HEART BOUND IS AN EPIC TALE OF THE SEA | Lê Vĩnh Tài [487]

Dawn, photography by Nguyễn Thị Phương Trâm

Thơ Lê Vĩnh Tài
Translation by Nguyễn Thị Phương Trâm

“your name missing from the sea calls you home…”

1.
“your name missing from the sea calls you home…”
but instead of calling that one person
the sea calls forth an aging civilization
wheezy
& senile

you see that I’m drifting
like a breathless lullaby
the last of humanity’s symphony

clouds after clouds pulling each other along
without the refrain verses of a song
across the sky
after a century of war
revolutional and counter-revolutional ideologies
hollow promises like seashells sunbaking in the sun

your thoughts about angels were much like your thoughts about what’s missing from the sea
vast once upon a time
now just a sound
crashing waves and delusions

2.
once upon a time, angels were messengers of God
the sea also a messenger
of the origin, of the infinite, of silence

now the angels have lost their vernacular
sea lost its green hue
novels lost turned history
angels lost because of bleeding verses of poetry
slogans are all that’s needed by humanity

angels searching for humanity as though they’re searching for their lover
“Is it worth living in such a world?”
a question like an old song
drifts away, salty, soaked by the rain
soaked by the tears beyond its expiry date

but humanity no longer has the ability to reply
since in the reply faith is a requirement
now at the bottom of the ocean
actors acting as boat people acting as lovers acting at seminars
as though they have never starved, been close to death or dying
Trùng Dương on the verge of a romantic outburst

but after a thousand years of history the vernacular
is nothing but the clanking of empty cans
at some beach in the dark
forgettable people

the dumb searching for the deaf
the deaf searching for the blind
the blind searching for who?
no one knows

the sea knows
the sea always knows
but sea can’t be bothered with a reply

3.
the sea placing the stethoscope on its chest
not to listen to its heart beat
but history

history sound like soft murmurs
like the long sigh of someone just waking up
after a long fight to a point where no one remembers why

a sound as sad as Trịnh
but as sharp as Nguyễn
and as cold as the lastest population estimate
unfathomable number of human bodies
when floods follows the correct “procedure”
when human life is no different to mental arithmetic

philosoplers claiming
“humans are an end in themselves”
but history claiming
“humans are the means”
as life in a whisper say
“humans are the unexpected cost”

echoes like crashing waves
crashing against eroding banks of sand
enough about angels
more should be said about the people
but the people are now on the other side of memory
who are these people?

these inventors of a nation
to then bury such a nation under a mountain of debt
these inventors of community
to then destroy such a community with exhausting individualism
inventing fire to set fire to the jungle
travelled to the moon and yet on earth
the poor continues to sleep in the shadow of history

Trịnh sang once:
“humanity curled up like animals in winter”
and history continues to justify itself
with the political winters that will never dissolve

4.
like the songs drifting in the night out at sea
the angels have lost their messages
remain is the sea
quietly, tired, patient
beholding the words we will dare not say

as we continue to hang around
as though we’re the author of humanity’s last song
the truth appears as quietly as the moon would late into the night
us both for each other
angel and sacrifice

if there’s a rebellion worth singing about
then it’s a rebellion against
the smooth ruthlessness
that humanity has to get used to like the salty taste of the sea

and each day that we are able to get over it
get washed up into the forbidden zone of our humanity
the way waves get washed up on an eroding sand bank

5.
the sea in the dark tonight lies there like a wound
not sure who was at fault
a million reasons for the sea to be sad
it remembers that it was green once
waves soothing gently edges of the horizon
torn apart like exhausted lovers
knocking on a memory we have dropped somewhere

we follow the shoreline
as though we are following the length of history
each wave is a century
and each century in our hand is each salty lick of a wave

once upon a time, the sea was where the gods delivered their blessings
in present time, the sea is where humanity delivers its transgression

not once did the sea speak up
but its silence is the forgotten verse
Trịnh had left behind
on a beach in the dark
the shadow of humanity from so many centuries ago
he waits not for war
waits not for peace
waits not for a single promise from history
he waits merely for the easing of his sadness
a night when he can sleep and not dream of tidal waves

he understands that the sea will always come home
when humanity may not
a voice as gentle as chalk dust
as sad as a wave disappearing
all revolution in the end
wants to find a place where humanity may be human
the sea heard what was said but it will not reply
while the waves retreat into the distance like a long sigh

the waves said:
freedom is the fate of humanity
and yet tonight the sea said:
freedom is something humanity tend to drop as they
running away from themselves

the sound of the sea is as clear as the sound of a person
when it’s near, when it’s far
when it’s earnest to the point that it could burn and blister
when it’s lonely to the point of weeping

“your departure hereafter, your name missing from the sea calls you home”
and the sea thought:
if humanity were to leave the sea forever
will the sea call humanity home?

or is the sea too tired, all it wants to do is sleep?
sleep through the centuries where humanity
continues to fail on how to care for each other

I bent down, picked up a shell
it’s empty, but the sound in it
sounds like angels void of messages
washed up here

the sea is just a witness to what is missing from the sea
everything missing from the sea
including what humanity wants to forget

these are the words of a song
not reserved for the next generation
it is reserved just for the sea
the last entity
to miss humanity

BÀI TRƯỜNG CA CỦA BIỂN TRONG LỒNG NGỰC

1.
“Biển nhớ tên em gọi về…”
nhưng thay vì gọi về một người
biển gọi về một nền văn minh đã già
đã cạn hơi
đã mất trí nhớ

bạn thấy tôi đang trôi
như người hát ru đứt hơi
buổi hòa nhạc cuối của loài người

những đám mây kéo nhau đi
như những câu hát không còn điệp khúc
trôi qua bầu trời
sau cả một thế kỷ chiến tranh
các chủ nghĩa cách mạng và phản cách mạng
những lời hứa bị rỗng như vỏ ốc phơi khô

bạn nghĩ về các thiên thần như nghĩ về biển nhớ
ngày xưa mênh mông
giờ chỉ còn lại âm thanh
va đập sóng và ảo tưởng

2.
ngày xưa, thiên thần là thông điệp
biển cũng là thông điệp
của khởi nguyên, của vô tận, của lặng im

giờ đây thiên thần đã lạc ngôn ngữ
biển thì lạc màu xanh
tiểu thuyết lạc thành lịch sử
những câu thơ ứ máu lạc thiên thần
con người chỉ cần khẩu hiệu

các thiên thần tìm con người như tìm người tình cũ
“Thế giới này còn đáng sống không?”
câu hỏi như câu hát cũ
trôi dạt, đầy muối mặn, đầy mưa
đầy những giọt nước mắt đã quá hạn

nhưng nhân loại không còn khả năng trả lời
vì muốn trả lời, người ta phải tin vào một thứ
đã chìm dưới đáy đại dương
những vai diễn thuyền nhân vờ yêu nhau giả vờ hội thảo
như chưa bao giờ đói, chết hay bị thương
trùng dương đang cương lên cơn lãng mạn

nhưng ngôn ngữ sau nghìn năm lịch sử
chỉ còn tiếng va đập của vỏ lon
trên bờ biển mỗi đêm
của những người đã quên

người câm tìm người điếc
người điếc tìm người mù
người mù tìm ai?
không ai biết

biển biết
biển luôn luôn biết
nhưng biển không còn muốn trả lời

3.
biển đặt ống nghe lên ngực
không phải nghe những nhịp tim
mà câu chuyện thuộc về lịch sử

lịch sử là tiếng rên khe khẽ
như tiếng thở dài của người vừa tỉnh dậy
sau cuộc chiến dài đến mức quên tên

tiếng ấy buồn như Trịnh
nhưng sắc như Nguyễn
và lạnh như báo cáo số lượng dân số
những thân xác vô hình
khi những cơn lũ vẫn cứ đúng “quy trình”
khi người ta xem mạng người như số học

những triết gia nói rằng
“con người là mục đích tự thân”
nhưng lịch sử lại nói rằng
“con người là phương tiện”
còn cuộc sống thầm thì
“con người là chi phí phát sinh”

những âm vang như tiếng sóng
đập vào bờ cát đã xói mòn
nói về các thiên thần như vậy đủ rồi
hãy nói về nhân dân
nhưng nhân dân đã qua bên kia bờ ký ức
nhân dân là ai?

