morning, the patch of forest where the young man had buried his tongue, strips of sunlight would fall upon rays of solemn amber fire, spreading across an indefinite area behind the row of S-shaped mountains.

V-village in the years to come ceased completely all ceremonies and festivals.

—–

February 2021

Truyện ngắn

LỜI THỀ

Tôi dự tính mở miệng thề với nàng, nhiều lời nồng nhiệt. 

Tình yêu bất diệt này của tôi sẽ nhảy nhót trên đôi môi đầy tràn khao khát. Rồi, hẳn là lưỡi tôi, chúng sẽ uốn éo, làm đủ mọi trò quái đản, hòng để lời yêu thốt ra được ồn ào, đầy cảm hứng. Ấy vậy, nàng vẫn quyết ngoảnh mặt kiêu kì, chẳng hề mảy may bận lòng đến tôi, đến chiếc lưỡi khổ sở của tôi.  

Tôi giận nàng. Tôi khù khờ giận nàng. Và, tôi cũng ngu ngơ yêu nàng. Nhưng, tôi hận mình kém cỏi, không thể khiến nàng để tâm đến những lời thề thốt yêu đương ấy, hoặc dù chỉ một chút thương xót của nàng cũng làm tôi đẹp lòng lắm rồi. 

Nàng vẫn lạnh lùng và ngoảnh mặt kiêu kì. Nàng như thể một bông hoa rực rỡ, nhưng hơi nhiều gai sắc nhọn. 

Vậy là, trong một đêm trăng sáng và đỏ rực rỡ nhất, tôi đã cắt chiếc lưỡi vô dụng ấy, quyết đem nó chôn phía sau khu rừng đã xơ xác rách mướp mà người ta bỏ quên khá lâu. Bọn bướm đêm loạng choạng lượn trên đầu tôi, rồi chúng biến mất không một dấu vết. Nàng cũng thế. Nàng chỉ là ảo ảnh. Còn, những lời thề là ảo tưởng huyễn vọng như mùa trăng đỏ, say máu. 

Sau khi cắt lưỡi, chôn sâu trong lòng đất lạnh như người ta chôn xác thịt kẻ chết. 

Tôi rời bỏ nàng. 

Mùa trăng ấy trôi tuột vào đáy của vũ trụ màu chì, ngủ vùi trong mây xám. Và đóng cửa linh hồn mình không một chút tiếc thương trần thế. Sự vẫy vùng của một cá thể nổi loạn trong tôi, trong sâu thẳm tôi hẳn là sẽ được ngủ yên, như sóng ngầm trốn nấp dưới đáy biển, như con quái vật bị nhốt dưới miệng vực trăm năm. Ai cũng cần phải ngơi nghỉ, chắc chắn phải ngơi nghỉ mỗi lần bị rơi tuột xuống bất kì một hố thẳm nào đó. Chẳng hạn, như tôi, như chiếc lưỡi của tôi và kể cả tình yêu này nữa vậy. 

Sau khi tôi cắt lưỡi, chôn nó xuống huyệt mộ và quyết rời xa nàng.  

Nàng lại bắt đầu ve vãn quá khứ, nghĩ nhiều hơn về tình yêu, nghĩ đến tôi, đến những lời thề thốt chót lưỡi đầu môi. Nàng kể với tôi rằng, nàng đã gửi đi những lá thư được viết bởi màu mực đen thẫm trên nền giấy trắng. Nàng thủ thỉ về việc, nàng vẫn thường ra phía sau khu rừng hoang lạnh rách mướp ấy chỉ để tìm chiếc lưỡi của tôi. Nhưng, tôi biết, hẳn nàng sẽ sớm tuyệt vọng thôi. Nàng không thể nào mò mẫm ra được dấu vết của nó. Rồi nàng kể tiếp, những lá thư bay theo chiều gió thổi, những lá thư không lời đáp trả vẫn đều đặn đến với tôi. 

Tôi tự nhủ thầm mỗi lần đọc xong những lá thư ấy, nàng ơi, muốn tìm tôi, nàng phải kiên nhẫn. Bởi, tình yêu đích thực, chẳng hề dễ dàng chinh phục bao giờ. 

Tôi vẫn chọn sự câm lặng, từ đêm sang ngày, từ ngày đến đêm, từ khi mặt trời lấp lánh ánh sáng và đến lúc chìm hẳn vào bóng tối. Những lá thư của nàng, tôi cất vào chiếc hộp gỗ nhỏ màu đỏ, khóa lại. Những dòng chữ của nàng nhảy múa trong đầu tôi. Nhưng, ngôn từ của tôi, trong sâu thẳm tôi đã bị nhốt chặt không lời. Tôi nghĩ, làm cách nào tôi có thể đáp lại, khi chiếc lưỡi đã bị chôn sâu dưới đất. Tôi câm lặng như mùa thu quyến rũ chết người, chúng luôn biết cách để chuyển đổi những trạng huống trong lòng tôi bằng cách ve vuốt thế giới xung quanh tôi.  

Những buổi tối lặng lẽ, đối diện với bóng đêm trong căn phòng u uẩn nỗi buồn, tôi thường chăm chăm ngắm bức tường xám lạnh màu thăm thẳm cùng với ảo hình của mình và gầm gừ căm phẫn rủa thầm lời tự kỉ lặp đi lặp lại trong bóng tối, tôi đã cắt lưỡi, tôi đã cắt lưỡi, tôi đã chôn lưỡi, tôi đã chôn lưỡi, hỡi tình yêu ơi.

Đêm trăng đỏ say máu chỉ là khoảnh khắc hạn hữu. Chúng không xuấy hiện thường xuyên như người ta vẫn hằng tưởng. Tôi thở dài nghĩ đến nàng, khi nhìn chiếc hộp gỗ nhỏ chứa những lá thư của nàng. Nàng đâu biết rằng, muốn tìm ra chiếc lưỡi của tôi, nàng phải đợi đến thời điểm ấy. Thời điểm mặt trăng chuyển sang màu đỏ. Và nàng phải hát lên rằng, hỡi tình yêu ơi, hỡi lời thề ơi”.  

Tôi nhớ, mẹ tôi vẫn thường dùng những lời răn của ai đó về việc giữ lấy linh hồn để khuyên bảo, dạy dỗ chúng tôi cách làm người. Nhưng, mỗi lần ương bướng, nhập nhoạng tuổi mới lớn tôi lầm bầm cãi mẹ, Chúng chỉ là những chiếc bóng trườn qua trườn lại lưu luyến cõi trần bụi bặm, gian trá. Thật thế mẹ ạ. 

Tôi lại nghĩ đến nàng. Hẳn là, nàng vẫn mải miết nuối tiếc tìm kiếm chiếc lưỡi của tôi trong rừng sâu hoang lạnh. Nàng vẫn mải miết thở than hoài về việc chẳng thể nào chờ đợi được những mùa trăng đỏ như máu. Tôi vẫn lì lợm câm nín, nhốt chặt mình vào cái hũ chứa linh hồn cô quạnh quen thuộc của mẹ và cố giữ gìn cho chúng được thanh khiết. Dĩ nhiên, tôi biết rằng, tôi cũng chẳng bao giờ cãi lời mẹ được nữa. 

Sau khi cắt lưỡi, tôi không mở lời được. Tiếng của tôi, âm thanh của tôi tắt lịm hoàn toàn trong cõi hư vô. Nhưng, tôi lại mắc chứng thường xuyên soi xét chuyện nọ chuyện kia, kể cả thi thoảng ngồi hàng giờ trên chiếc giường cũ kỹ của mình để tự vấn, Thứ linh hồn nào bảo đảm cho tôi giữ được sự tinh sạch để làm chiếc vé hợp lệ vào chiếc cổng mơ ước, sau khi chết? Tôi biết, ai cũng ao ước được vào nơi đó, nhưng chẳng ai đủ lòng dũng cảm để giữ gìn sự tinh sạch. Tôi phải làm gì để giữ gìn sự tinh sạch hoặc cố gắng không gây tổn thương đến ai, kể cả nàng, dù chỉ một lời hứa, một lời thề chót lưỡi đầu môi ở chốn này. 

Có những buổi chiều tà, tôi bắt chước mẹ ngồi trước thềm nhà, nghĩ ngợi về nàng, về những lời thề thốt yêu đương. Thi thoảng, tôi cảm thấy tràn trề nỗi khát thèm tuổi trẻ với từng ý niệm hân hoan hoặc khờ dại đã trôi xuôi theo dòng nước của quá khứ. Tôi tưởng nhớ đến nàng, và lùng bùng tiếc nuối. Giá như, ngày ấy, tôi chỉ cần cắn ngập môi nàng qua những nụ hôn tham lam, môi nàng sẽ chảy máu. Kiểu gì cũng phải chảy máu, tôi tự khẳng quyết hùng hồn như thế, rồi thẩn thở buồn rũ, tự khắc lên mặt sự ám ảnh bằng một nỗi đau ngôn từ. Những lời thề luôn khiến cho tôi và nàng chảy máu.

Trạng thái sầu não quẩn quanh, thỉnh thoảng khiến cho chúng ta chẳng thể nào vượt thoát khỏi tầm kiểm soát của cái tôi ích kỉ quen thuộc. Tôi bắt đầu nghĩ đến việc hưởng thụ, và nhấn mạnh rằng, cần phải hưởng thụ. Rồi, sau đó tự lí giải ngụy biện: “Dù sao người ta chỉ sống có một lần trên đời”. 

Vậy là, tôi quên phắt lời minh thệ từ buổi vườn đào. Chẳng bao giờ có những lời thề ở vườn đào, chỉ là lừa dối, chỉ là sự hư cấu của vài kẻ nhiều chữ. Tôi tự mình khẳng quyết rằng, rõ ràng, một khi tôi không muốn chia sẻ sự thụ hưởng, tôi phải âm thầm lặng lẽ giết chết tất cả mọi lời thề mà tôi nhìn thấy được, bằng cách cắt lưỡi và chôn chính chiếc lưỡi của mình. 

Ắt hẳn, nàng sẽ dần quên tôi, rời bỏ tôi để đến với lời thề khác ngay thôi. Chẳng việc gì tôi phải đắn đo về chuyện từ bỏ một lời thề. Có thể, cuộc duyên nợ tiền kiếp ngàn năm dấm dứt, cắn rứt giữa tôi và nàng khó bị cắt đứt bởi cái hàng rào bị phủ kín dậu mồng tơi từ những ngày loạn lạc xác xơ đến bây giờ. Nhưng, có khi, tôi nghĩ, nàng quyết sẽ không buông rời thứ tình yêu ngấm ngẳng như muối xát vào tim nàng và tôi vậy. 

Có thể, thời điểm này, tôi là kẻ đã cắt lưỡi đem chôn và chối bỏ lời thề. Nhưng, nàng thì vẫn quyết giữ lời thề hòng để níu buộc, hành hạ tôi. Khi nào lục địa mới cắt rời chia bôi? Khi nào sóng ngầm biển sâu mới nổi dậy gầm gừ lời của nước?  

Ôi, lời thề, những lời thề như sợi dây vô hình trói buộc một thứ xác thân nổi loạn, một thể trạng tinh thần èo uột thiếu sức sống. Tôi phải học cách ghét bỏ nó, ném nó vào nồi nước sôi đang nằm chễm chệ trên bếp lửa. Tôi phải học cách ghét bỏ nàng, người tình kiếp trước đã theo tôi đến chốn nhân gian này. 

Tôi phải quên nàng. 

Tôi phải nghĩ về một điều gì khác. Tôi nghĩ về làng, về nước. Tôi nhớ về một người cha đã từng hiển hiện trong đời mình. Tôi nghĩ về một người đàn ông đã biến mất không một dấu vết. Chỉ để, tôi phải quên nàng và những lời thề chót lưỡi đầu môi, quên luôn một chiếc lưỡi đã bị chôn sâu dưới bao nhiêu lớp đất.

Làng tôi nằm mọp, ọp ẹp dọc theo hình chữ nhật uốn éo, mềm mại trên cái bản đồ đã bị đánh dấu đỏ buồn man mác như một sự xâm chiếm dưới ánh nắng mặt trời. Rất khó để nhìn thấy màu xanh ngời ngợi của cây cối phủ trên google map. Tôi không định mô tả một thôn làng như bao thôn làng ở xứ này. Nó cũng chỉ là một thôn làng bình thường. Nghèo và nhiều chuồng heo. Nghèo và nhiều rác thải cùng với mùi xú uế bốc lên từ dưới con sông quê hương xanh biếc trong thơ ca ngọt lịm. 

Ngày còn nhỏ, người lớn kể về chuyện thề thốt gì đó trong mỗi mùa lễ hội. Họ giải nghĩa cái từ ấy cho tôi nghe. Tôi say sưa thụ hưởng niềm ngây thơ, hồn nhiên đáng thương của một đứa trẻ. Hẳn nhiên, tôi chẳng có một ấn tượng nào khác, ngoài suy nghĩ rằng: thề là giữ chữ tín, giữ lời hứa, lời thốt ra, không được để gió rủ rê đi mất, hoặc đơn giản hơn, rằng đã nói phải làm. Tôi xem đó là ngọn đèn soi sáng đường đi nước bước cho mọi hành động của mình. Vậy mà, sau này, khi tôi trưởng thành hơn, tôi thấy người lớn thường làm ngược lại, họ chỉ toàn lừa trẻ con. Kể cả chuyện cha tôi, trong cơn say đêm trước, còn lảm nhảm lời thề thốt yêu đương với mẹ, đến cơn say đêm sau, cha đã thổi tắt ngọn nến nồng nàn ấy bằng những miệt thị, đay nghiến qua kẽ răng mà tôi không thể nào hiểu nổi. Lời thề nằm chết trên những vành môi xám ngoét màu thịt trâu. 

Rồi, cha tôi cũng bớt rượu, bớt bê tha khi hết mùa đói khổ, thèm khát, bớt những cơn say đã được ấn định thành thói quen thời trẻ. Nhưng, cha lại rời bỏ mẹ và chúng tôi. Cha biệt tăm, biệt tích. Lời thề theo cha, biến mất. Lời thề chìm nghỉm dưới đáy biển sâu thẳm đầy sóng ngầm. Mẹ vẫn quyết giữ lời thề, nằm mộng khóc tràn những đêm khuya ướt gối mãi đến khi tóc mẹ lớm chớm sợi đen sợi trắng. 

Tôi nhớ, cha từng kể về lễ hội minh thề, khi tỉnh táo vui chuyện, khi cha đệm đàn và say sưa hát về một người con gái tên Thi vào mỗi đêm trăng sáng. Lúc ấy, hình bóng cha trong tôi tròn trịa và đẹp lung linh, lộng lẫy, bát ngát. Tôi cảm tưởng như người ta từng mô tả về một vĩ nhân nào đó. Cao lắm, lớn lắm, khổng lồ tựa núi, tựa biển, tựa thánh thần. Hẳn nhiên, là trí óc trẻ con thường bị người lớn dễ dàng dẫn dắt hoặc gạt lừa. Chẳng có người lớn nào biết xấu hổ nhỉ?  

Câu chuyện cha kể lấp lánh như vệt son môi lâu phai của nàng trên cổ áo tôi. Chỉ mới ngày hôm qua đây thôi. Dấu vết của quá khứ tích tụ lưu đọng trên mọi phản thể mà tôi nhìn thấy. Có thể ngay chính nơi tôi đứng lúc này, ngồi lúc này, ngẫm nghĩ lúc này đã sẵn sàng trở thành quá khứ mất rồi. Tôi lại nghe giọng cha trầm đọng và vang vọng bên tai mình. Cha thốt ra lời mờ đục âm u nơi cổ họng: “kẻ tham gia lễ hội minh thề phải cắt tay, lấy máu nhỏ vào chén rượu, và uống”. Cha bảo rằng, cha cũng từng cắt tay, cha cũng từng mất vài giọt máu. Nhưng, có hề gì. Máu trên tay cha, rỏ xuống chiếc cốc bạc, cốc đồng, cốc sứ. Cha nhấp môi, máu hòa trong rượu. Cha tưới máu từ trên cao xuống, máu hòa trong đất. Cha ngước mặt lên trời, những đêm rằm, máu hòa trong trăng. Ánh trăng nấp vào mây, cha nuốt luôn lời dang dở, đứng dậy, rời khỏi manh chiếu đỏ đã sờn cũ. Mẹ nhìn theo, lặng im cúi đầu. Những mạch máu trên mu bàn tay mẹ nổi lên chia rõ theo từng ngón sần sùi chai sạn. Cha không kể nữa, từ ngày ấy, cha biến mất, cũng từ ngày ấy, mẹ thường ngồi bên cửa sổ mỗi đêm nhìn vào những không gian trống rỗng. Mẹ ngồi mãi suốt từ mùa đông sang hè, từ hè sang thu, từ thu đến xuân. Đằng sau những giấc ngủ của mẹ là tiếng ấm ớ gọi cha thất thanh không ngớt. 

Mình ơi, mình ơi, giữ lấy lời thề.              

Tôi để ý, hàng năm làng tôi vẫn theo lệ cũ, không bỏ lễ hội minh thề dù chỉ là một thứ hình thức mang tính dân gian giữa thời buổi tạp loạn này. Lễ hội diễn ra khá hoành tráng, chẳng thiếu ban bệ hay các loại kèn trống, cắm cờ, cho voi diễu hành, rồi cả chụp hình, quay phim rất ồn ào, náo nhiệt. 

Cha tôi vẫn không về. 

Làng cắt cử người thay cha lên tế lễ, thắp hương, đọc lời thề. Mẹ tôi thẩn thờ, nhiều lần đứng tựa cửa đợi chờ lẩm bẩm. Mình ơi, mình ơi, đừng để lời thề chết trong máu sôi, xen lẫn với giọng người thay cha đọc lời thề phát qua chiếc loa làng xã giữa đêm trăng sáng. 

Ai dùng của công vào việc công, xin thần linh ủng hộ. 

Ai lấy của công vào việc tư…

Lời thề dang dở chìm sâu, tắc nghẽn trong bóng tối. 

Rồi, năm sau. Người ta vẫn dềnh dàng với chuyện tổ chức lễ hội ấy. Các vị chức sắc làng xã xì xào bàn tán về việc tổ chức, nhưng không khí khác lạ hẳn. Họ bảo, phải đổi mới, phải kết hợp giữa truyền thống với hiện đại hoành tráng. Vậy là, vài ý kiến được đưa ra, thêm bớt và cuối cùng, các ngài quyết định sẽ tường thuật trực tiếp trên tivi phần lễ, sau lễ là phần dành cho quảng cáo rồi mới đọc lời thề quen thuộc. Chỉ khác, họ không cắt tay, rỏ máu xuống cốc rượu, để máu hòa trong rượu, để rượu hòa trong máu, để máu hòa trong đất minh chứng với trời cao về lời thề bắt đầu cho một năm mới nữa.  

Tôi chẳng bao giờ đến dự lễ, khi cha tôi vẫn biến mất không một dấu vết. 

Nghe đâu, họ có nhắc đến cha tôi, nhắc đến những lễ hội minh thề trước đây. Lời thề ấy, thường thì nó chứng nghiệm, cùng với giọng đọc đầy hào khí của cha tôi, khiến cho họ cảm thấy sợ mà thực thi lời thề rất nghiêm túc. Từ ngày cha tôi biệt tích, những người sau được cử lên đọc lời thề không còn mang âm vọng, thần khí hào sảng như cha tôi được nữa. Bất giác từ đó, lời thề cũng mong manh như gió thổi qua rồi bay biến mất không một dấu vết như cha tôi vậy. Mẹ tôi vẫn luôn sầu muộn, nằm mê nói mớ mỗi đêm. Có khi bật dậy như kẻ mất hồn giữa khuya chỉ để lẩm nhẩm lời thề cha tôi đã từng đọc. Tôi chẳng thể nào nhớ hết từng ngôn lời tắc nghẽn thẳm sâu đó. Trong bóng tối, có những ngôn lời cũng phải chết. 

Lời thề ám ảnh bám riết lấy tôi, như một lời nguyền. 

Tôi bị ám ảnh bởi khuôn mặt sầu muộn của mẹ tôi mỗi đêm sau song cửa tràn gió. Tôi vẫn không muốn nhớ đến nàng, nhưng tôi thường xuyên mở chiếc hộp gỗ nhỏ. Nơi tôi đã cất giấu những lá thư của nàng. Thỉnh thoảng, tôi nghĩ về chiếc lưỡi đã bị chôn của mình ở trong khu rừng vắng nằm sau dãy núi uốn lượn hình chữ S. 