là những người phát minh ra quốc gia
và chôn nó dưới núi nợ
là người phát minh ra cộng đồng
và phá tan bằng chủ nghĩa cá nhân mệt mỏi
phát minh ra lửa chỉ để đốt rừng
đi tới Mặt Trăng nhưng ngay trên mặt đất
những người nghèo vẫn nằm ngủ dưới bóng của lịch sử

Trịnh từng hát:
“người nằm co như loài thú khi mùa đông về”
và lịch sử tiếp tục chứng minh
bằng những mùa đông chính trị không bao giờ tan

4.
như tiếng hát trôi trên biển đêm
thiên thần đã mất thông điệp
chỉ còn lại biển
âm thầm, mỏi mệt, bất chấp
ôm lấy những điều ta không dám nói

khi chúng ta tiếp tục loanh quanh
như người viết ca khúc cuối của nhân loại
sự thật hiện ra im lặng như trăng khuya
chúng ta vừa là thiên thần
và là kẻ hiến tế cho nhau

nếu có cuộc nổi loạn nào đáng để hát
thì đó là nổi loạn chống lại
sự trơn tru tàn nhẫn
mà loài người phải quen như quen vị mặn của biển

và mỗi ngày, ta bước qua nó
trôi vào vùng cấm của chính nhân tính mình
như sóng trôi vào bờ cát đang tan

5.
biển đêm nay nằm như một vết thương
không còn nhớ ai đã gây ra
một triệu nỗi buồn của biển
biển chỉ nhớ mình đã từng xanh
tiếng sóng vỗ vào mép bầu trời
rách ra như người tình mệt mỏi
gõ cửa một ký ức mà ta đã đánh rơi

chúng ta đi dọc bờ biển
như thể đang bước dọc lịch sử
mỗi con sóng là một thế kỷ
và mỗi thế kỷ trôi qua để lại một vết muối mặn liếm trên tay

ngày xưa, biển là nơi thần linh gửi xuống phước lành
ngày nay, biển là nơi con người gửi xuống tội lỗi

biển chưa từng cất tiếng
nhưng chính sự im lặng của biển
một ca khúc Trịnh bị bỏ quên
trên bờ biển đêm
một bóng người từ bao nhiêu thế kỷ
anh ta không chờ chiến tranh
không chờ hòa bình
không chờ bất kỳ một lời hứa nào từ lịch sử
anh ta chỉ chờ nỗi buồn tan bớt
để có thể ngủ một đêm không mơ thấy sóng thần

anh ta biết biển vẫn trở về
còn con người thì không
giọng nhẹ như bụi phấn
buồn như một con sóng vừa tan
mọi cuộc cách mạng rốt cuộc
đều muốn tìm một chỗ để con người được làm người
biển nghe câu ấy và không trả lời
nhưng sóng biển lùi xa như tiếng thở dài

những con sóng nói:
tự do là số phận của con người
nhưng đêm nay biển thì thầm:
tự do là thứ con người luôn đánh rơi
trên đường chạy khỏi chính mình

tiếng biển rõ như tiếng của một người
lúc gần, lúc xa
lúc tha thiết đến bỏng tay
lúc cô độc đến muốn khóc

“Ngày mai em đi, biển nhớ tên em gọi về…”
và biển nghĩ:
nếu nhân loại rời biển mãi mãi
liệu biển có gọi về không?

hay biển mệt rồi, biển chỉ muốn ngủ?
ngủ qua những thế kỷ mà loài người
vẫn chưa học được cách yêu nhau

tôi cúi xuống, nhặt một vỏ sò
nó rỗng, nhưng âm thanh trong đó
giống như tiếng những thiên thần không còn thông điệp
đã trôi dạt về đây

biển chỉ là nhân chứng

biển nhớ
biển nhớ tất cả
cả những điều nhân loại muốn quên

đây là lời hát
không dành cho thế hệ sau
chỉ dành cho biển
kẻ cuối cùng còn chịu nhớ
về loài người

Mai Khao Beach, Phuket, Thailand. Photography: Nguyễn Thị Phương Trâm

6.
baby, this century
rising from the ashes of dreams
because of a gust of wind
fire and decimation

my lullaby is that long sigh
a civilization that is no more
green was the sea once
now evident in pages of fiction

did you know baby, the philosophy of this century
no one has the answer to the question
pages of a book turning by itself in the wind
spoke about the things where history is too tired
where no one want to note or copy

truth is not something humanity is looking for anymore
they look for what will not hurt them
truth like roots in the wilderness
trees and more trees salty and alive in memory
“blanket me with the salt of the land
my bullet wound steeped in the salt where I land
stings the flesh the bone stings those who had lay down their life”

we holding onto this century
as though we’re holding onto an orphaned child
the face of millions and millions of missing people
migrations are it’s teardrops
in boats, through the storms
in time with the footsteps tripping over each other in the street
knowing not whether they’re rushing toward the future
or trying to escape the past

the century sitting right up the odd night
asking the simplest of questions:
“why is there not a long left in humanity ?”

hearafter we will forget
the nameless fights
this orphaned century
as painful as half a song
harmonies sinking to the bottom of the sea

I want to sing to it a lullaby
with the voice of a street seller
this century can sleep in the end
sing to it to keep it alive
because it’s still a child with the burden
our karma

7.
softy to you baby, to the sea, I will sing
souls who have not found a home
I will tell you about those
who were left behind in the history of humanity
after the longest withdraw

they don’t want to live off the sun
since the sun is nothing but a memory
embers were the source of their survival
smoulders deep in the earth
as though the last glimmer of life
lies in death

embers sustained them
history like a book
with its first page ripped out
and lines across the last page
in disarray
footnotes and question marks
without an answer

did you know baby this century
light reserve just enough ember
to light the way for each other

since too much light can burn us
and we have chosen embers
a kind orphaned light
without a keeper
in windy nights
we huddle together
the way people long ago
learn how to let go of a world that was falling apart
without lost of identity

some were once wariors
now knows off by heart the harmony
how to put children to sleep with their lullaby
because easy was murder
because leaving each other alone was harder

some are poets
out of touch at the time
now just as out of touch
but humanity in the end
need to sing
need a song to confirm their existence
so they hold on to him
even when his poems no longer rhymes
just heavy breathing
like wind through abandoned homes

you can say baby that they are weak
but they are the last proof
that humanity can still have light
when there’s nothing left to set on fire

in their shadows from afar
see in each one of them
a sadness as beautiful as a song
so sad that it can be
turn into something call hope
because only those with sadness
can remember what it’s like to be human

baby, those who live off embers
innovation is beyond them
they simply hold on to each other
so they won’t fall off the edge of the world

sometimes, it’s as simple as that
born heroes
and the whispers of the sea out there
no one can quell the light of such embers
they know how to remember each other

8.
tonight
on a hill where they erect the tombstones
breeze through the rows and rows of trees
as though through the husky throat of a century

from damp soil, grass as soft as songs as soft as memory
lullabies used to put a nation to sleep through a war
through peace, through hope
and afternoons no one can remember
each person turning up quietly one at a time
as though they do not want themself to wake up

those who have called upon their name
to settle with the realization that
all those names as they say are
no more

they turn up not to cry
they’re here to listen
since only in silence
humanity can hear the right questions it wants to ask

each person with the burden of a name
gathered in a circle as in ritual
from the centre of the circle, rise a song
“one lover after the other they leave us like small rivers”

herein rise in a song
each one of us in the circle
as though to remember one thing
very much like a name
not a name on their ID card
but the name their mother’s used to call them
while they’re in her arms, the name they’ve lost
dropped somewhere at the market in the crowd

a little girl claimed
the fragility of my name
an elderly woman echoed
through a toothless smile
mine is much the same

night
it is full of these names in the dark
returning slowly
a name
standing in front of a song
that will never die

6.
em ơi, thế kỷ này
lớn lên từ tro than của giấc mơ
vì bầy gió đã luồn vào
đốt sạch

anh ru nó bằng tiếng thở dài
của những nền văn minh không còn
tiếng của biển đã từng xanh
giờ chỉ còn trên những trang tiểu thuyết

em biết không, triết học của thế kỷ này
là câu hỏi không người đáp trả
những trang sách tự lật trong gió
nói những điều mà lịch sử đã mệt
không còn ai muốn chép

con người không đi tìm sự thật nữa
họ chỉ tìm thứ không làm họ đau
còn sự thật như đám rễ hoang
sống trong ký ức rừng ngập mặn
“đắp cho anh nắm đất mặn xứ này
nơi anh ngã muối ngấm vào vết đạn
xót thịt xót xương xót người nằm xuống”

chúng ta ôm lấy thế kỷ này
như ôm một đứa trẻ mồ côi
có khuôn mặt của hàng triệu người đã biến mất
nó khóc bằng những cuộc di dân
trên thuyền, trong bão
ngay khi giữa phố đầy những bước chân
không ai biết mình đang chạy tới tương lai
hay thoát khỏi quá khứ

có đêm thế kỷ ngồi dậy
hỏi một câu rất giản dị:
“tại sao con người không còn hát?”