Một đêm trăng sáng, tôi rấm rứt quyết định quay trở lại khu rừng ấy. Tôi dứt khoát phải đào chiếc lưỡi ấy lên và ngắm nghía nó. Biết đâu, tôi sẽ tìm thấy cha. Biết đâu, lời thề quay trở lại. Biết đâu, tình yêu giữa tôi và nàng có một kết cục khác bình yên dịu dàng hơn. Biết đâu, mẹ tôi không còn sầu muộn hằng đêm nữa. Biết đâu, tôi sẽ là người thay cha đọc lời thề ấy ở dãy núi hình chữ S này. Biết đâu, sự chứng nghiệm của luật nhân quả quay trở lại thêm một lần nữa, để người ta có thể tôn trọng những lời thề thiêng liêng trầm vọng từ trời cao xuống mặt đất, thấm vào máu thịt ngàn đời. Tôi nghĩ thế, và tôi chỉ muốn trốn nấp, lẩn khuất vào trong mây. Nhưng, rồi tôi lại chần chừ nghĩ ngợi rằng, có thể tôi sẽ say lạc trên những con đường núi hẹp quanh co mỗi lần rời khỏi nhà vào đêm trăng sáng. 

Tôi đến khu rừng hoang lạnh. Tôi đào chiếc lưỡi của mình lên và ngắm nghía nó, rồi tôi tự thắc thỏm không thành tiếng, chỉ nghe vọng lại những âm u trầm đục ở cõi buồn thăm thẳm. 

Liệu, lời thề có phải là một bản giao ước màu đỏ và rỏ đầy máu tươi?

Tôi quay trở lại khu rừng hoang lạnh. 

Đêm trăng sáng và đỏ. Những ngón tay tôi bết đất. Những tảng đất mềm thụng xuống, để lộ ra chiếc lưỡi đã rửa nát và chuyển sang màu đen xì. Chiếc lưỡi vô dụng của tôi. Chiếc lưỡi không thể giữ lời hứa hẹn của tôi. Đột nhiên, tôi phát hiện, một chiếc lưỡi khác nằm bên cạnh. Đất bết vào lởm khởm, nhưng vẫn dễ dàng nhận ra, nó đỏ như máu. Tôi lẩn thẩn, tự hỏi, tôi nhớ tôi không hề chôn chiếc lưỡi này bao giờ. Chiếc lưỡi này của ai? Nó đến từ đâu? Sao nhiều người lại muốn cắt lưỡi và đem chôn giống như tôi?

Từ trong chiếc lưỡi lạ, bất giác phóng ra một đám bọt nước màu xanh, như độc dược, chúng bám vào mặt tôi, mắt tôi. Tôi không thể nhìn thấy gì nữa. Bầu trời này. Mặt đất này. Khu rừng hoang lạnh này. Ngọn núi buồn này. Cổ họng tôi, buồn, đau và rát. Tim tôi đập nhanh và mạnh như muốn bứt tung khỏi lồng ngực. Tôi không nhìn thấy gì, tôi không nghe thấy gì, tôi không nói được gì. Tôi mệt rồi. Tôi phải nằm xuống đây thôi, ngay chỗ tôi vừa đào đất để tìm lại chiếc lưỡi của mình và của một kẻ lạ nào đó. Tôi phải nằm xuống đây thôi. Ánh trăng xuyên qua vòm lá quét hẳn lên mặt tôi, mơn man da thịt tôi. Mùa lá rụng đến rồi. Nước mắt tôi rớt xuống đất. Đất mặn và tanh. Tôi hét lên giữa khu rừng lạnh.

Cha ơi, đừng bỏ rơi lời thề.

Rằm tháng giêng. 

Năm đó, mặt trăng đỏ về đêm. 

Trong một khu rừng vắng sau dãy núi S, người làng V nghe một giọng trầm vọng rì rầm từ dưới đất, tỏa lan giữa trời, đập vào vách núi. Chúng lặp đi lặp lại rồi biến mất trong tăm tối. Lời thề từ chiếc lưỡi đã bị chôn vùi, hẳn là nó rồi. Và lời thề quay trở lại, ngắt quãng từng chữ một trong những đêm trăng sáng, như xác thịt bị rỉa dần dưới hoang mộ lạnh lẽo.

Ai dùng…

Ai lấy…

Thần linh ơi…

Người đàn ông thứ hai trong gia đình ấy biến mất không một dấu vết. Thỉnh thoảng, người ta thấy một người đàn bà có hai khuôn mặt, lúc già nhúm nhăn nheo, môi xám, mắt thâm, khi thì trẻ đẹp như cô gái đôi mươi, mắt đen láy hạt huyền, môi đỏ như ăn trầu, đi lang thang trong làng, miệng lẩm bẩm, lấp lửng câu được câu mất, rồi lại khóc tràn những đêm trăng sáng. Vách núi cũng thường vọng về những âm thanh lạ, dù chẳng có một ngôi chùa nào mới dựng lên. Những âm thanh ấy, nghe như lời kinh kệ vọng lại từ ngàn kiếp. Buổi sáng, giữa khu rừng mà chàng trai đã từng cắt lưỡi đem chôn, mặt trời vằn lên những tia lửa âm u đỏ rực xuyên chiếu cả một khoảng mênh mông bất định ở phía sau lưng dãy núi hình chữ S.

Làng V những năm sau này, không bao giờ tổ chức bất kì một lễ hội nào nữa.  

Trần Băng Khuê

*Nguyễn Bính poem:  “Nhà nàng ở cạnh nhà tôi, cách nhau cái giậu mồng tơi xanh rờn”; “her house right by mine, separated by rows of endlessly green malabar spinach”.


Trần Băng Khuê, born in Vietnam in 1982, lived for a period in Auckland, New Zealand. A talented writer and an aspiring artist who currently lives and work in Huế, Vietnam.

Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.

The Blues upon the barb runners

A short story in Vietnamese by Trần Băng Khuê
Translator: Nguyễn Thị Phương Trâm
Translation published first on litviet.net


The Blues upon the barb runners

1.

I saw a black patch of forest, on a sheath of white chiffon.

Then, it was gone. Perhaps, my eyes were tired. Or perhaps, the painting within has been rubbed out so often there was no way I could straight away make out the strokes, the colours together within all the strange illusion.

He’s a writer who has given up writing. He chose the arts to feed his soul. He began drawing after many of his dreams have fallen through the cracks. All of his inspiration shall no longer be in the form of words. They shall be displayed for instant-on canvas, that’s what I believed.

He paints a lot of trees, forests.

I remember a portrait of “a burning forest”. The first time I saw it, I felt as though it was trying to take all that is my spirit, an intense delusion, truths and lies, somewhere there in between. It made me question my existence looking at it. At that moment only the painting was alive. Or did I see myself inside the painting. The flames were burning.

I have to continue with the black dots in the burning forest. They were both light and dark, very peculiar. A few rows of trees escaped the fire, dotted with shades of green; I could still see them clearly in my mind. Besides the black spots, everything else was a blur. I decided to enlarge the picture so I can scrutinise the painting; the black dots gradually became more transparent, revealing itself. I recognized the shape of a dead person from a thousand years ago. 

One figure, then two, the number gradually multiplied, exactly like black strokes of paint on bleach-white linen spreading the colours of mourning wildly like this morning. I was a witness to these mourning colours. They were in strokes, passing in front of me, behind me. They haunt me. They overwhelm me, pressing. Wary, I mumbled, “what are these black spots on the white canvas? Are they the representation of the living in the forest”. Follow is a white shroud over the face of someone in an ambulance; the body coming home to its family. Death of a soul departing shouldn’t be imminently frightening. Death, in the blink of an eye, hides beneath the furrowed brow of the living (left behind).

Aspects of the paint were rolling around in my head, a familiality close to my heart. Yet only until now, I’ve noticed how I’ve deceived myself most devastatingly. They’re not the usual black dots like beauty spots on the eyelids of a woman, that would determine her fate. People especially. People presently. People at the centre. Like the great thinkers over the last centuries have concluded: “the people at the centre of the universe”. No matter how big the universe, no matter how infinitely it would still revolve around this mystical mind of humanity. A shame really, I’ve chosen to point out the black dots on the white canvas to ponder about the shape of humanity, resulting in other wavering disappointment within myself. They are dotted in black in a forest in shades of green, like the shape of a person, turning into target boards, arranged between the rows of trees.

These kinds of thoughts sadden me. But, the image I happened upon of the stretcher pulled out from the ambulance this morning near the cafe was more depressing—the shroud over the face. The white linen canvas that the writer slash artist I’m acquainted with often used to paint with, they have something in common. He uses either black or red paint. He painted all that one would call defects of humanity, that is in all living things. It turns out, now I know, humanity doesn’t appear exactly in a way that is in accordance with our thoughts or our imagination. It was clear, the description of his thoughts on the framed linen cloth is always folded over in parts. As though the scratches have never healed. The idea of a writer not wanting to use words to write sometimes lives very well on painting. The black dots. They are like target boards in a shooting academy that has been numbered accordingly. The lines of light green trees. A light blue sky. But, the sunlight was a blaring yellow, so poignant it hurts the eye.

I know, the summer sunlight is always a blaring yellow, sap melting. No one wants to look up at a sap melting Sun. All gooey. After leaving the cafe that morning, I consolidated my thoughts of the stretcher and the white shroud on the face of the lifeless body. I returned home, rounding up the black dots on the painting freshly painted by the artist. They indeed remind me a little of a patch of forest and a huge storm that had passed by here. A summer storm. The storm in the painting was dabbled with faces of people or demons in black oil paint. 

Tonight, I will turn the volume low, me and me alone in the dark looking for the light. I will carefully listen to every note in Mass in B Minor, a free-flying piece by Bach at my desk. There, the world belongs to me. Tonight, I shall listen to it and wait for the black dots to fold over, break up nicely or crack open, a void of the strokes of fresh paint yet dry, upon the whiteness of a new painting, just completed by the artist slash writer. An idea can start from there. Even as it’s figuratively how he implemented his work. Summer. The year troopers were carried upon stretchers, faces covered with white shrouds. Blaring wilting yellow sunlight. The beady dots of mystical colours have turned into colours of stray cats’ eyes in the dark sound night in the sky.

“to nurture death. Acrylic on linen. 100x80cm”.

2.

Last week I wrote about a painting shot to death in a forest. There has been any critical feedback from anyone; it’s a small curiosity, but, I wanted to implement something by choosing an objective for a story. It was a legitimate worry. These are not comfortable emotions. Exactly how I had once written about a similar incident. For instance, a bottle trapped inside a lemon yellow alcohol bottle or a bunch of caterpillars imprisoned inside a jar. Even after that, no one gave me any feedback either. Or also when they did, it was lacklustre.

The nagging returning feeling continued to plague me, even though there was no single feedback about the painting shot dead in the forest after sending it to someone I trust. An older friend was still signing Giã day…month…year, but after the exchange, there was no word from him. He’s someone who knows how I like to conjure up fancy bold letters to convey a message hidden under the disguise of harsh life in the mind of the public.