ngày mai chúng ta sẽ quên
những cuộc chiến không tên
thế kỷ mồ côi này
đau như một bản nhạc bỏ dở giữa chừng
mọi hợp âm đều rơi xuống biển

anh muốn ru nó
bằng giọng của người hát rong
cuối cùng để thế kỷ ngủ
ru để nó đừng chết
vì nó vẫn là một đứa trẻ
mang nghiệp của chúng ta

7.
anh hát khẽ thôi, cho em, cho biển
những linh hồn chưa tìm được ngôi nhà
anh nói với em
về những kẻ còn sót lại
sau cuộc rút lui dài nhất của nhân loại

họ không sống bằng mặt trời
vì mặt trời chỉ còn là một ký ức
họ sống nhờ những đốm tàn tro
âm ỉ trong lòng đất
như thể mầm sống cuối cùng
lại nằm trong cái chết

những kẻ sống nhờ ánh tàn tro ấy
lịch sử giống như một cuốn sách
đã bị xé mất trang đầu
và trang cuối
ngổn ngang những đường gạch chéo
những chú thích và những câu hỏi
chưa có ai trả lời

em biết không một thế kỷ
ánh sáng chỉ giữ lại chút tro tàn
để soi đường cho nhau

vì nếu ánh sáng quá mạnh sẽ đốt cháy chúng ta
chúng ta chọn tàn tro
thứ ánh sáng mồ côi
không thuộc về ai
trong những đêm gió nổi
chúng ta tụ lại quanh nhau
như bầy người cổ xưa
học cách rời bỏ một thế giới đang sụp đổ
vẫn không đánh mất mình

có người từng là chiến binh
giờ nằm thuộc lòng
bản hòa tấu ru cho trẻ con ngủ
vì giết nhau quá dễ
còn để cho nhau yên thì mới khó

có người là thi sĩ
đương thời bị xem là lạc điệu
giờ vẫn lạc điệu như thế
nhưng bầy người cuối cùng
cần một tiếng hát
để thấy rằng mình còn tồn tại
nên họ giữ anh ta lại
dù thơ anh chẳng còn gieo vần
chỉ còn những tiếng thở
như gió lùa qua những ngôi nhà hoang

em có thể nghĩ họ yếu đuối
nhưng họ là bằng chứng cuối cùng
rằng con người biết thắp sáng
ngay cả khi không còn gì để đốt

từ xa nhìn vào bóng họ
thấy trong từng người
là một nỗi buồn đẹp như bài hát
buồn đến mức
thành một cách để mà hy vọng
vì chỉ ai còn nỗi buồn
mới nhớ cách làm người

em ơi, những kẻ sống bằng ánh tàn tro
không làm nên cuộc cách tân nào
họ chỉ giữ lấy nhau
để không rơi khỏi thế giới

đôi khi, chỉ thế thôi
đã là một anh hùng
và biển ngoài kia thì thầm
không ai tắt được ánh sáng
của những tàn tro biết nhớ nhau

8.
đêm nay
trên ngọn đồi nơi người ta đặt những tấm bia đá
gió thổi qua những hàng cây
như thổi qua cổ họng của thế kỷ đã khàn tiếng

mặt đất ẩm, cỏ mọc mềm như ký ức những bài ca
từng ru một dân tộc qua chiến tranh
qua hòa bình, qua hy vọng
và những buổi chiều không ai còn nhớ
mỗi bóng người đến một cách lặng lẽ
như thể họ không muốn đánh thức chính mình

những người từng gọi tên mình
rồi một ngày nhận ra
tất cả những cái tên ấy
không còn

họ đến không phải để khóc
đến để nghe
vì chỉ trong im lặng
con người mới nghe được những câu hỏi thật của mình

mỗi người mang theo một cái tên
quây thành vòng tròn như một nghi lễ
từ giữa vòng tròn, một giọng hát cất lên
“từng người tình bỏ ta đi như những dòng sông nhỏ…”

và khi câu hát cất lên
từng người trong vòng tròn
như nhớ lại được một điều
rất giống cái tên
nhưng không phải tên trên chứng minh thư
mà là tên mẹ gọi khi ôm họ vào lòng
tên mà họ đánh rơi
giữa chợ đời chen lấn

một cô bé bỗng nói
tên tôi là mong manh
một bà lão đáp lại
bằng nụ cười không còn răng
tên tôi cũng vậy

đêm
nó đầy ắp những cái tên
đang từ từ quay trở lại
một cái tên
khi đứng trước một bài ca
không bao giờ chết

Sea, waves, photography by Nguyễn Thị Phương Trâm

9.
baby, listen
a dazzling city once
like the imaginative mind of humanity in its youth

the glass windows used to reflect those intimate moments now blurry under a layer of dust
intersections eyewitness to people in a rush
to be in time for work, be in time to love each other, in time to break up
now nothing but puffs of grey smoke
stretched out as though memory is being buried alive

but there’s still a bright light
a lonely flame
in a room on the third floor
paint peeled wall
peeling pieces of disappointment of the twenty first century
that can not be healed

the window still opened, breaths of the wind
carries with it the sound of a distant sea
lingered echoes of a song
the days humanity still cared for each other
help those in need

baby, you ask: this flame, who lit it?
all I can do is shake my head
maybe it was the first person who left
left it burning because they forgot to blow it out
maybe it’s a soul
wanting to leave a sign for thoses to come
also maybe it is destiny
denying darkness its victory

that flame choking the way mother’s caution is caught
in her throat during each yearly flood
where’s there’s light
there’s still a way to come home

for those from the jungle
those from the sea
those who had given up from the East
those with nothing to lose from the West
could altogether call what’s over there home

that night, the first person to step through the door was
not a hero
not a philosopher
just a very sad soul
looking for somewhere to sit down
to catch their breath and sing

then through the door was the second
then third person
“the welcome embrace of trees and mountain
visit, the booby traps and machetes…”

no one said any thing
no one said any thing
they simply sang in that dim weak light
as though they all had an understanding
the only thing they need to keep safe
was not their life
but their humanity
already as fragile as a piece of paper
but still as pure as a verse of a song
sang in the middle of the day
gleaming blue steel

that was when I understood dear love:
that flame there, it was not waiting for redemption
nor was it waiting for a miracle
or a change in history
it’s waiting only for one thing:
It’s waiting for evil doers to feel the shame of their actions
feel sad when they see the pain of blood and skin colour of other people
other than them

10.
we understand that
declarations
begins always with light

it only ends
with the things people cannot
straight away see
sentences
hanging in the square
each time a new ideal is born
the call for freedom
written in a tone of an edict

the declaration
written with bare arms
and read in a thick husky voice
of those who once upon a time
had too much faith in big dreams

“Us that is
what is left of us
declare that we have no faith
in declaration.”

because we inderstand
all the big stuff
must be announced in a soft voice
resolution is unnecessary when it comes to kindness
strategy does not equate to caring
it’s simply a hand reaching out at the right time

we believe in the small things
a glass of water for a stranger
a shelter from the rain
a timely apology

we chose to withdraw
so we won’t step on each other

someone asked:
“you guys think you can change the world
with gentleness?”

11.
we meet the people
sitting around mending the sky

they’re not saints
not poets, philosophers
or heroes
just ordinary people
sick from waiting for a miracle
from someone else

they sit waiting on the roof in the flood
crumbling bell towers
bridges to nowhere
holding onto nothing but old songs
and the glimmer of old memories

they asked:
the sky did not tear by itself
the hole in the ozone layer is man made
they bend over, pick up the humanity’s sorrows
a forgotten war
an unofficial migration
a misplaced promise of peace
the death of a love in infancy
the last look between two people
the blameless card dealt

all picked up by them, wiped clean
placed in the empty spots across the horizon
as though they’re stars
someone accidently dropped

one of them looked up
we’re mending the sky
so it won’t fall on the children
who will definitely come this way

another person added
we’re mending the sky
because no one lifts their chin to look up anymore

the last person said
we’re mending the sky
because if we do not, the night will swallow all of us whole

I watched them my love, the souls who quietly worked
and history will never remember them
but then again for that reason
it is worth the effort

sound of wind through the unmended holes
cry out like the notes played on a broken keyboard
attentively they listen nodding:
the sky is in a lot of pain
we should be more gentle

like someone’s claw marks through time
each shimmering row of thread high in the sky
each small thread of hope
returned to the earth

you asked my love:
what will they do after they finish mending the sky?