It’s been more than a week, and I’ve not made a mention of the painting shot dead in the forest. I believe I should leave it for someone else to continue the delusion or “to nurture death” upon the white chiffon sheath. But, tonight, I woke up suddenly, with images of the painting. I thought about my creation of death. And, I also wanted to know the content of the feedback. Even though it was a singular query, why should a painting need to be shot dead? Or why is there a need to imprison a wall, as to why is there a need to seal caterpillars in pots or jars?

I thought about asking Giã about all this as well.

Giã has gone before me, in search and has experienced many adventures before we’ve met. Giã is inept at flipping any moment, enlightening any mood, mystically injecting beauty, holding onto still the naked bitterness, an intoxication without a need ever to set a foot upon the summit of any mountain.

I didn’t contact, or message, not even a single response after Giã asked me about the painting shot to death. I decided to stay silent. After an entire fortnight. In conflicting states of mind, I had resolved to write to Giã once I come out of the bout of melancholy. But then I never did, I remained silent.

One more night of restlessness passed by, and it was already the beginning of the third week.

Me being silent, not because I wanted to stay silent. Perhaps silence was the answer to my questions, the source of everything that takes place in this world. But in this case, has never been correct, the case of the painting being in constant danger. To be or not to be. Giã will understand why I’m silent. Sooner than later Giã will understand.

Tonight, I won’t hide in this room to ponder about the walls. I’ll spare a moment for a stroll around a new park in the middle of town. After some time it has been mysteriously covered up by community heads, suddenly it was opened, revealing, in the end, the bland hollow space. The row of trees there for years had disappeared without a trace. In its place a vulgar water feature, a statue, a raised stage and a crowd hovering around some cheap production.

Overwhelming was the disappointment. I tried to remember where they once were, the tall trees, the witness of vows of love for the young. They’ve disappeared. The silent bodyguards in my world have disappeared. It was difficult to describe this loss. Within the laden emotions, I couldn’t take more than a few more steps towards the water fountain, watching the squirting water rise then fall. I made up my mind to return to my rented room. After all, facing your own shadow, staring at a wall to imagine, using the wall as a huge projection screen. I may be able to imagine the tall trees. They shall exist as I know it. Right there, inside my head.

My room in the boarding complex is right next to a small church. Tonight, people are singing. Tonight, the trees are in songs—tonight, I’m listening to the high notes in a piece by Bach, Mass in B Minor in this church.

My room at the moment contains the wind, not the song. The wind is pounding at the window, as though someone was knocking. I unlatched the door, looked out and it was strange. The trees in the delusional forest in my mind began to pop up slowly in front of me. Before you know it, they were crowding through my window, sprouting roots, branches, leaves, and covering the whole room. Confidently the branches headed straight for my face, invaded the top part of my body. It turned out, like a parasite I’ve become a source of life, the life that’s been ripped from them by other people. I accepted it, silently receiving it. Because to me, they are like beautiful fresh lungs; they help me to breathe better at night. And, of course, I also love them, like the way Giã loves the paths in the village in a desolate place that’s of his own.

I know, the soil is no longer their home, soon, they shall, in turn, settle in the faces of people, roots anchored in human flesh to survive after having their life cut short. I thought about writing another piece similar to the painting being shot to death in the forest, after sending it to Giã, then wait for any kind of feedback from anyone that may have their hands on it. But I couldn’t do it. My tale of “a forest being assassinated” had ended with scattering thoughts after I had stepped away from that stripped bare park.

The crystal clear morning of the first day of the third week, those living around the new park discovered something odd, a forest growing upon a writer was ambushed and assassinated right inside his room at x district, y street, z corner.

3.

The barb runners unfocused like a wisp of smoke, disappearing into the motionless form already framed, in front of me a dying afternoon, a blanket of grey fell upon Domain hill. A small, pretty hill only six miles West of town, but far away from the familiar seafood I’m used to an entire sea apart. I don’t know why I love this little hill so much. There’s a tropical garden in the middle of it, where I’ve found fruits from home. But oddly, what I most look forward to and watch with interest are not the fruit trees, but the barb runner hidden in the oddly shaped clouds. 

Beneath the barb runners was a patch of a breathless sea mourning the fish floating bloated bleaching white the burning sunlit shoreline. I didn’t want to think about the boats turned upside down in sad frowns nestling at the back of the tiny fishing village. Leave me in peace, let me enjoy that endlessly clear blue, that barb runner, with it, fathom fragility, and find out where they were at in what unanimated place.  

The blues upon the barb runners rising in vicious waves forcing frothy white slaughter upon the shorelines away from the heart of an endearing sea somewhere within my yearning for eternal life. Ultimately, the sea shall endure, the Blue artist, through his eyes sown the seeds of the unmoving images, with a bunch of colours, drew dreams and hopes in bestowing symbolism. And, the blues may turn into a deep red like dried blood still hinting of the stench of dead fish, their eyes still wide open? I pretended to ask the Blue artist again, when shall there be an end to the constant sprouting of sadness from the bottom of the sea in our country?

He pointed at the unmoving image, then quietly disappeared into the dense night. Tomorrow will be a bright day. I reached over and turned off the light, in the whispers of flickering disappearing light in front of me, repeated once more the words of repentance from just before the flock of birds were lost in a flash in the chill.

“Tomorrow the sky will be blue and bright”.

Another barb runner threaded itself gently through my dream, settled quietly, sobbing, continued to connect, continued to string the blues, in every layer of beautiful display, full of undercurrents.

Who can live with mere dreams? Who can die from dreaming? The unmovable images inside the painting of the artist showed itself, in flickering sadness, to then disappear without a trace in my dream. Nothing left but the barb runners. They were thrown into the sky, turning into thousands and thousand squares of mesh. Squares of mesh framing the night, gliding across the sea, surrounding it, wrapping up the destinies, the dark faces, the thin boney white bodies, the hollow eyes deep as the chasm of hell, the waiting footprints of birds upon the shore. The barb runners never shall wrap themselves around the cold hardened iron faces like those on metallic cold coins.

All of them. The barb runners are still trying to rescue and restore the fragility of the blues in a bleak sky.

Gosh, my poor blues.

The bottom of the sea forever sound, sombre with regrets, the quiet nostalgia, refusing to leave me returning from a long-gone childhood. I have been chasing it, for a long time now, not wanting to bear the pain, not caring for dreams of smiling again sound within sleep at the depths of night. Yet, here I am, tossing around old memories dreaming of odd sadness, the blues, clear, clean. There, the school of small fish don’t have to gasp for air in seasons of suffocating air. There, the school of big fish don’t have to drift into shore, red-eyed in the shallow begging for help. Honestly, I can no longer hold back the words of anguish, “when shall this shimmering sadness, the blues at the bottom of my eyes cease to be”.

The net of night, draping in indescribable achings. The unmovable images continued to invade the spirits of those who sense them. The blues, in haunting dreams, hovered above the guy and me, with the face of a fish slowly crawling up the top of the mist in the distance, to then throw himself back into the bottom of the sea.

The long days are dense with sadness. Death climbing up into the sky, turning into barb runners, weaving a giant net, engulfing everything around the lifeless body in a painting by the artist – the writer named Blue. Nothing exists except for a painting in a boarding room in x town, y road, z corner.

June 2020

Nỗi buồn Xanh trên sợi dây gai

1.

Tôi thấy một khu rừng màu đen, trên nền tấm voan trắng. 

Sau đó, tôi không nhìn thấy nữa. Có thể, mắt tôi hơi nhòa. Hoặc, bức tranh đã bị bôi xóa quá nhiều những ẩn tượng khiến tôi không tài nào nhận diện được ngay lập tức về nét vẽ, nước màu cũng như tất thảy thứ ảo giác kì lạ này.

Anh ta là một nhà văn vừa bỏ nghề viết. Anh ta chọn hội họa làm nơi nương náu cho linh hồn mình. Và anh ta bắt đầu vẽ, sau một lần chết hụt với những giấc mơ. Tất cả mọi ý tưởng của anh ta sẽ không còn định dạng dưới form chữ nữa. Chúng sẽ được diễn tả trên khung vải bố chẳng hạn, tôi nghĩ thế. 

Anh ta vẽ rất nhiều về cây cối, về những khu rừng. 

Tôi nhớ, bức “Khu rừng cháy”. Lần đầu tiên nhìn thấy nó, tôi luôn có cảm giác rằng, nó đang cố tìm cách lôi kéo mọi linh thức của tôi tập trung vào sự mờ ảo, thật thật giả giả bên trong đó. Tôi đã từng hồ nghi sự tồn tại của mình khi ngắm bức tranh. Trong không gian này, chỉ có mỗi bức tranh tồn tại. Hoặc tôi thấy chính tôi ở giữa bức tranh. Những ngọn lửa đang cháy. 

Tôi phải nói tiếp về những chấm đen trong khu rừng cháy kia. Chúng vừa là ánh sáng vừa là bóng tối. Trông chúng rất kì quái. Vài hàng cây thưa thớt còn sót lại, điểm xuyết màu lá xanh nhạt, tôi vẫn nhìn rất rõ. Riêng, những chấm đen thì mờ ảo. Tôi quyết định phóng to màn hình, sau đó nhìn thật kĩ bức tranh, những chấm đen mới dần dần hiển thị không một chút giấu giếm. Tôi nhận ra cái bóng của kẻ đã chết từ ngàn năm trước. 

Một cái bóng, rồi hai cái bóng, chúng bắt đầu nhân lên, hệt như một vệt sơn đen quệt xuống nền vải bố trắng hoang hoải màu tang tóc. Như sáng nay. Tôi đã thấy, màu tang tóc ấy. Chúng đã quệt qua mắt tôi, ở phía sau lưng tôi. Chúng ám ảnh. Chúng khiến tôi thảng thốt, trĩu nặng. Tôi lẩm nhẩm nghi hoặc, “những chấm đen trong bức tranh trên nền vải bố trắng ấy là gì nhỉ? Chúng liệu có phải là đời sống hiển hiện trên mặt đất bây giờ, trong khu rừng nọ”. Tiếp đến, mới là một tấm vải liệm màu trắng đắp lên khuôn mặt và thân thể một kẻ vừa được chiếc xe cấp cứu của bệnh viện trả về với gia đình. Cái chết, nhiều khi không đáng sợ ở việc một ai đó vừa ra đi. Cái chết, chấp chới trong ánh mắt, núp níu dưới đôi lông mày nhíu lại của những người còn sống. 

Bức tranh nhập nhằng lẫn lộn trong não tôi một vài ý niệm, tưởng chừng như những ý niệm đó rất quen thuộc và không hề xa lạ chút nào. Vậy mà, trong khoảnh khắc này, tôi mới biết mình đang tự đánh lừa tri giác một cách thê thảm nhất. Chẳng phải là một chấm đen bình thường như những nốt ruồi số mệnh trên khóe mắt người đàn bà. Con người cụ thể. Con người hiển thị. Con người trung tâm. Như những cái đầu qua rất nhiều thế kỉ đã kết luận rằng: “con người là trung tâm của vũ trụ”. Hẳn thế, vũ trụ này dẫu có rộng lớn, vô biên đi chăng nữa vẫn chỉ xoay quanh bộ não thần kì của con người. Đáng tiếc thay, khi tôi chọn điểm nhấn là những chấm màu đen kia trên tấm vải bố trắng để ảo tưởng hóa về hình tượng con người, thì tôi lại thất vọng về một ảo giác khác đang chập chờn bên trong não mình. Chúng, những chấm màu đen trong khu rừng xanh nhợt kia, như một hình hài của con người, bỗng chốc trở thành hàng loạt tấm bia bắn, được xếp xen kẽ theo từng hàng cây. 

Thứ ý nghĩ này, làm tôi buồn rũ một chút. Nhưng, hình ảnh chiếc băng ca chuyển từ trên xe cứu thương xuống sáng nay mà tôi đã bắt gặp gần quán cafe ấy thì càng u ám hơn nữa. Tấm màn trắng phủ lên mặt người. Tấm phông trắng của khung vải bố mà anh nhà văn-họa sĩ tôi quen vẫn thường hay vẽ, chúng có gì đó tương đồng. Anh vẽ toàn màu đen hoặc màu đỏ. Anh vẽ toàn những hình thể khiếm khuyết của con người, của vạn vật sinh linh. Hóa ra, bây giờ tôi mới biết, con người không hẳn hiển thể ở một dạng nào đó theo ý niệm hoặc trí tưởng tượng của chúng ta. Rõ ràng, sự diễn tả ý niệm và ý tưởng của anh trên khung vải bố luôn gấp khúc. Như những vết xước chưa bao giờ liền sẹo. Ý tưởng của một nhà văn không muốn dùng chữ để viết đôi khi lại sống rất tốt trên một bức tranh. Những chấm đen. Chúng như những tấm bia trong trường bắn đã được đánh số thứ tự. Những hàng cây xanh nhợt. Một bầu trời xanh nhợt. Vậy mà, nắng thì vàng vọt, ám ảnh đến đau cả mắt. 

Tôi biết, nắng mùa hè bao giờ cũng vàng vọt và chảy nhựa. Chẳng ai muốn ngước mặt lên chỉ để ngắm một mặt trời chảy nhựa. Nhão nhoét. Sau khi rời quán cafe sáng, gom vào cái điểm nhớ hình ảnh của chiếc băng ca cùng với tấm khăn trắng phủ lên mặt người. Tôi trở về nhà, gom tiếp những chấm màu đen trên một bức tranh vừa vẽ của anh họa sĩ. Chúng quả thật khiến tôi nghĩ ngợi đôi chút về cánh rừng và những hàng cây nằm ngang dọc bởi một cơn bão lớn ghé qua nơi ấy. Bão mùa hè. Bão trong bức tranh có những vệt sơn dầu màu đen không rõ mặt người hay quỷ dữ. 

Đêm nay, tôi sẽ vặn nhỏ volume, tôi và chỉ một mình tôi trong bóng tối tìm kiếm ánh sáng. Tôi sẽ lắng nghe những nốt nhạc trong bản Mass in B Minor bay bổng của Bach bên cạnh bàn giấy. Nơi đó, thế giới thuộc về tôi. Đêm nay, tôi sẽ nghe nó và chờ những chấm đen gấp khúc, gãy gọn hoặc trầy xước, trống hoác với nét sơn mới chưa kịp khô, trên nền trắng một bức tranh mới, vừa vẽ xong của anh họa sĩ -nhà văn. Ý tưởng cũng có thể bắt đầu từ đó. Dù rằng, nó tượng hình bởi cái cách mà anh ta đang thực hiện. Mùa hè. Năm của những chiến binh nằm bất động trên một chiếc băng ca được phủ khăn trắng. Nắng vàng héo hắt. Những viên bi màu hạt huyền của chúng ta đã hóa thành mắt mèo hoang trong đêm sâu thăm thẳm của bầu trời. 

“nuôi dưỡng cái chết. Acrylic trên bố, 100x80cm”. 

2. 

Tuần trước tôi viết về việc một bức tranh bị bắn chết trong rừng. Không ai phản hồi gì, dù chỉ là một thắc mắc nhỏ, rằng, tôi muốn thể hiện điều gì từ cách chọn đối tượng cho một câu chuyện. Tôi nghĩ, tôi đang khá là lo lắng. Thứ cảm giác này không thoải mái chút nào. Hệt như khi tôi đã từng viết về những câu chuyện tương tự. Chẳng hạn, bức tường bị giam trong một chai rượu màu vàng chanh hoặc bầy sâu bị nhốt trong jar. Và sau đó, chẳng ai phản hồi gì về những thứ tôi viết. Hoặc nếu có, cũng rất nhạt nhẽo.

Cảm giác này quay trở lại quấy nhiễu tôi, khi tôi chẳng hề nhận được một sự phản hồi nào về bức tranh bị bắn chết trong rừng sau khi gửi nó đến nơi đáng tin cậy. Người bạn viết lớn tuổi của tôi, vẫn thường kí tên Giã ngày…tháng… năm khi hoàn thành tác phẩm thì lại lặng im. Hẳn là bạn hiểu câu chuyện tôi vẽ vời bằng vài ba chữ hoa mĩ nọ đã truyền tải được thông điệp ẩn giấu dưới lớp vỏ ngụy trang của một đời sống khắc nghiệt từ trong tâm tưởng tha nhân. 

Đã hơn một tuần, tôi không nhắc nhớ gì với bạn về bức tranh bị bắn chết trong rừng ấy nữa. Tôi nghĩ, tôi nên để cho kẻ khác tiếp tục làm công việc tưởng tượng hoặc “nuôi dưỡng cái chết” trên những tấm voan trắng. Nhưng, đêm nay, khi bất chợt tỉnh giấc, tôi lại nghĩ về bức tranh. Tôi nghĩ về việc tôi tạo ra cái chết của nó. Và, tôi lại mong muốn được nhận biết sự phản hồi. Dù chỉ là một câu hỏi duy nhất, tại sao phải bắn chết bức tranh? Hoặc tại sao phải giam hãm một bức tường, và tại sao phải nhốt bầy sâu mọt lại trong những bình những hũ kín có nút đậy? 

Tôi dự tính, sẽ gửi thắc mắc này cho Giã

Giã đã đi trước tôi, tìm kiếm và trải qua nhiều cuộc phiêu lưu trước khi gặp tôi. Giã biết cách để biến những hoá thể, của thế giới trở nên sinh động, đẹp huyễn hoặc một cách thần kì, kể cả đó là những đắng cay trần trụi, mê muội của giống loài mãi không thể nào chạm được cái gót chân đến đỉnh núi. 

Tôi không nhắn gửi, không liên lạc gì, không một tín hiệu trả lời khi Giã chủ động hỏi tôi về câu chuyện một bức tranh đã bị bắn chết. Tôi quyết định im lặng. Sau hai tuần trọn vẹn. Tôi ngụy biện rằng tôi sẽ viết cho Giã khi tôi qua cơn trầm uất này. Vậy mà, tôi lại tiếp tục lặng im. 

Thêm một đêm hốc hác nữa sẽ qua ngày đầu tiên tuần thứ ba. 

Việc tôi lặng im, không phải vì tôi muốn lặng im. Có thể lặng im sẽ là cách duy nhất để tôi tự thông suốt một vài thứ khúc mắc, hay nguồn cơn mọi sự trên đời. Dĩ nhiên, điều đó chưa hề đúng vào hoàn cảnh này, cái hoàn cảnh mà những bức tranh luôn luôn bị rơi vào trạng thái nguy hiểm. Tồn tại hay không tồn tại. Giã sẽ hiểu tại sao tôi lặng im. Sớm thôi, giã sẽ hiểu. 

Tối nay, tôi không ẩn náu trong căn phòng này để suy nghĩ về những bức tường. Tôi dành ra một chút thời gian để đi dạo quanh công viên mới hoàn thành ngay giữa trung tâm thành phố. Sau một khoảng thời gian bị những người có trách nhiệm với công trình cộng đồng quây bạt che giấu cho ra vẻ bí hiểm, đầy tính chất bất ngờ, cuối cùng công viên cũng đã phơi lộ một thân hình rỗng tuếch, nhạt nhẽo của nó. Những hàng cây cao lớn lâu năm ở đó tự bao đời, bỗng biến mất không còn bất kì dấu vết nào. Thay vào đó là một cái đài phun nước bèo bọt, một bức tượng, một cái sân khấu trò chơi với một đám đông đang vây lấy màn diễn rẻ tiền. 

Cảm giác hụt hẫng ùa tới. Tôi hồi tưởng lại vị trí của chúng, những hàng cây cao lớn đã từng chứng giám một lời thề nguyện cho tình yêu của người trẻ. Chúng đã biến mất. Những chàng vệ sĩ thầm lặng trong thế giới của riêng tôi đã biến mất. Thật khó để diễn tả cảm giác mất mát này. Tôi buồn đến nỗi không muốn dấn thêm dăm bước chân nữa để đến gần cái đài phun nước, nhìn những tia nước bắn lên tụt xuống. Tôi quyết định quay lưng trở về phòng trọ. Dù sao, đối mặt với cái bóng của mình, nhìn chằm chằm vào bức tường để hồi tưởng. Xem bức tường như một cái màn chiếu lớn. Tôi sẽ hồi tưởng về những hàng cây cao ấy. Chúng đã tồn tại như tôi biết. Ở ngay đây, ngay trong trí não tôi lúc này. 

Căn phòng trọ của tôi nằm kề một ngôi nhà thờ nhỏ. Đêm nay, người ta hát. Đêm nay, những hàng cây đang hát. Tôi lại nghe những nốt nhạc cao vút trong bản Mass in B Minor của Bach trong nhà thờ đó. 