I smiled:
only then will they lie down and rest
leave us with
a sky though not perfect
but enough to keep us warm in this orphaned century

9.
anh kể em nghe
một thành phố từng rực rỡ
như trí tưởng tượng của con người khi còn trẻ

những cửa kính từng soi bóng các cuộc tình đã mờ lớp bụi
những ngã tư từng chứng kiến người ta rất vội
kịp làm việc, kịp yêu nhau, kịp bỏ nhau
giờ đây chỉ còn những vệt khói xám
kéo dài như ký ức bị chôn sống

nhưng một ngọn đèn vẫn sáng
ngọn đèn cô độc
trong tầng ba của một căn phòng
bức tường bong tróc
như những mảng thất vọng của thế kỷ hai mươi mốt
không chữa lành

cửa sổ vẫn mở, gió thở
mang theo tiếng của biển rất xa
dư âm của lời ca
những ngày người ta còn biết thương nhau
qua cầu không rút ván

em hỏi: ai thắp ngọn đèn ấy?
anh chỉ biết lắc đầu
có thể của một người ra đi từ lâu
nhưng quên tắt
có thể là một linh hồn
muốn để lại dấu hiệu cho kẻ đến sau
cũng có thể là định mệnh
chưa muốn bóng tối chiến thắng

ngọn đèn ấy, nó nghẹn lại
như lời mẹ dặn trong mùa mưa lũ
ở đâu còn ánh sáng
ở đó còn đường về

cho những ai từ rừng
cho những ai từ biển
những kẻ tuyệt vọng từ phương Đông
những kẻ không còn gì để mất từ phương Tây
đều lặng lẽ được về phía ấy

tối hôm ấy, người đầu tiên bước vào căn phòng
không phải anh hùng
không phải triết gia
chỉ là một kẻ buồn quá
tìm chỗ để ngồi xuống
thở và hát

thêm một người thứ hai
một người thứ ba
“rừng núi dang tay
đi thăm, hầm chông và mã tấu…”

không ai nói gì
không ai hỏi ai
họ chỉ hát trong ánh sáng yếu ớt ấy
như thể tất cả đều hiểu rằng
điều duy nhất họ phải giữ
không phải là mạng sống
mà là nhân tính
đã mỏng như tờ giấy
nhưng vẫn đẹp như một câu hát
được hát giữa trưa
xanh ngời ánh thép

đó là lúc anh hiểu:
ngọn đèn kia không chờ cứu viện
không chờ phép lạ
không chờ lịch sử thay đổi
nó chỉ chờ một điều duy nhất:
chờ những người còn biết xấu hổ khi làm điều ác
và biết buồn khi thấy người khác đau
máu đỏ da màu

10.
chúng tôi đã hiểu rằng
những lời tuyên ngôn
luôn bắt đầu bằng ánh sáng

nó chỉ kết thúc
bằng những điều
người ta không chịu nhìn thẳng
những hàng chữ
được treo lên quảng trường
mỗi lần có một lý tưởng mới chào đời
những lời kêu gọi tự do
bị viết bằng giọng ra lệnh

bản tuyên ngôn
được viết bằng cánh tay trần
và đọc bằng giọng khản đặc
của những người đã từng
tin quá nhiều vào những giấc mơ lớn

“Chúng tôi,
những kẻ còn sót lại,
tuyên bố rằng,
không còn tin vào tuyên ngôn.”

vì chúng tôi đã hiểu
rằng mọi điều lớn lao
phải được nói bằng một giọng nhỏ nhẹ
rằng tử tế không cần biểu quyết
rằng yêu thương không phải chương trình
chỉ đơn giản một bàn tay chìa ra đúng lúc

chúng tôi tin vào những điều nhỏ bé
một chén nước cho người lạ
một mái hiên trú mưa
một lời xin lỗi kịp lúc

chúng tôi chọn lùi lại
để không dẫm lên nhau

ai đó hỏi:
“các người nghĩ thế giới sẽ thay đổi
bằng sự dịu dàng sao?”

11.
chúng tôi gặp họ
những người ngồi vá lại bầu trời

họ không phải thần thánh
không phải nhà thơ, triết gia
cũng chẳng phải anh hùng
chỉ là những con người bình thường
đã quá mệt với việc chờ đợi phép màu
từ tay của kẻ khác

họ ngồi trên những mái nhà bị ngập
những tháp chuông gãy
những cây cầu không dẫn đến đâu nữa
trên tay chỉ có những câu hát cũ
và những mảnh ký ức lấp lánh

họ nói:
bầu trời không tự rách
chính con người làm nó bị thủng
họ cúi xuống, nhặt nỗi buồn của nhân loại
một cuộc chiến bị lãng quên
một cuộc di cư không ai ghi chép
một lời hứa hòa bình đã mất
một tình yêu chết trẻ
ánh mắt lần cuối giữa hai người
cái thẻ bài vô tội

tất cả đều được họ nhặt lên, lau sạch
đặt vào khoảng trống của vòm trời
như thể chúng là những ngôi sao
kẻ nào đó lỡ đánh rơi

một người trong nhóm ngẩng lên
chúng tôi vá lại bầu trời
để nó đừng rơi xuống đầu những đứa trẻ
thế nào cũng đi qua đây

một người khác tiếp lời
chúng tôi vá lại bầu trời
vì không còn ai biết cách ngẩng đầu nữa

người cuối cùng
chúng tôi vá lại bầu trời
vì nếu không, đêm sẽ nuốt hết chúng ta

anh nhìn họ, những người thầm lặng
đang làm việc mà lịch sử sẽ không bao giờ nhớ
nhưng có lẽ vì vậy
nó mới đáng làm

gió thổi qua những lỗ thủng còn dang dở
kêu như những phím đàn vỡ
những người ấy lắng nghe, rồi gật đầu:
bầu trời vẫn còn đang đau
nhẹ tay hơn một chút

như móng tay ai cào vào thời gian
cứ mỗi đường chỉ khâu lấp lánh trên cao
là một chút hy vọng
lại trở về trên mặt đất

em hỏi:
rồi họ sẽ làm gì khi bầu trời đã vá xong?

anh mỉm cười:
khi ấy, họ sẽ nằm xuống nghỉ
để lại cho chúng ta
một bầu trời dù không hoàn hảo
nhưng đủ để che một thế kỷ mồ côi

Phú Quốc, Việt Nam. Photography by Nguyễn Thị Phương Trâm
12.
khi lịch sử khép lại cánh cửa
họ lặng lẽ ôm mùa xuân trên tay
bay ra thời gian

nhưng không ai giữ lại
họ đã rời khỏi lịch sử
những bóng chim từ chối bay về phương Bắc,
vì biết trước gió lạnh sẽ giết chết ký ức

họ đi trong im lặng
không mang theo lửa
không mang theo bản đồ
chỉ mang một mùa xuân nho nhỏ
giấu trong khăn tay
như bọn trẻ từng giấu viên bi thuỷ tinh
sợ mẹ lấy mất

mùa xuân ấy, không phải là hoa
không phải nắng
những người không tin vào khái niệm “khai sáng”
vì họ đã thấy ánh sáng cũng bị thương

như hơi ấm còn sót lại trên ghế
khi bạn vừa đứng dậy
họ ra ngoài lịch sử
nơi không còn biến cố
chỉ có khoảng trời câm lặng
để văn chương không cảm thấy bị xét xử
như nỗi sợ đánh thức
lịch sử đang ngủ vùi dưới chân đồi

một người nói:
tôi rời khỏi lịch sử
chỉ vì tôi muốn yêu trở lại
mà không bị ai cảnh giác

và trong ngôi làng, lịch sử
có thể làm cho người khác cảm thấy bớt sợ

kỳ lạ thay
chỉ cần họ thở
thế giới đã bớt sợ hãi thêm một chút

đôi khi nhìn về chân trời cũ
họ thấy lịch sử vẫn tiếp tục
đổ máu,
tranh giành,
mạt sát,
xây đắp,
sụp đổ,
rồi lại đổ máu.

họ không cần ai công nhận mình
chỉ giữ lại chút hơi ấm cho loài người
khi mọi thứ còn sót lại đã nguội

và lịch sử
được nuôi bằng sự dịu dàng không lý thuyết
được giữ bởi những người không hứa hẹn
bỗng trở thành điều duy nhất sót lại
khi lịch sử chẳng còn ai để ghi tên

14.
khi tiếng bom vừa dứt
một nhịp thở

khi khói chiến tranh
vẫn còn vương trong kẽ áo

khi mặt đất vẫn âm ỉ sức nóng
của những khẩu súng đã ngừng nói

vì chúng chưa chịu quên
mọi người vẫn còn nhìn thấy
một ngọn cỏ
không cao
không xanh màu xanh trọn vẹn
không đứng thẳng trước gió
chỉ là một sợi mỏng manh
rụt rè trồi lên từ vết nứt của lớp bê tông tường thành đang cháy

nơi mà lửa đã đi qua
nơi mà con người đã lùi bước
nơi mà lịch sử nghĩ rằng
sẽ không bao giờ có sự sống
nhưng ngọn cỏ không cần lịch sử
nó mọc

chính lúc ấy
có người quỳ xuống bên nó
để đọc bài kinh cầu nguyện
lời đầu tiên "người biết yêu người"

- bài kinh của kẻ còn sống sót trở về

lạy ngọn cỏ
ngươi mềm hơn mọi triết lý
nhưng ngươi cũng đứng dậy nhanh hơn mọi đau thương

ngươi không biết quá khứ
cũng chẳng màng tương lai
nhưng ngay lúc này
ngươi đã làm điều
mà loài người quên mất:

cám ơn
vì ngươi mọc từ nơi không ai nghĩ chẳng còn gì để mọc
quê hương không chỉ là đất đai
mà là sự trở lại của thứ tưởng như đã chết

ôi cỏ xanh ngươi buốt tận chân trời
ngã xuống xuyên giữa ngực
tan vào đất đâm chồi vẫn cỏ

- bài kinh của một đứa bé

không hiểu chiến tranh là gì
nhưng hiểu nỗi im lặng của mẹ
nó hỏi:
cỏ ơi, chỗ này có đau không?

không ai trả lời
nhưng mọi người nghe thấy
đau hơn và lâu hơn

- bài kinh của người từng cầm súng

hai tai đã quen tiếng nổ
và lương tâm người vẫn ngồi xuống thật chậm:
- tôi đã bắn vào nơi cỏ sẽ mọc
đã làm mặt đất co lại vì sợ
vậy mà cỏ vẫn mọc lên
mỏng manh đến mức làm tôi muốn khóc

tôi xin lỗi
cho những mùa xuân tôi đã bắn hụt

tôi xin lỗi
vì tôi không tin vào phép màu

nhưng nếu có phép màu
thì nó như dấu phẩy màu xanh
trên câu văn tuyệt vọng

họ cùng đứng quanh ngọn cỏ
như đứng quanh một ngọn nến nhỏ
trong tang lễ của thế kỷ

không ai hát, nhưng gió hát thay họ
không ai khóc, nhưng bụi bay trong ánh sáng
khiến đôi mắt đỏ lên như khóc

ngọn cỏ ơi, chúng ta đã làm rách cả bầu trời
làm mục nát ký ức
dập tắt mùa xuân
đốt cháy linh hồn của chính mình

nếu một ngày chúng ta còn đứng lại
trước một ngọn cỏ, còn biết lặng im
còn biết thở chậm
còn biết đưa tay chạm vào một sinh linh

và thế là
trên nền đạn bom của thế giới
những bài kinh cuối cùng được đọc lên
không để cầu xin, không để chứng minh
tất cả chúng ta đều bị thương
nhưng mọi vết thương đều biết cách xanh như cỏ
12.
when history closes a door
they embrace the spring in their arms
fly beyond time

no one holding them back
they have left history behind
birds refusing to fly North
because they knew the cold would destroy what's left of memory

they walk away in silence
without fire
without a map
with them they carried the smallest slice of spring
wrapped in a hankerchief
like the glass marbles kids used to hide
worried their mothers might take it away

that slice of spring, it's not a flower
not the sunlight
those who do not believe in the concept of "enlightenment"
since they saw that even light could be harmed

like the residual heat left behind on a chair
when you stand up
they have gone beyond history
where there are no issues
just a silence space across the sky
where literature is free from judgment
like the fear of waking
history fast asleep at the bottom of a hill

one of them said:
I left history behind
only because I want to love again
without people watching me

and in that village, history
may have perhaps made other people feel less afraid

the oddest thing
the only thing they had to do was breathe
and the world feels less scary

sometimes looking back at the old sky
they see history continues to
spill blood
struggle
libel
build
pull down
more bloodshed

they don't need acknowledgement
saving just enough warmth for humanity
when everything has turned cold

and history is nurtured
with gentleness beyond reason
held high by those who makes no promises
suddenly the only thing left
when history have no one left to note their name

14.
when the sound of a bomb takes away
a breath

Sea Cliff Bridge, NSW, Australia. Photography: Nguyễn Thị Phương Trâm
BẢN THÁNH CA DỊU DÀNG 
CHO NHỮNG NGƯỜI VẪN ĐANG BIẾN MẤT
VÌ KÝ ỨC CHIẾN TRANH


anh viết khúc này
như một lời tụng nhỏ
đặt lên vầng trán của những người
đã mòn đi như viên sỏi dưới chân thế kỷ

những người không chết trong chiến tranh
mà chết trong những buổi chiều còn sót mùi khói
những người đi lạc giữa hòa bình
như đi giữa một cánh đồng bị bỏ quên

nơi từng bước chân vang lên tiếng nổ
của cái quá khứ không cho họ bình yên
như thể tiếng rao hôm nay của người bán hàng rong
cũng thành còi báo động

như một lời kinh
đọc đi đọc lại
để bẻ gãy một cơn ác mộng

anh viết khúc này
để trời xanh bớt lạnh
khi đi qua vai họ

anh viết khúc này
để biển bớt buồn
khi nhìn thấy những bóng người đứng rất lâu
mà không biết vì sao mình muốn khóc

anh viết khúc này
như thắp lên một ngọn nến
đặt giữa căn phòng đầy những cơn run rẩy
ngọn nến nhỏ thôi
nhưng đủ để họ biết
bóng tối chưa từng thắng một ngọn lửa biết lắng nghe

và nếu chiến tranh
vẫn còn đang chảy trong mạch máu của họ
thì bản thánh ca này
sẽ là dòng suối rửa sạch đôi bàn tay
đã run lên từ quá nhiều năm không được chạm vào sự dịu dàng

anh viết khúc này
cho những người đang mất dần
vì ký ức chiến tranh
như cát đang rơi khỏi lòng bàn tay
để nói với họ rằng
không ai sinh ra để tan biến
không ai sinh ra để ký ức phai đi

đêm nay, bản thánh ca dịu dàng nhất
được viết bằng hơi thở rất mỏng
của họ, vẫn sẽ bay lên, bay lên
như một lời xin lỗi muộn màng
gửi tới những trái tim
đã từng bảo vệ thế giới

bằng cái giá mà không ai
trả lại được cho họ

không có tràng pháo tay nào vang lên
chỉ có sự im lặng
để những ký ức mệt mỏi
được đặt xuống như balô của người lính
vừa trở về sau một cuộc hành quân
kéo dài cả đời

họ chỉ cần ngồi yên
cho phép mình tin rằng
thế giới này cuối cùng cũng chịu chậm lại
để đợi họ

có người đặt tay lên ngực
nghe thấy nhịp tim mình
không giống tiếng súng

họ được gọi tên
trong một thế giới
cuối cùng, cũng học được cách
lắng nghe nỗi đau
mà không biến nó thành huyền thoại


Lê Vĩnh Tài, the poet and translator born in 1966 in Buon Ma Thuot, Daklak, Vietnam. The retired doctor is still a resident of the Western Highlands and a businessman in Buon Ma Thuot.

Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.

TRUTHS YOU HAVE FORGOTTEN, LOVE | Lê Vĩnh Tài [343]

Ta vẫn còn chơi nha. Tóc bạc mặc nhầm sắc thái nó làm trạng thái ta héo mòn đi. Cẩn thận nhé. Indigo okay, tóc màu gì cũng thấy mình tươi như hôm em vừa hôn anh lần đầu tiên. Vừa sướng vừa sợ hãi. Trời mùa đông Sydney cúm nhiều hơn là lạnh làm đầu óc nó lú. Vừa lú vừa tiền mãn kinh nó va chạm vào nhau nó chỉ muốn gây sự. Nó năn nỉ bạn bằng hai đầu gối của nó là bạn hãy chậm lại. Làm sao để chậm lại bạn có thể hỏi tôi? Sex okay, một cách thể thao và giữ ấm, trao đổi chất lỏng sẽ nâng cao lực lượng cơ thể chống lại viêm nhiễm vi rút, nên rất tốt cho sức khỏe. Như cách tôi thấy dễ hơn là bia, bia không chỉ có chất bổ của lúa mì, mà chất cồn nhẹ sẽ mang lại cho bạn sự bình yên xóa đi mọi sự lo âu v..v..của đời sống, nếu có lú hay dính vi rút gì đi nữa sẽ không còn là một vấn đề. Tin tôi đi. Tôi là dịch giả mờ.

A poem in Vietnamese by Lê Vĩnh Tài
Translator: Nguyễn Thị Phương Trâm

moments of ultimate
clarity

when you can discern
truths

you will always know
how to approach
from the moment you get out of your bed
it’s in your bones

a forgotten thought
eating away at your brain
and you’re breathless

something more substantial than time
pooling, threatens you, to your soul suffocates
reminding you of your
fragile existence

we spread ourselves out too thin
to live through
the days we must bear
the consequences of our history

light is no different
to the darkness of humanity
your burden is not a necessity
my love

our children will be armed
with a lifetime or in a moment on whatever day…

SỰ THẬT NHƯNG EM ĐÃ LÃNG QUÊN

khoảnh khắc của sự rõ ràng
tuyệt đối

khi bạn có thể cảm nhận
những sự thật

bạn luôn biết cách
phù hợp với quan điểm
ngay từ giường ngủ
hay xương tủy của bạn

một suy nghĩ bị lãng quên
ăn nhanh vào trí nhớ
và bạn bị tắt thở

một trọng lượng nặng hơn thời gian
lắng đọng, ôi không, nó đè lên linh hồn
nhắc nhở về sự tồn tại thoáng qua
của bạn

chúng ta đang giang rộng ra
để sống qua
những ngày tôi chịu hậu quả
của lịch sử là chúng ta

ánh sáng cũng như bóng tối
của con người
đừng tạo thêm gánh nặng
em ơi

con cái chúng ta sẽ mang theo
một đời hay một ngày nào đó…


Lê Vĩnh Tài, the poet and translator born in 1966 in Buon Ma Thuot, Daklak, Vietnam. The retired doctor is still a resident of the Western Highlands and a businessman in Buon Ma Thuot.

Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.

THE THICK WOOLEN JUMPER | Lê Vĩnh Tài [476]

Nguyễn Thị Phương Trâm

Truyện ngắn Lê Vĩnh Tài
Translation by Nguyễn Thị Phương Trâm

Published on LatinosUSA —Edición en español

“Are you cold?” his voice was both worried and unsure. “Definitely not,” she replied. “I’m wearing a very thick woolen jumper.” “It’s a bit tight”, he added.

“No, it’s alright”, she corrected him.

Life is absolutely beautiful to him. He had an adorable beautiful young wife, and she continues to turn his life upside down even when he is preoccupied with other people, with her thick woolen jumper even when it’s not cold.

She asked him about his plans for the night, then added: “Listen, young man, if you’re inviting your friends over, I will have to wear my thickest woolen jumper.”

He understood her reservation, and he knew he didn’t have to justify anything when their guests eventually turned up. They understand her condition, only she is oblivious to it. Everyone around her kept her condition to themself the way he would secretly shave in the bathroom.

Years back, the same jumper drove him crazy. A young woman lying across the bed, wearing a jumper with a turtle neck so beautiful he couldn’t imagine her in anything else. The woolen jumper through her warmth spoke to him, even when her hands were cold. The two of them were woven together like a woolen jumper, with the softness and warmth from her front door, during the cold autumn evenings they had dated.

.

“Who will come tonight hun?” She asked him again, her voice sounded breathless as though the rolls and rolls of yarn wrapped thickly around her feverish body were choking her.

“They’re all coming.” He replied as he fiddled with the flowers in a porcelain vase on a side table next to her hospital bed. Quietly he stared at the white wall. The wires over her hospital bed were haphazardly weaved into each other, no different to the yarn in her jumper he thought… His voice was husky: “Your parents, your little sister, your closest friends…”

She was quiet for a moment before she said, “Can you help me change all that? It feels wrong somehow, you know that. I’m in my last stage, I don’t like a lot of people, it’s too noisy.”

He understood, he knew she didn’t want to look at their awkward smiles. “It won’t be like that”, he said as he pushed the oxygen tank closer to the bed and then he proceeded to draw a thick blanket over a portrait he drew stretched out rather thinly in a frame. He was worried her jumper was not enough to keep her warm. He cried: “It’s very cold outside, but I know you will be nice and warm.”

CHIẾC ÁO LEN DÀY…

“Em có lạnh không?” Anh hỏi, giọng hơi lo lắng và nghi ngờ. “Tất nhiên là không,” nàng trả lời. “Em đang mặc chiếc áo len rất dày.” “Nó hơi chật”, anh nói.

“Nó thoải mái”, nàng chỉnh anh.

Anh thấy cuộc sống thật thật dễ thương. Anh đã có một cô vợ trẻ đáng yêu, và nàng liên tục xáo trộn đời anh cả khi anh đang có khách, với chiếc áo len dày ngay khi trời không lạnh.

Nàng đã hỏi anh về chương trình đêm nay, sau đó nàng nói: “Nghe này, anh bạn trẻ, nếu bạn mời bạn bè của bạn để làm một cuộc gặp gỡ, mọi người sẽ phải gặp tôi trong một chiếc áo len rất dày.”

Anh nhận ra lời cảnh báo của nàng, và anh biết mình sẽ không phải đính chính khi khách của nàng và anh đến. Họ biết tình trạng sức khoẻ của nàng, chỉ có nàng là không biết. Mọi người giấu nàng như anh vẫn lén cạo râu trong phòng tắm.

Nhiều năm trước, chiếc áo len này đã làm anh điên đảo. Người con gái nằm nghiêng trên giường, với chiếc áo len với cổ áo đan tuyệt đẹp mà anh không thể tưởng tượng nàng trong bất kỳ chiếc áo nào khác. Chiếc áo len đã nói chuyện với anh bằng hơi ấm của nàng, cả khi bàn tay nàng rất lạnh. Họ đã đan vào với nhau như chiếc áo len, với sự mềm mại và hơi ấm trước cửa nhà nàng, vào mỗi đêm mùa thu ngày hai người còn hẹn hò và lạnh.

.

“Ai sẽ đến với em đêm nay, anh yêu?” Nàng hỏi lại anh một lần nữa, giọng nàng như bị bóp nghẹt bởi những đường cong của chiếc áo len dày cộp bao quanh cơ thể bị sốt của nàng.

“Tất cả mọi người.” Anh trả lời và sửa lại những bông hoa trong bình sứ bên cạnh giường nàng trong bệnh viện. Anh lặng người ngắm bức tường trắng. Dây nhợ ngơ ngác đan xen vào nhau, anh thấy chúng cũng giống như chiếc áo len… Anh khàn giọng: “Bố mẹ bạn, em gái của bạn, những người bạn tốt nhất của bạn…”

Nàng im lặng một lúc, “Anh có thể giúp em thay đổi chương trình không? Em cảm thấy đó không phải là cách tốt nhất, anh biết mà. Bệnh của em đã vào đoạn cuối, nó không phù hợp với sự đông người hay ồn ào.”

Anh biết nàng không đủ sức nhìn những nụ cười gượng gạo của mọi người. “Không phải như vậy đâu”, anh trả lời nàng và đẩy máy thở ô-xy lại gần giường nàng hơn. Anh ngồi xuống bên cạnh giường nàng và vẽ một tấm chăn dày lên trên một khung tranh đã căng khá mỏng manh của anh. Anh sợ chiếc áo len của nàng không đủ ấm. Anh khóc: “Trời rất lạnh, nhưng tôi nghĩ rằng tối nay bạn sẽ rất ấm áp.”


Lê Vĩnh Tài, the poet and translator born in 1966 in Buon Ma Thuot, Daklak, Vietnam. The retired doctor is still a resident of the Western Highlands and a businessman in Buon Ma Thuot.

Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.

BABY, DON’T BE SO SURPRISED | Lê Vĩnh Tài [479]

Nguyễn Thị Phương Trâm

Thơ Lê Vĩnh Tài
Translation by Nguyễn Thị Phương Trâm

Published on LatinoUSA – English edition – Thank you Juan.

we love each other as though we are criminals, chained up by the whispers of our heart, the only consolation is our last resting place, a bed or a hole in the ground, by the grace of the almighty we have been protected, while you baby, continue to laugh and play, surrender to a world where you are a toy,

baby, you can laugh all you want, laugh till you’re out of breath, lose your way, find yourself in a bad situation and you’ll be crying, you won’t make a sound, you won’t be able to breathe, you won’t be able to find the air in your lungs, the so call trauma of those dreams,

the hopelessness, tell me, the pitiful agony, why do they elude us, why aren’t such pity sustainable, how pitiful can it be, when we love, we find ourself laughing at whether we are even worth the laugh, your thoughts will be the destruction of you, they are the flames that will destroy you, as you stare at the blaring screen of your smartphone, in the middle of this amorous love affair, will it be prudent for me to go and look for you,

like the way you bury your sorrow, in those perfect verses of poetry, quietly you compare me to all your obsessions so far, the vested enthusiasm you have reserved for the people you love,

my lips ignites the desire within you, wine wakes up the spirit inside you, your skin bears the mark of disdain saved for those who craves love but in turn exposes your desire,

a sincere man who saves kisses for his muse, as the desire within those eyes gives birth to jealousy, flashing before the eyes of a drowning soul trying to hold on to a rock, they feel as though they are invincible,

when someone holds firmly onto their pride, they will feel invincible, but in the eye of the ultimate marvelous feat of envy my love, you will dare not question it.

EM ĐỪNG NGẠC NHIÊN GÌ NHÉ

chúng ta yêu nhau như những tù nhân, bị xiềng xích bởi những lời thì thầm của trái tim, sự an ủi có thể là nơi an nghỉ cuối cùng của chúng ta, chiếc giường có thể biến thành ngôi mộ, chúng ta được bao bọc trong phước lành, trong khi em cứ tiếp tục vui đùa trong thế giới này, đầu hàng nó để biến thành món đồ chơi của nó,

em vẫn cười, thở hổn hển, lạc vào một con đường nguy hiểm, cùng lúc khóc thầm, ngạt thở khi vật lộn để thở, nỗi ám ảnh méo mó của những giấc mơ,

tuyệt vọng, hãy cho anh biết, nỗi khao khát lòng thương xót, sao nó lại trốn tránh chúng ta, sao lòng thương xót lại không tồn tại, thật đáng buồn khi yêu nghĩa là cười vào giá trị của chúng ta, suy nghĩ của em thiêu đốt chính em, khi em chỉ nhìn chằm chằm vào ánh sáng của màn hình điện thoại, giữa những tiếng vọng của cuộc tình lãng mạn, anh có nên đi tìm em không,

như những câu thơ tinh tế, em ấp ủ mọi nỗi bất bình, âm thầm so sánh anh với những đam mê trong quá khứ, sự nồng nhiệt mà em từng biết với những người em yêu,

đôi môi anh thắp lên nỗi khao khát trong em, rượu vang đánh thức tâm hồn em, làn da em mang dấu vết của sự khinh miệt, dành cho những ai khao khát tình yêu nhưng lại phơi bày những ham muốn của mình,

người đàn ông chân thành để cho mỗi nụ hôn thuộc về nàng thơ của mình, trong khi ánh mắt khao khát gợi lên tình yêu chỉ nảy sinh từ sự ghen tuông, trong khoảnh khắc thoáng qua khi một người sắp chết đuối bám vào một tảng đá, họ cảm thấy mình bất khả chiến bại,

nếu một người giữ chặt lòng kiêu hãnh của mình, chắc chắn cảm xúc của họ gần như bất khả chiến bại, nhưng ánh mắt, kiệt tác của sự ghen tị, làm em không còn dám nghi ngờ gì nữa,


Lê Vĩnh Tài, the poet and translator born in 1966 in Buon Ma Thuot, Daklak, Vietnam. The retired doctor is still a resident of the Western Highlands and a businessman in Buon Ma Thuot.

Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.

I’M HERE | Lê Vĩnh Tài [485]

A poem in Vietnamese by Lê Vĩnh Tài
Translator: Nguyễn Thị Phương Trâm

I’m here
me and my ears
ready to listen to all your fears

my dear
call me
may it be laugher or tears

call me no matter what
I will be hear
I will listen, to all your fears

.
quietly

– love, would you like me to show you my magic?
your ears I will kiss
like this
my eyes you will kiss
like this

because your ears are cold
your eyes are brown and they are bold
they see me all the way to my soul
it’s not what I want
but I will always be here

sound of nothingness in our ears
hollowness all around us

my ears hears you, love:
– you have a kitchen in my mind
the pots and pans hangs on a wall
above a stove
a light blue kitchen table

light beyond the kitchen door
beyond the reach of your warm ears
beyond last night’s sleep
what did you have for breakfast
before we all head for the door?

.
and the noise in the middle of the night
our minds suffocating from all the curse
the ceremony we use to condemn the dark
beyond a dawn that is lit by an unholy red light

beyond the thunderous scream of someone or another
the poor fragile membranes in our ears
love, you demand it – please shut the fuck up
pray that all those lovely angels would stop trying to perforate my eardrums
tear and break what is left of my mind

– please, leave me alone, it’s not hard
prayers of love, calls and answers
until death separates
we’re in the street
your legs my love are like the legs of a football player
when the referee careful rips us apart
time and time again

the sound of a stallion’s hooves pounding on the burning fire of anxious waiting
the reflection of the moon in your eyes love
virtue in a pool of water
at our feet

tôi ở đây
với đôi tai
để lắng nghe nỗi sợ hãi của bạn

thân yêu
hãy gọi cho tôi
cho dù đó là nước mắt hay những tiếng reo hò

cách bạn gọi
dù điều gì sẽ xảy ra
tôi vẫn ở đây
lắng nghe, nỗi sợ hãi của bạn

.
thì thầm

– em có muốn xem phép thuật của anh không?
anh hôn tai em
như thế này
em hôn mắt anh
như thế này

vì tai em rất lạnh
còn mắt em thì nâu
chúng nhìn thấu tâm hồn anh
anh không muốn
nhưng anh luôn ở đó

âm thanh
của hư không trong tai
sự trống rỗng vây xung quanh chúng ta

tai tôi nghe em nói:
– em có một căn bếp
tôi hình dung những chiếc nồi
treo trên một cái lò, một chiếc
bàn ăn màu xanh nhạt

buổi sáng ngoài cửa bếp
không chạm tới hơi ấm của tai em
sau giấc ngủ đêm qua
em đã ăn gì vào bữa sáng?
trước khi chúng ta lao ra khỏi cửa

.
và tiếng ồn mỗi đêm
tâm trí chúng ta bị bóp nghẹt trong những lời nguyền
những nghi lễ nguyền rủa đêm tối
sau khi buổi sáng được thắp sáng bởi màu đỏ bất kính

khi ai đó gầm lên như sấm sét
hai tai mỏng manh
em nói, làm ơn im lặng
cầu xin những thiên thần đừng đâm vào màng nhĩ của anh
xé nát não anh thành từng mảnh

– hãy để tôi yên, dễ quá mà
lời cầu nguyện cho tình yêu, lời gọi và lời đáp
cho đến khi cái chết chia lìa
chúng ta đứng ở một góc phố
đôi chân em như một cầu thủ bóng đá
khi trọng tài cẩn thận xé chúng ra
hết lần này đến lần khác

tiếng vó ngựa trượt trên cảm giác hồi hộp của lửa
và mặt trăng phản chiếu trong mắt em
sự tinh khiết trong một vũng nước
dưới chân chúng ta


Lê Vĩnh Tài, the poet and translator born in 1966 in Buon Ma Thuot, Daklak, Vietnam. The retired doctor is still a resident of the Western Highlands and a businessman in Buon Ma Thuot.

Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.

YOU’RE HOME AND A VERSION OF THE POEM SNAPPED | Lê Vĩnh Tài [486]

nhà thơ Lê Vĩnh Tài

A poem in Vietnamese Lê Vĩnh Tài
Translation and photography Nguyễn Thị Phương Trâm

you’re home in the storm
no one knows where from it came
I’m a stranger sitting in a past rainy season of my own
listening to the raindrops via the voice in my mind

a pillow still wet with tears
a hand touching the month of May:
nothing.

perhaps you’re home from a mountain
that have been flattened by memory
perhaps you no longer have a name
nothing but breath on a blouse

when we no longer remember each other
a silence like how
grass grows no longer

night, find me sitting by a shadow
it saying nothing
but my teeth remember your figure
flesh, smell, the emptiness, hot

everything used to be about giving birth
now evident
when you leave
please with you to the cemetery
take my December
there, the wind will nominate a name via the warmth of someone already in the past

you’re home
September lingering the smell of mould
the smile at the end of a year
fall as though something had snapped

in unison we bled
and still in unison we said: “we care”

quiet solitude
my footsteps within you
a heart pickled in pickle juice
eyes void of the light from a tree

hair, forest, lips, grass, human flesh,
everything all at once moving
except sadness
it’s standing there
still

EM VỀ , MỘT PHIÊN BẢN CỦA BÀI THƠ BỊ GÃY


em về trong bão
không ai biết bão từ đâu
tôi ngồi như người lạ trong mùa mưa cũ của mình
nghe những hạt mưa bằng giọng của ký ức

một chiếc gối vẫn còn lệ
bàn tay chạm phải tháng năm:
rỗng.

có thể em về từ một ngọn núi
đã bị san bằng trong trí nhớ
có thể em không còn tên
chỉ còn hơi thở vướng trong áo

mai ta quên nhau
một cách im lặng
như cỏ thôi mọc

đêm, tôi ngồi cạnh một cái bóng
nó không nói
nhưng răng tôi nhớ được dáng hình em
thịt da, mùi, một khoảng trống, nóng

mọi thứ từng là sinh nở
giờ là bằng chứng
mai mốt em đi
xin nhớ đem tháng chạp của tôi
về nghĩa trang
nơi ấy, gió vẫn gọi tên bằng hơi người đã cũ

em về
tháng chín còn vương mùi mốc
nụ cười cuối năm
rớt xuống như một tiếng gãy

chúng ta bật máu cùng lúc
và vẫn cùng nhau nói: “thương”

lặng im quạnh hiu
là tiếng bước chân tôi trong em
trái tim ướp muối
mắt rỗng ánh sáng của cái cây

tóc, rừng, môi, cỏ, da người,
mọi thứ đều chuyển động
chỉ nỗi buồn đứng yên


Lê Vĩnh Tài, the poet and translator born in 1966 in Buon Ma Thuot, Daklak, Vietnam. The retired doctor is still a resident of the Western Highlands and a businessman in Buon Ma Thuot.

Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.

when the birds bark | Lê Vĩnh Tài [469]

Sketch of Lê Vĩnh Tài by Nguyễn Thị Phương Trâm

Thơ Lê Vĩnh Tài
Translation by Nguyễn Thị Phương Trâm

look, birds birds
clouds, no
rain, no
they are people
shot down by bullets
falling
like tears

they lie there
on top of each other
like lovers
smelling like stevia

they are poetry
in a cold coal stove

a poem
like two eyes
like a nose
like a face
like
yours

after you’ve been offered up as a sacrifice to the brilliant sun
you and the birds start to sing again

sounding
as though
you are
not you anymore
when the birds bark

the poem mumbles
nameless poets stumbles
start talking over
the top of each other

những con chim những con chim
không phải mây
không phải mưa
chúng là những con người
trúng đạn và rơi
như nước mắt

chúng nằm
tưởng như những người tình
thơm mùi cỏ mật

chúng là bài thơ
trong bếp than đã tắt

bài thơ
như hai con mắt
như cái mũi
như gương mặt
của
em

sau khi hiến thân cho mặt trời
chói lọi
em, và những con chim bắt đầu lại
hót

nghe như là
vọng âm
em như là
đã khác
khi những con chim
cũng bắt đầu quang quác

bài thơ thì thầm
trong lúc các nhà thơ vô danh
bắt đầu giở trò cao giọng


Lê Vĩnh Tài, the poet and translator born in 1966 in Buon Ma Thuot, Daklak, Vietnam. The retired doctor is still a resident of the Western Highlands and a businessman in Buon Ma Thuot.

Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.

MY LIFE | Lê Vĩnh Tài [484]

Sông Hương, Huế, Việt Nam Winter 2025. Photography Nguyễn Thị Phương Trâm

A poem in Vietnamese by Lê Vĩnh Tài
Translator: Nguyễn Thị Phương Trâm

Since the day she had left for the sea, I have lived on a mountain, all roads lead to one gate, it is always locked with a sign at the top: “My life.”

Each morning, I find myself in front a mirror that no longer has a reflection of me. In the mirror I see her flying away into the horizon. I would lift my finger to touch the thick film of dust on the mirror. People say: it’s not her at all, it was my memory trapped inside the shards of glass.

I did try to find “My life” else where, not in the mirror. Say the identification papers, citizenship, electric or water bill… but “My life” no matter where it might be have been separated into a series of numbers, a mindless data. I met the man who separates these series of numbers as a profession, he has a scanty black beard, he said:

– You told her your life was more important right? I nodded.

– Then you should live up to your word, forget the small stuff. From this day on, you should live up to the shadow of that life.

I asked:

– And her?

The man with the scanty beard smiled:

– She is your life. You were the one who had given it away.

I understood then that I didn’t have a choice. Convicted, I had no choice but to live my life without her. In the dark room, I heard her small voice:

– You are right, but the truth can not save you. I opened my eyes. There was no one there. When she left, I understood that my life had left with her, left behind was a body that breathes.

She left.
I stayed.
Both had taken with them “my life.”

CUỘC ĐỜI TÔI

Từ ngày nàng về biển, tôi sống trên một ngọn núi, mọi con đường đều dẫn về một cánh cổng khép kín, phía trên treo tấm bảng: “Cuộc đời tôi.”

Mỗi buổi sáng, tôi ngồi trước gương nhưng tấm gương không còn phản chiếu hình ảnh của tôi. Trong gương tôi thấy em đang bay về phía chân trời. Tôi đưa tay ra chỉ chạm được vào lớp bụi dày trên gương. Người ta bảo: đấy không phải hình ảnh của em, mà là ký ức của tôi bị chính tôi giam giữ trong những mảnh thủy tinh.

Tôi cũng thử đi tìm “Cuộc đời tôi” ở nơi khác, không phải ở trong gương. Ví như trong giấy chứng minh nhân dân, trong hóa đơn điện nước… nhưng “Cuộc đời tôi” dù ở bất kỳ đâu cũng đã bị người ta tách riêng ra thành một dãy các con số, một dữ liệu vô tri. Tôi gặp người đàn ông chuyên tách các dãy số, ông ta có hàm râu thưa màu đen, ông ta nói:

– Anh bảo với người con gái ấy rằng cuộc đời anh quan trọng hơn, đúng không? Tôi gật đầu.

– Vậy thì anh hãy sống đúng như lời mình nói đi, cứ quanh quẩn tìm kiếm cái không quan trọng làm gì. Từ nay trở đi, mỗi ngày anh sống là cái bóng của chính cuộc đời ấy.

Tôi hỏi:

– Thế còn cô ấy?

Người đàn ông râu thưa màu đen mỉm cười:

– Cô ấy chính là cuộc đời anh. Và anh đã tự tay giao nó đi mất rồi.

Tôi hiểu mình không còn quyền lựa chọn. Tôi bị kết án, bị buộc phải đi qua vô tận những ngày không còn em. Trong căn phòng tối, tôi nghe giọng em thì thầm:

– Anh nói đúng, nhưng đúng là sự thật không cứu được anh đâu. Tôi mở mắt. Không còn ai ở đó. Khi em rời đi, tôi nhận ra cuộc đời tôi đã đi cùng em, còn lại chỉ là xác thân biết thở.

Em bước đi.
Tôi ở lại.
Cả hai đều mang theo “cuộc đời tôi.”


Lê Vĩnh Tài, the poet and translator born in 1966 in Buon Ma Thuot, Daklak, Vietnam. The retired doctor is still a resident of the Western Highlands and a businessman in Buon Ma Thuot.

Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.