Căn phòng của riêng tôi bây giờ, chỉ có gió không hát. Tiếng gió đập vào cửa sổ, hệt như ai đó gõ cửa. Tôi gạt chốt cửa, nhìn ra ngoài và tôi thấy sự lạ. Những khu rừng ảo ảnh lần lượt mọc lên trước mắt tôi. Chúng bắt đầu nhanh chóng len lỏi qua cửa sổ, trổ rễ thân, cành, lá, trùm kín cả căn phòng, rồi mạnh mẽ tiến thẳng vào mặt tôi, chiếm giữ từng phần trên cơ thể tôi. Hoá ra, tôi bây giờ lại trở thành thứ để chúng kí sinh sự sống đã bị tước đoạt của một bầy người khác. Tôi nhận lấy, tôi lặng im đón nhận chúng. Dù sao, đối với tôi chúng là những lá phổi hữu ích tươi đẹp, chúng khiến tôi dễ thở hơn trong đêm tối. Và, dĩ nhiên, tôi cũng rất yêu chúng, như cách mà Giã yêu những con đường làng trong miền hoang dã của riêng Giã vậy. 

Tôi biết, chúng đã không còn đất để cư trú, sớm thôi, chúng sẽ lần lượt tìm đến những khuôn mặt người, bám rễ lên thân người để tiếp tục sự sống bị tước đoạt. Tôi định viết một câu chuyện khác tương tự như bức tranh bị bắn chết trong rừng, sau đó gửi Giã, đợi sự phản hồi từ những ai đọc được nó. Nhưng, tôi không thể làm được nữa. Câu chuyện về “những khu rừng bị ám sát” của tôi chỉ mới dừng ở cái ý nghĩ vụn từ khi tôi bước chân ra khỏi công viên trần trụi đó. 

Buổi sáng trong lành của tuần thứ ba, những kẻ sống gần công viên mới xây dựng xong xì xào với nhau về việc họ phát hiện ra điều kì lạ, một khu rừng đã bị tập kích và ám sát rất nhanh gọn trên cơ thể một gã đàn ông viết văn ngay trong căn phòng trọ của anh ta trên phố x, đường y, ngõ z. 

3.

Sợi dây gai mong manh như một vệt khói mờ ảo, tan lẫn vào khối hình hài bất động đã được đóng khung trước mặt tôi trong một chiều nhạt nhòa bắt đầu phủ màu xám tối xuống đồi Domain. Một ngọn đồi nhỏ và đẹp nằm về phía tây thành phố cách khoảng sáu dặm đường, nhưng cách những hàng dương quen thuộc của tôi cả một đại dương. Tôi không biết tại sao tôi lại yêu mến ngọn đồi này. Phía bên trong chúng là một khu vườn nhiệt đới, nơi tôi có thể nhìn thấy những loài cây trái của quê hương. Lạ lùng thay, thứ mà tôi chăm chăm quan sát hoặc mong chờ một chút cảm giác nào đó không phải đám cây cối kia, mà chính là những sợi dây gai ẩn nấp trên các đám mây có nhiều hình thù kì lạ. 

Dưới sợi dây gai ấy là một mảng màu của đại dương ngờm ngợp hơi thở tang tóc mùa cá nổi trắng bờ nắng rát. Tôi không muốn nghĩ về những chiếc thuyền úp ngược hình cánh cung buồn sau lưng nhà ở một làng chài nhỏ bé nữa. Hãy để tôi lặng yên, ngắm nghía thứ màu xanh trong suốt này, sợi dây gai ấy, cùng với nó, tôi sẽ nghiệm ra những mong manh, và sẽ tìm biết được chúng đang nằm ở lằn ranh nào nơi hình hài bất động kia vậy. 

Nỗi buồn xanh chầu chực rồi dâng lên như cơn sóng dữ đang cố dồn nội lực tấp hết bọt trắng vào bờ đuổi xua cái chết khỏi lòng đại dương đáng mến của riêng tôi từ đâu đó trong những cuộc tồn sinh bất diệt. Hẳn là, đại dương phải sống, anh họa sĩ Xanh đã gieo mầm xuống hình hài bất động này bằng con mắt biết nói, bằng một nhúm màu sắc mong mỏi hi vọng như thứ người ta tưởng ban cho ý nghĨ về biểu tượng. Rồi, màu xanh liệu có thể hóa thành đỏ thẫm như giọt máu khô chưa hết mùi tanh nồng của những con cá chết không nhắm mắt? Tôi vờ vĩnh hỏi lại anh họa sĩ Xanh, liệu bao giờ mới hết những mầm buồn khổ đâm lên tua tủa từ đáy đại dương quê mình? 

Anh chỉ về phía khối hình hài bất động ấy, rồi lặng im trốn biệt trong bóng đêm vây bủa trùng trùng. Mai trời sẽ sáng. Tôi với tay tắt ngọn đèn, thì thào dưới làn ánh chớp vừa mới lùa qua trước mặt mình, lặp lại thêm lần nữa những từ ngữ sám hối lúc nãy với bầy chim vừa bay lạc trong cơn rét vội vã.

“Mai trời sẽ sáng và xanh”. 

Một sợi dây gai khác, mong manh xuyên qua giấc mơ tôi, nằm lặng yên trong giấc mơ tôi, thổn thức, kết nối và tiếp tục lùa nỗi buồn xanh vào từng nếp gấp của thế giới đẹp đẽ phô diễn, nhưng đầy sóng ngầm này.

Ai đã sống từ những giấc mơ? Ai sẽ chết bởi những giấc mơ? Khối hình hài bất động trong bức tranh của anh họa sĩ kia lại hiển thị, chập chờn chơi một vũ điệu buồn, rồi biến mất không một dấu vết trong giấc mơ tôi. Chẳng còn gì ngoài sợi dây gai ấy. Chúng được tung lên trời, hóa thành muôn ngàn mắt lưới. Những mắt lưới đóng khung trong đêm tối, lướt qua đại dương bủa vây những thân phận, những khuôn mặt đen, những cơ thể gầy guộc xương trắng, những ánh mắt sâu hoắm như hố thẳm địa ngục, những dấu chân chim chờ đợi trên bờ. Sợi dây gai không quấn quanh những kẻ mặt sắt thở rặt hơi đồng mê muội. 

Tất thảy chúng, những sợi dây gai ấy đang cố níu với, cứu vớt sự sống mong manh của một nhúm nỗi buồn xanh trên bầu trời ảm đạm. 

Ôi, nỗi buồn xanh đáng thương đáng tội của tôi. 

Đáy đại dương thăm thẳm, trầm đọng lại những tiếc nuối, những hoài vãng dịu dàng không chịu rời bỏ tôi đi từ tháng năm xa ngái nào đó một thời non trẻ cho đến tận bây giờ. Tôi đã đuổi theo nó rất lâu, rất lâu rồi, hòng không phải chịu đớn đau, hòng mơ lại nụ cười trong giấc mộng tràn dưới đêm sâu. Vậy mà, ngay lúc này đây, tôi vẫn phải đòng đưa với những gì đã cũ để mơ một nỗi buồn xanh khác lạ lẫm, trong suốt, sạch sẽ. Ở đó, bầy cá nhỏ sẽ không còn phải ngắc ngoải thở những mùa không khí chết. Ở đó, bầy cá lớn sẽ không còn phải trôi dạt vào bờ, mắc cạn giương đôi mắt đỏ cầu cứu. Thật tình, tôi đã không thể kìm chế lòng mình mà thốt lên lời than vãn, “nỗi buồn xanh này bao giờ mới thôi lấp lánh dưới đáy mắt tôi mỗi ngày”. 

Đêm bủa lưới, gieo rắc những cơn đau lạ kì. Khối hình hài bất động ấy vẫn chiếm giữ lấy linh thức của những kẻ cảm biết được chúng. Nỗi buồn xanh, ngờm ngợp trong giấc mơ ám ảnh của tôi là một gã đàn ông, thân người mặt cá đang chầm chậm trườn bò lên đỉnh mù sương heo hút, chỉ để gieo mình xuống đáy đại dương. 

Những tháng ngày dài trầm mặc. Cái chết leo lên đỉnh trời, hóa thành những sợi dây gai, đan bện một chiếc lưới khổng lồ. Chúng bắt đầu tung ra và bủa vây tất thảy mọi thứ hiện hữu bên cạnh một xác chết trong một bức tranh của gã họa sĩ – nhà văn có tên là Xanh. Chẳng còn bất cứ điều gì tồn tại. Chỉ trừ một bức tranh trong căn phòng trọ nằm ở phố x, đường y, ngõ z. 


Trần Băng Khuê

Trần Băng Khuê, born in Vietnam in 1982, lived for a period in Auckland, New Zealand. A talented writer and an aspiring artist who currently lives and work in Huế, Vietnam.

Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.

Nets

A short story in Vietnamese by Trần Băng Khuê
Translator: Nguyễn Thị Phương Trâm
Art: Trần Băng Khuê

Truyện ngắn                       

Mắt lưới 

Tôi bắt đầu nhìn thấy nó ở khắp mọi nơi. 

Những chốn tôi đã từng dừng chân trú ngụ hoặc chỉ tạm thời thăm viếng dăm ba thời giờ nào đó rảnh rỗi. 

Lần này, tôi lại phải khẳng định thêm nữa, rằng nó không phải là giấc mơ hoặc thứ tưởng tượng chập chờn trong trí não. Tôi đã nhìn thấy nó. Rõ ràng, không một chút mờ ảo, khuất tất. Nó sống động hệt như hình ảnh ba chiều. Tôi không nhìn nó bằng mắt. Nó nằm trong não. Tôi nghĩ, nên tập nhìn mọi thứ xung quanh mình bằng não thay vì mắt thường. Não, hẳn sẽ sáng suốt hơn. Nhưng rồi, tôi không còn nhìn thấy nó nữa. Nó đã rời bỏ tôi. Nó đã biến mất khỏi trí não đầy mộng mị của tôi. Nó rời bỏ tôi không một chút thương xót. Những mắt lưới xanh xao, kết nối bầu trời và các vũ trụ song song hiện thể. Những mắt lưới hiển hiện đằng sau cánh cửa vừa mở toang ra nơi lòng biển mà tôi nhận thấy.  

Rồi, bất giác, tôi trở nên chán ghét việc phải suy tưởng về chúng, những mắt lưới lạc lõng đu bám ẩn hiện trên các đốt ngón tay xương gầy uốn lượn, vươn ra tứ phía chỉ để bíu với một niềm tin vô hình về sự hiện hữu của chính mình. 

Tôi, quyết, sẽ rời bỏ những mắt lưới, để nghĩ nhiều hơn về những giấc mơ. 

Hẳn nhiên rằng, tôi phải thường xuyên nghĩ về những giấc mơ. Bởi, một lẽ xác đáng, tôi biết, đó cũng là một thế giới. Giữa tôi và chúng luôn có sự kết nối rất đỗi gũi gần, quen thuộc khó lòng tách rời. 

Tôi bắt đầu mơ về nó. 

Khi tất cả mọi giác quan của tôi chìm dần vào những cơn mê, nó xuất hiện, chĩn chện cười cợt trêu đùa với tôi. 

Thỉnh thoảng, nó biến mất một cách lạ lùng, khiến tâm trí tôi hỗn độn như mớ bòng bong rối loạn, không rõ hình thù, màu sắc. 

Tôi nghĩ đến việc ghét bỏ mọi giấc mơ. 

Những giấc mơ thường chết đột ngột như khi nó đến không cần báo trước. Tôi chẳng còn nhìn thấy nó nữa. Sau một vài cơn va quệt nhẹ với các loại tường. Chúng, những bức tường dựng lên sừng sững ngăn cách tôi và nó; tôi và giấc mơ; tôi và cả chính tôi nữa. Kẻ siêu nhiên lẩn nấp, khuất dạng phía sau những giấc mơ đã bị ảo hóa bởi rất nhiều hình khối, thanh âm giả trá. 

Tôi cần nó xuất hiện đều đặn trong giấc ngủ của mình. Dù rằng, chỉ là một góc tối vụn vặt. Ai đó thường tìm cách thì thào những lời khó hiểu vào tai tôi, trước khi tôi chợp mắt: “mày cần một góc tối. mày cần phải chui ngay vào cái góc đó và ẩn nấp”. Khả dĩ, tôi chiều lòng và quyết định lắng nghe những lời ám thị đó bên tai mỗi đêm, cũng bởi tôi cần, rất cần đến cái góc tối ấy. Tôi phải tìm ra nó, để hỏi một vài câu ngớ ngẩn: “Vì sao, nó có mặt trên thế gian này?”

Một địa điểm không thể tối hơn được nữa so với bầu trời đêm nay. Tôi cần nó xuất hiện và nhốt tôi vào đó. Tôi muốn chạy trốn những mắt lưới. Chúng có màu đỏ, chúng thường xuyên chơi trò vờn đuổi, rồi sau, chụp xuống đầu tôi một cách bất ngờ. Chiếc lưới khổng lồ. Tôi nhớ, mình luôn phải tìm cách chạy trốn chúng, cái mắt lưới biết cười, biết nhễu nhại nhếch mép hoặc thè lưỡi dài ngoẵng đỏ lòm huênh hoang. Thi thoảng, tôi tự trấn an rằng, sẽ chẳng bao giờ sợ chúng. Ấy thế, tôi vẫn cảm thấy thật khó lòng rời bỏ nỗi sợ hãi này, bởi những mắt lưới quỷ ám, chúng, hình như vẫn đang bị cầm nắm, điều khiển bởi một vài bàn tay lấp lửng, vô hình. Tôi thử nghĩ, hẳn là “những kẻ bí ẩn giấu mặt, vẫn thường xuyên tìm cách kết nối với tôi, bằng cách chơi trò đan bện những sợi tơ nhền nhện hòng thít chặt và ràng buộc không – thời gian của riêng tôi lại với nhau, khiến tôi nghẹn thở”. 

Tôi vẫn đang tìm kiếm những nơi có thể cho tôi được quyền trốn nấp. Vì, ít ra, vào lúc này tôi sẽ bớt được những cơn hãi hùng sợ sệt mơ hồ vô lí, khiến đôi chân tôi thi thoảng run lên bần bật. Thế giới bỗng trở nên khó hiểu và bất an hơn những gì tôi biết từ khi mới mở mắt chào đời. Thế giới như những mắt lưới chằng chịt. Xung quanh tôi, sự ích kỉ ngập tràn trong từng con mắt liếc dọc liếc ngang. Họ ngấm nguýt nhau. Họ nheo mắt nhìn nhau một cách cà khịa, ghét bỏ. Họ gầm gừ, đe dọa lẫn nhau mỗi ngày trôi qua đến phát chán trước mặt tôi. Những lần tôi hờ hững lạnh lùng, với nỗi buồn ngập sâu và dậy sóng một cách hồn nhiên trong lòng mình là khi mọi cảm giác đều lặng lẽ chuồi khỏi tâm hồn tôi và lần lượt tắt ngóm, chết dần chết mòn đến thê thảm. 

Chiều nay, tôi không cần cái không gian sang trọng đủ đầy trong căn phòng quét vôi trắng, và phản chiếu bởi ánh đèn màu mờ ảo mà tôi yêu thích nữa. Tôi quyết định hướng ánh mắt mình về phía sân phơi, nơi có chiếc bếp lửa đun củi từ thời tối tăm mù mịt khói. (đến bây giờ vẫn tối tăm mù mịt khói). Tôi nghĩ về góc phòng mẹ dùng làm kho bé nhỏ chỉ để vừa vài chiếc thùng carton ở cuối dãy nhà này. Hóa ra, trong những thứ lớn lao, bấy lâu nay tôi vẫn thường ngẫm ngợi, lại có sự tồn tại của những điều nhỏ bé rất cần thiết. Chúng an toàn hơn nhiều so với cái mắt lưới sắc nhọn đang cố tình vây bủa xung quanh tôi và thế giới này.

Nhưng, chính vì vậy, lại khiến tôi không thể nào thoát khỏi cái mắt lưới ấy. 

Phía sau ngọn núi. Đứng từ lan can này, tôi có thể nhìn thấy hết thành phố. Chiều xuống tự lâu lắm rồi, và đêm đã bắt đầu làm cái công việc thay thế. Nhưng, đêm nay, tất thảy đều ảo mờ trong đáy mắt tôi. Những âm u lên ngôi. Chúng xoạc cẳng, vung tất thảy các mắt lưới khổng lồ ra thâu tóm toàn bộ thung lũng, và thân phận của rất nhiều kẻ mù lòa hoặc cố tình mù lòa. Những mái nhà chỉ là nơi neo buộc tạm thời cho sự sống và cái chết. Có gì để người ta hào hứng khoa trương khoe khoang sự ốm yếu, nhợt nhạt hiển hiện trên khuôn mặt xám ngoét kia. Ngay lúc này, giữa hàng đống thanh âm bộn bề, hỗn tạp, tiếng kèn đám ma bên hông nhà tôi, sát sườn núi càng rõ rệt, thê lương. 

Thời gian trôi đi khá nhiều năm lắm rồi, vậy mà cái mắt lưới ấy vẫn bám riết, ám ảnh và trói buộc tôi không chịu buông rời. Thỉnh thoảng chúng chơi trò xoay chuyển không gian. Nhưng, thật ra cũng chỉ là những bức tường vôi áp vào nhau hòng lừa đảo mỗi người trong căn nhà này từng khoảnh khắc. Chúng len lỏi vào mắt tôi, vào tim tôi, trườn bò lên môi tôi như những giọt mặn từ biển khơi bắn tung tóe không ngơi nghỉ mỗi đêm khuya về khi lên cơn nghẹn sóng. Sóng cũng mắc nghẹn như nỗi đau mắc vào vai áo, dính nhèm nhẹp lên từng sợi vải chẳng thể nào tẩy xóa đi được. Kí ức của tôi, có khi chúng như những giấc mơ tôi đã từng thấy người ta thay nhau leo lên các nhành cây yếu ớt ngoài cơn bão chỉ để buộc chùm khăn tang trong đêm sâu thăm thẳm. 

Ai đó vừa nhắc tôi đi ngủ. 

Tôi cúi đầu. Im lặng. Hẳn là người nhắc tôi đi ngủ sẽ chán ngay thôi. 

Tôi chẳng thể chợp mắt nếu như, chúng: cái đêm sâu thăm thẳm này không chịu chết phứt đi, cái đám hình nhân ảo ảnh này không chịu biến mất đi, hoặc là giả vờ nấp lén đâu đó trong chốc lát thôi cũng được. Tôi sẽ không ngủ, nếu ngoài kia trời vẫn tối, mưa vẫn à ơi ru hời các linh hồn nằm dưới mộ cỏ. Tôi sẽ không ngủ, nếu sau thung lũng này vẫn nhập nhoạng tiếng bọn mèo hoang khóc la thảm thiết. 

Tiếng kèn đám ma bên hông nhà tôi vẫn khò khè kéo rê theo tiếng mưa rơi rả rích trên mái tôn, rớt xuống hiên. Tôi khoanh chân ngồi nghe, như nghe tiếng kinh cầu của núi rừng và của từng nóc nhà u ám dưới những bóng đèn đủ màu nhấp nháy phía thành phố. 

Ai đó lại tiếp tục nhắc tôi đi ngủ. 

Họ thì biết làm sao được về những cái mắt lưới này. Họ luôn luôn tìm cách bắc loa ở các cột điện và nhắc nhở mọi người đi ngủ. Tôi quyết định thức trắng đêm, để xem, những cái mắt lưới bướng bỉnh kia còn định giở trò gì hòng quấy nhiễu giễu cợt tôi như ý muốn của chúng. Người đàn ông ấy lại vừa nhắc tôi đi ngủ. Rõ ràng, người đã nhắc tôi đi ngủ luôn luôn là ông ấy, chẳng phải ai khác. Vậy mà, tôi lại nhìn thấy những cái bóng lúc ẩn lúc hiển hét toáng vào tai tôi át hẳn giọng trầm của người đàn ông quen thuộc. Chẳng có cái mắt lưới nào biết nói. Tiếng kèn đưa đám tiếp tục kéo rê lê thê giai điệu não nề. Tôi không thể nhắm mắt. Người chết thì phải nhắm mắt. Chết mà không nhắm mắt, hẳn đáng sợ lắm. 

Lại tiếng ba tôi lẩm bẩm một mình ngay lan can cầu thang tối: “bầu trời ban đêm như tấm lưới bủa vây”. Tôi giật mình, bên tai tôi lại vang vọng tiếng ai đó nhắc nhở tôi đi ngủ. Lúc này, tôi không thể nào chịu đựng được sự rền rỉ bám riết dai dẳng của cái thứ vô hình đằng sau bóng đêm ấy nữa. Tôi mong trời sáng. Có lẽ khi trời sáng, sẽ mang lại một chút ít cảm giác vượt thoát khỏi những bức bối lặng lẽ của đêm. 

Bốn ngày, năm ngày, sáu ngày, bảy ngày, tiếng kèn đám ma vẫn thổi ò í e dưới chân núi, ngay bên hông nhà tôi. Có thể, kẻ sống quá tiếc thương mà không chịu di dời kẻ chết rời khỏi thế giới này. Hoặc giả, kẻ sống muốn hoài niệm mãi mãi với những xác thịt đang dần dần thối rữa trong chiếc quan tài? Có lẽ, họ sẽ chẳng bao giờ chịu chôn cất cái chết. 

Thung lũng chìm sâu hơn khi những vì sao bắt đầu nhấp nháy như những mắt lưới khổng lồ. Tôi vẫn không thể nào chợp nổi mắt vào ban đêm. Vì vậy, tôi luôn mong mỏi bình minh lên. Căn nhà của tôi lọt thỏm chính giữa thung lũng, như một con mồi vừa lọt vào những mắt lưới của bầu trời ảo diệu. Khe sắt từ các khung cửa sổ len lỏi vài ngọn gió. Có khi, nó chính là dấu hiệu của một sự đổi thay. Tôi so vai lại, đầu nặng trĩu, máu chạy hai bên thái dương tưởng chừng ai đó cầm búa gõ từng nhịp. Buốt như một tiếng chuông. Bên ngoài cánh cổng sơn màu sẫm tối của buổi chiều mưa, tôi nhìn thấy những tia sét. Có thể, chúng sẽ xé toạc cái mắt lưới ấy, kể cả chân mây phía cuối con đường rẽ lối đến mái vòm của chiếc cổng ánh sáng. 

Tôi mơ màng nghe tiếng người đàn ông quen thuộc đang gọi từ phía cửa nhà bếp. Hóa ra, đêm qua, tôi đã lẻn vào góc phòng tối của mẹ và đánh một giấc dài chập chờn đầy mộng mị như kẻ mê hoang bị lạc trong mắt lưới của chính mình. Những chiếc loa phường chễm chệ ngay đầu phố nhà tôi, đến hẹn lại lên. Chúng thường xuyên chăm chỉ phát một bản thông báo ngắn mỗi sáng sớm, chỉ để nhắc nhở mọi người về việc đi ngủ. 

Nets

I started seeing them everywhere.

In places I’ve lived or where I may have spent a few hours.

This time, I had to make sure it was not a dream or passing hallucination. I definitely saw them. Clearly, vividly, it was no surprise. They were  as tangible as though they were in 3-D. I didn’t see them with my eyes. I saw them clearly in my head. I thought, I should practice viewing my surroundings through my mind instead of conventionally through my eyes. The brain is more attentive. But then suddenly, I could no longer see them. They have left me. They were missing from a mind full of dreams. Mercilessly they have abandoned me. The sickly pale bluish nets, the connection between the sky and a parallel universe. The nets just there behind the wide opened door to the heart of a sea that was apparent in my mind.

Then again, when they were around, I would grow increasingly sick of the sight of them in my head, they seemed out of place, around these bony fingers were these twisted nets, stretched across everything, holding onto the intangible faith of their existence.

I, decided, to abandon the nets to embark on finer dreams.

Which means, I had to actively conjure up such dreams. Since, in truth, I knew, there was another world, another plane of existence. Between them were these intimate familial connections, hard to separate.

I began to dream about them.

When all my senses were fully on in these trances, they appeared, round and plump, giggling and playful, ready for action.

Then sometimes, they would irritatingly disappear, my mind was then left in a jittery mess, like Japanese ferns trying to climb up a wall without any kind of discipline or order, undefined in form and colour.

I thought of completely abandoning all my dreams.

The dreams perished the way they appeared without notice. I can no longer see them. After a couple of times gently hitting a few walls. They, the walls erected in my way and they; me and the dreams; and also I and myself. The unsung superhero, hidden behind the dreams, the apparitions, the hallucinations of sounds and voices.

I wanted it to consistently appear in my sleep. Even if it’s in a crumbling dark corner of existence. It was difficult to work out, but someone was trying to tell me something, before I was able to blink: “you need a dark corner. you need to crawl into it and hide”. The reason I continued to give in to the voices every night was probably because I needed that very dark corner. I need to find it, to ask the most oblivious question ever: “Why,  why were there such things in this world?”

A place that couldn’t be darker compared to the sky tonight. I needed it to show up so it may confine me. I wanted to hide from the nets. They come in red, they would often chase me, to then capture me. A giant net. I had to remember, remember to hide from them, from the nets that had a mind of their own, they knew how to laugh, tease, stick out their gruesome long red tongues, and made fun of me. Now and again, I would try to put my foot down, stand my ground, I refuse to be threatened by them. Still, it felt as though at times it was impossible to escape the fear, the demonic nets, it felt  as though someone or something had a hold on them, invisible hands were manipulating them, they were like marionettes. I thought, clearly “they deliberately hid their identity, but wanted to connect with me, by weaving a web that would slowly confine and trap me, eating up my time, squeeze the life out of me”.

I’m still looking for a place to hide. Especially, since, at a time like this I needed to find a way to dampen the unexplained fear that sometimes causes my legs to shake uncontrollably. The world has suddenly become more difficult to understand and more unstable compared to what I’m used to since the day I came into this world. The world is now more like these nets. All around me the overwhelming selfishness in every pair of wary suspicious eyes. They climbed on top of each other. The lingering sardonic faces, the hate. In front of me, they growl, they bicker, they threaten each other, and I’m sick of it. Sometimes carelessly I would shrug off such laden sound-sadness in blows awaken my heart, naturally once all that I may feel were stripped away painstakingly slowly in the most pathetic pitiful way possible from my very core, to then perish completely.

This afternoon, I have no need for my stylish white washed walls, nor did I need the unearthly lights I used to adore.  I wanted my vision to focus on the yard where we hung our laundry, where resides an ancient wood stove blackened in layers of smoke and ash. (still blackened and charred with layers of smoke). It made me think about the tiny storage my mother housed everything in at the very back of the house. As it turned out, all the small things are the things which truly count. They are more of a sure thing than those sharp pointy nets constantly trying to entrapped me and my world.

But because it is what it is, it was impossible for me to escape it.

Back against the mountain. From the veranda where I’m standing, I could see the entire city. Dusk was long gone, and night had taken over. But tonight everything was surreal in my eyes. Sadness ruled. They stretched their legs, throwing nets all over the valley, and those oblivious to the world or rather deliberately oblivious. Home, a temporary place housing life and death. What’s there at all for people to show off or be boastful and excited about. The sad, pale and sickly condition was evident on their faces. Presently, the imposing noise and chaos piling on top of each other, the noisy sound of funeral pipes in the alley by our house, the vivid dreariness against the spine of the mountain.

Time has washed away so many years, the nets continued to hold on tightly, manipulating, confining me. Now and then they would change their tactic, change the conditions. Nothing, but whitewashed walls merging over each other periodically deceiving the tenants in them. They push their way into my field of vision, into my heart, slipping and crawling on my lips like the endlessly exploding droplets of salty sea water night after night without rest returned over the choking, crashing, overwhelming waves. Waves could be as choked up as pain is choked up latching onto the lapel on your shoulders, the sticky mess latching onto every fibre, with no way of ever being completely removed. My memories, sometimes, were like the dreams where people climbed on top of each other onto these flimsy trees bending with the wind in a storm only to wrap themselves in mourning shrouds, only to sink into the chasm of night.

Someone was telling me to go to sleep.

I lowered my head. Remained silent. Whoever it was will eventually get sick of it and stop.

I couldn’t breathe if, they: these pits of darkness refuse to completely die, these phantom entities refuse to disappear, or simply pull back into a corner somewhere even for a moment. I refuse to sleep if it’s still dark outside, and the rain persists in these lullabies in light of the soul within these tumulus. I will not sleep, as long as the echoes of desperate cat cries continue to persist in the valley. 

The sounds of the funeral pipes right by the side of our house dragging on and on with the rhythmic beating of rain on the tin roof, out on the veranda. I sat with my legs crossed, listened, it was like an incantation of prayers from the forest and every sombre home caved in by city lights.

Someone was telling me to go to sleep, again.

They don’t know about the nets. They were preoccupied with installing public speakers on every electrical pole to remind people to go to sleep. I decided to stay up the entire night, and see, what those stubborn nets had instored for me, how they intend to poke and prod me. Again the man reminded me to go to sleep. It was clear, the same man had been telling me to go to sleep, no one else but him. Yet, sometimes present and sometimes hidden were these shadows of a man screaming into my ears in a familiar deep voice. The nets didn’t know how to talk. The sound of the funeral pipes continues to drag out its agonising melodies. I can not close my eyes. Dead people must close their eyes. The dead with eyes open were clearly,  rather scary.

I could hear my father mumbling alone by the stairways in the dark: “the night sky is like an overwhelming net”.  I jumped, as someone screamed into my ears telling me to go to sleep. This time, I could no longer bear the agonising pull of something that was shapeless and intangible in the dark. I was eager for the morning light. Maybe dawn might bring with it an escape from the annoying silence in the night.

Four days, five days, six days, seven days, the wailing of the funeral pipes trailed along the foot of the mountain, right by our house. Perhaps, the living can’t let go of the dead. Or maybe, the living wants to forever hold onto the nostalgia of the slowly rotting corpse inside the coffin? Perhaps, they never want to bury death.

The valley seemed to retreat deeper into the earth as the stars began to appear as though they were the makings of a giant net. I still could not close my eyes at night. Thus, I would constantly find myself earnestly waiting for the sunrise. Our house was at the centre of the valley, like an animal bait that had slipped through a magical net of the night. Like the odd breeze escaping through the gaps in the metal frames of the window sill. Sometimes, it is the heralding of change. Pulling my shoulders back, my head was heavy, the blood pumping through my temples felt like the synchronised slamming of a hammer. The ache resounded in a single ring of a bell. Outside at the gate, a gate painted in the sombre hues of an afternoon storm, I saw the flashing strips of lighting. Perhaps, they will tear to shreds the nets, as well as the clumps of clouds at the end of the path that leads to a dome over the gate of light.

I was half dreaming when I heard the familiar voice of a man calling me from the kitchen. Last night, as it turned out, I was tucked away in a dark corner of my mother’s room and had fallen into a long sleep full of lucid dreams of people going crazy, they were trapped inside the nets of their own making. The council’s speakers at the end of our street were again making an announcement. They make these announcements without fail, usually a short message early in the morning, only to remind those who have just returned from work to go to sleep.

August 2021

Trần Băng Khuê

Trần Băng Khuê, born in Vietnam in 1982, lived for a period in Auckland, New Zealand. A talented writer and an aspiring artist who currently lives and work in Huế, Vietnam.

Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.

%d bloggers like this: