Portrait of the truth | Nguyễn Văn Thiện

A short story in Vietnamese by Nguyễn Văn Thiện
Translator: Nguyễn Thị Phương Trâm
Art: Nguyễn Thị Phương Trâm 

I tried with great difficulty to capture a portrait of the Truth, but after hundreds of retakes, there’s always only half of the Truth, and the other half was always hidden. When the photo was posted, people were all audibly enthusiastic, surprised, full of hope and indignation. They believed they were facing the truth. I apprised aloud: This is only half of the Truth, the other half is lagging way behind. But they refused to believe in what I had pointed out to them, they would leave, looking for more images like mine.

Do you know the value of the Truth? I don’t know for sure, but I guess it’s a considerable cost, perhaps enough for the exchange of life. Hence the Truth will always overshadow all aspects of living. It’s a long black shadow, a dark spectre, a free-flowing nefarious cape of Lucifer. Inside its shadow echoes were the tears and laughter, all that is damp and wet, reeking the smell of parties, and excessive sugary defilements.

Near the poles, the Sun is ever bright; hence, the shadow of the Truth is a permanent imprint on the land. We dwell for a long time there, looking out now and then, like toddlers playing hide and seek with themselves in front of a mirror.

Therefore, in order for the Truth to reveal itself, we need a bit of a reflection, a bit of judgement and a bit of wonder.

I’ve captured an island, from high above, the island was as blue as a bout of rain, as green as a meadow, lay there calmly in the middle of a peaceful sea. Have you seen it? The harmonious colours, glimmering light, brilliant, glorious! But it’s just a shadow of the Truth. The Truth here is only an illusion. Where I’ve just flown by, there has never been an island. If I think about it hard enough, it would appear. As for the others, knowing it’s not what it is, still full of praise, so pretty, so adorable, so endearing, it feels like a piece of me! They hide the Truth to appease a different reality.

Beyond the metaphysical, right?

The vocation of writing has made me wary, filling me up with delusions. No one wants that. One person is right; one hundred is still okay. But when the whole community is wary and delusional, it could only conclude in two possible ways: for one that community may achieve greatness; or two, that community could end up splitting up in despair.

Why is that?

Simple, they will abandon their faith completely when there’s no other faith to replace it.

Looking at all the intelligent faces boasting about their achievements, prizes, etc. in a photograph, no one believes it’s an image of the Truth.

The nature of doubt is contagious — an act, overbearing, and deceiving. I’ve heard first hand these words of deceit, at a photographic exhibition still open here in our town museum.

The doubt will come to the point of fixation, forcing you and me to be doubtful of our ego, disbelieving what is sceptical. And sooner or later, we have to see it to the end: That is, when is the beginning? Whose power has given birth to it? Or more straightforward, is it the evidence to Hegel’s ultimate theory?

If you want to eat a length of sugarcane, you have to de-shell it. If you’re going to discard the shell of scepticism, you have to extinguish the light, the Sun, not the cover of its shadow. Perhaps then, beyond the dark cover of night, you may leave. The hands you’re then able to grasp, would be the hands of the Truth, not some dangling corporal medal. Faces may dawn upon a face, the face of reality, full of the warmth of being alive, not some decorative designer cloth clinging to your skin.

In conclusion, it’s rare to meet a face worthy enough of the name to appear naked in daylight. Is it not a tragedy? It’s up to you to decide. Though there’s this, of the life that we’re presently living, in reality, none of these happy tragedies ever desist. Hence, every night eagerly, I pour alcohol down my throat, and in my dreams, infrequently engage with various faces. 

Do we need to tirelessly honour the shadow of the Truth, is this not exhausting? It would help if you found a way to unwind, like seeing a beauty contest, for an instant. Where many details are required to form beauty, eyes, voluptuous curvaceous lips, the cries, the laughter, criticism, scepticism, passing about etc. After that, do not harbour any desire to bury yourself under a blanket and sleep. Before sleeping, imagine the round face of the writer incarcerated yesterday afternoon. There’s something about their features resembling Truth. Just that much, only then, will you rest in peace.

I’ve been driving around town, ro do what, do you know? I’ve gone and found my real face. My face does not live at home, or on my person, for a long time now. It had fallen somewhere amongst the weeds, in the mud, along the side of the road of this tiny mountainous town. Now and then, I bring out my camera to admire and take pictures of my face, before deleting them, because I know, it’s not me.

Here’s a little secret, there’s a scar under my chin. Putting it cryptically, it’s sad evidence from those violent and damaging adolescent years. But no one will ever discern it. I stopped the vehicle on a bridge; beneath the bridge, the flowing stream was crystal clear, someone had mentioned. As I looked down, the scar appeared, as an imprint on the surface of the water, ruby red like evidence of a kiss.

My face was suddenly filled with anguish, and trespass.

And that was only a teeny tiny detail of the Truth!

[May 2019]

Chân dung sự thật

Tôi cố gắng chụp một bức ảnh chân dung Sự Thật, nhưng chụp đi chụp lại hàng trăm lần, cũng chỉ có một nửa sự thật thôi, còn một nửa luôn luôn bị che khuất. Khi bức ảnh được đăng lên, nhiều người xem và ồ lên thích thú, ngạc nhiên, hy vọng và căm phẫn. Họ tưởng đang đối mặt với sự thật. Tôi khuyến cáo: Đó mới chỉ là một nửa sự thật thôi, còn một nửa đang nằm xa phía sau kia. Họ không tin, và bỏ đi, xem tiếp những bức ảnh khác…

Bạn biết Sự Thật có giá bao nhiêu không? Tôi cũng không biết chắc, nhưng đoán chừng đắt lắm, có khi đổi cả mạng sống. Vì thế mà Sự Thật luôn luôn đổ bóng lên mọi diễn biến của đời sống. Bóng đen của nó kéo dài như bóng ma hắc ám, như một áo choàng của quỷ phấp phới bay. Từ trong đó vọng ra những khóc cười, những thi vị ướt át, những hân hoan mùi mẫn, những cưỡng hiếp ngọt ngào…

Ở xứ nhiệt đới, mặt trời luôn hiện diện chói lòa, vì vậy, bóng của Sự Thật cũng theo đó mà in rõ ràng lên mặt đất. Chúng tôi sống lâu trong đó, lâu lâu ngó ra ngoài, như những đứa trẻ thiểu năng chơi trò chơi trốn tìm với chính nó trong gương…

Vì vậy, để nhìn được một chút sự thật nào đó, chúng ta cần một chút liên tưởng, một chút phán đoán và một chút hoài nghi.

Tôi chụp một hòn đảo, từ trên cao nhìn xuống, xanh như một cơn mưa, xanh như một cánh đồng, nằm thanh bình trên biển lặng. Bạn thấy chưa? Màu sắc hài hòa, ánh sáng long lanh, rạng rỡ, đẹp lắm! Nhưng nó mới chỉ là bóng dáng của Sự Thật thôi. Sự thật, đó chỉ là một ảo ảnh. Trên vùng biển tôi vừa bay qua, không hề có hòn đảo nào hết. Tôi nghĩ đến nó và nó có mặt. Những người khác, biết nó không còn là chính nó, nhưng vẫn khen, đẹp quá, yêu quá, gắn bó quá, ruột thịt quá! Họ đang che giấu sự thật để vỗ về một sự thật khác.

Siêu hình quá, phải không?

Công việc viết lách bắt tôi nghi ngờ và tưởng tượng. Không ai muốn thế cả. Một người thì được, một trăm người, vẫn còn được. Nhưng nếu cả một cộng đồng hoài nghi và tưởng tượng, thì có hai khả năng: Một là cộng đồng đó vĩ đại, hai là, cộng đồng đó sắp lao xuống vực thẳm.

Vì sao ư?

Đơn giản, họ sẽ mất hết niềm tin. Khi chưa có một niềm tin khác thay thế.

Nhìn vào một gương mặt tươi cười đang nói về những chiến công, thành quả vân vân… trong một tấm ảnh, tất cả mọi người đều không nghĩ tấm ảnh đó là sự thật.

Cảm giác hoài nghi có tính lây lan. Diễn, làm gì có chuyện đó, phét lác, lừa lọc… Tôi đã nghe tận tai những từ ấy, tại một cuộc triển lãm ảnh về cuộc sống đương đại tổ chức trong bảo tàng thành phố, hôm qua.

Sự hoài nghi sẽ đến lúc ám ảnh mạnh mẽ khiến tôi và bạn hoài nghi chính mình. Hoài nghi nỗi hoài nghi. Và không sớm thì muộn, tôi và bạn phải truy đến cùng: Cái ấy, bắt đầu từ đâu? Ai, thế lực nào đã tạo ra nó? Hay đơn giản, nó chỉ là một minh chứng cho thuyết ý niệm tuyệt đối của Heghen?

Muốn ăn một khúc mía, bạn phải bóc vỏ. Muốn vứt bỏ hoài nghi, bạn hãy tắt ánh sáng đi, tắt mặt trời đi, đừng để cái bóng của nó che lấp. Khi đó, đêm đen sẽ bao trùm, bạn bước đi. Bàn tay nếu nắm được bàn tay, sẽ là bàn tay thật sự, chứ không phải là một công cụ đeo bám bên cạnh con người. Khuôn mặt nếu nhìn thấy khuôn mặt, thì đó sẽ là khuôn mặt thật, chứa chan hơi ấm của sự sống, chứ không phải là một vật trang trí phía trên thân xác con người…

Nói như vậy cũng có nghĩa là, bạn sẽ hiếm khi gặp được một gương mặt xứng đáng với cái tên gọi của nó giữa thanh thiên bạch nhật. Điều đó có phải là bi kịch không? Tùy bạn nghĩ. Chỉ có điều này, cuộc sống mà chúng ta đang sống, thực sự chưa bao giờ chấm dứt các bi kịch vui vẻ. Vì vậy, tôi thường nốc rượu rất hăng hái vào mỗi đêm, và trong mơ, thỉnh thoảng có gặp một số mặt người…

Chúng ta luôn luôn phải chiêm ngưỡng cái bóng của Sự Thật, mệt mỏi quá phải không? Bạn hãy tìm cách thư giãn đi, ví dụ như xem một cuộc thi hoa hậu chẳng hạn. Ở đó có rất nhiều chi tiết cấu thành cái đẹp, những mắt những môi phong nhũ phì đồn, những khóc những cười, phỉ nhổ, hoài nghi, đánh đổi vân vân. Và sau đó thì đừng thủ dâm mà hãy trùm chăn nằm ngủ. Trước khi ngủ bạn tưởng tượng lại gương mặt tròn xoe của một nhà văn vừa bị bắt chiều qua. Có một cái gì đó gần gần giống gương mặt thật. Chừng đó thôi, sau đó, bạn sẽ ngủ một giấc thật dài…

Tôi vừa phóng xe một vòng quanh thành phố, để làm gì, bạn biết không? Tôi đi xem bộ mặt thật của tôi. Mặt tôi không ở trong nhà, trên người tôi, từ lâu lắm rồi. Nó rơi đâu đó trong cỏ, trong bùn, dọc ven đường của phố núi bé tẹo này. Thỉnh thoảng tôi có đưa máy lên ngắm mặt tôi và chụp, xong rồi lại xóa đi, vì tôi biết, đó không phải là tôi.

Có một bí mật nho nhỏ, dưới cằm tôi có sẹo. Nói một cách ẩn dụ bóng bẩy thì đấy là dấu vết tổn thương của một tuổi thơ dữ dội và rách nát. Nhưng mà không ai biết đâu. Tôi dừng xe lại trên một cây cầu, dưới cầu nước chảy trong veo, chả biết ai từng nói thế. Tôi ngó xuống, và vết sẹo nổi lên, in ngay mặt nước, đỏ chót như một dấu môi hôn…

Đau đớn và đầy tội lỗi, mặt tôi đấy…

Đó cũng mới chỉ là một phần bé tí tẹo của Sự Thật mà thôi!


Nguyễn Văn Thiện
Born: 1975
Home town: Anh Sơn – Nghệ An
Master in Comparative Literature and Critical Theories
Currently a high school teacher, and a prolific writer.
Editor of Chư Yang Sin (Đắk Lắk) Art and Literary Journal.

Nguyễn Thị Phương Trâm, the poet and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.

speaking for the dead | Nguyễn Văn Thiện

A short story in Vietnamese by Nguyễn Văn Thiện
Translator: Nguyễn Thị Phương Trâm 
Art: Đinh Trường Chinh

There were long nights, rendered with nightmares, I tried to stay awake, kept my eyes open. Lying on my stomach, my mouth opened, tried to breathe through them. Crawled from my mouth were snakes and all kinds of tiny critters, toads and frogs jumping, dung beetles, they poured from my mouth like the seasonal floods in the midlands, as though they’re fleeing from war, refugees, boat people, or a funeral procession…

I asked: “Is there a demonstration somewhere?”.

The critters in unison replied: “We speak for the dead!”. It irritated me since it has nothing to do with my question. Is it worth my time to chase and kill every single one of them? So I ignored them. Though I was curious about where they were going and why on such long hot humid nights, I decided to wait and watched them…

I announced: “I won’t call you guys just guys, we’re all brothers and sisters, we’re comrades…”. Hearing that, they laughed out loud. The beetle with hard armour at the end turned around and said: “Shut up! Just stay still, stop prattling!”. Woah, they’re threatening me! There was no reason for me to be afraid, but I continued to lie still. Do they actually speak for the dead? We’ll just have to wait and see.

At the height of the night, the moon was high, the luminescence of melodious poetry. The hoard of reptiles and critters from my mouth continued to crawl out, in a line snaking in the middle of the yard. The air was unmoving, hot, and humid. Still, I was too afraid to close my eyes and sleep. On my stomach, my hands supporting my chin, quietly watched them play…

The night went on forever, especially those hot hights. Longer was the nights you couldn’t sleep. I thought of those who have died, what was there left to say? Why are these critters speaking for the dead, why were they pouring from my mouth? The number of deaths was countless, death on footpaths, death by the river, death at sea, death on planes, death at night, death in the middle of lunch, death early in the morning, dead being run over by a car, dead from hanging, death by a rifle and bayonet, death by choking, death by rape… how could they have enough words?

The light blue snake hissed: “We are beings without possessions!”. The hoard together screeched in agreement, shouting as though it was the wind shrieking, whipping at a cliffside: “Without possessions!”. Straight after, the snake symbolically slithered up the freshwater mangrove(1) its head hanging, swaying as though it was drunk. A beetle in the iron clad armour crawled out screeching: “We live only for others, not just for ourselves!”. The entire hoard screeched hissing in succour: “Not just for ourselves!”. Ah, so they’re just playing some childish game, this whole time!

They were lying. I finally grasp the idea of the situation.

Sharp little toad cheeks bloating croaked: “I hate liars!”. The hoard in an echo: “Down with the liars!”.

I had an uncle, dead for a long time now. Pappa used to tell us: “Your uncle before his last breath, asked his wife for a bowl of sticky rice, but there weren’t any!”.

I thought, the dead, if they did leave a message behind for posteriority, it wouldn’t be something so ordinary. For example, my uncle, if he had left a message, would say, try to build a good life, a life that you will be proud of and it will make you happy. Not, give me a bowl of sticky rice! The snakes and critters were absorbed in their games in the middle of the yard. The moon continued to shine. The air was ceaselessly hot. Sleeplessness was a painful disposition. I let out a scream as though someone was sticking a finger down my throat: “Give me a bowl of sticky rice!”. The snake beetles frogs toads startle, froze. Dazed for a second before they burst out in fits of laughter. “Dead people do not ask for food, stupid, the dead speak of much more wonderful stuff, just shut up, leave it to us!”.

I’ve only recently discovered I have a superpower: Whenever I think of something, immediately it appears! I just thought of Buddha, Buddha would appear, and of course with a white beard, and a benevolent face. As Buddha sat down, the snakes and critters would slither surrounding him. On Buddha’s palm was a bowl of sticky rice. So it turns out my desire was heard by Buddha, no, my uncle’s desire. Now that to me was the real Buddha…

The Buddha laughed, and asked the snakes and critters: “All that talking, doesn’t it make you hungry and tired?”. “Yes”. Barely acknowledging Buddha, the snakes, bugs frogs toads without much crowded around the bowl of sticky rice and ate it.

Through his smiling squinty eyes, Buddha teased me, Buddha’s voice was like the wind: “You’re so stupid, what era do you think this is that you continue to pester for equality and the truth!”.

I get it, Buddha came from the same domain as the snakes and critters…

Close to morning, the air was cooler, I fell into a deep sleep, as the snakes, bugs toads frogs continued to play and compete to talk for the dead. In my dreams, I saw the dead lining up quietly, their peering eyes were on fire. They had no beautiful words, no plain words. Nor do they beg for bowls of sticky rice or fight for food.

The dead said nothing. The hoard of snakes bugs frogs toads continued to fight for food for a chance to speak.

They spoke until they were bored then fell asleep in the moonlight. Buddha, after all the talk and laughter of pure benevolence, was left to stand there alone. Resentfully I said in my sleep: “Buddha, you should just go!”. Buddha turned around and left, his tail swaying like that of a fox. Oh god, I’m a fool, it was actually a fox from Mount Chư Mang, it came down the mountain looking for someone to play with on this blistering hot night. Not Buddha, it was now clear!

The dead also quietly left, their eyes ablazed and always on fire.

(1)Barringtonia acutangula: or freshwater mangrove is a symbol of prosperity.

[August 2019]

NÓI THAY CHO NGƯỜI ĐÃ CHẾT

Truyện ngắn Nguyễn Văn Thiện

Có những đêm dài, bị truy sát bởi ác mộng, tôi không dám ngủ, chỉ nằm thôi. Tôi nằm sấp, há mồm ra để thở. Từ trong mồm rắn rết bò ra, cóc nhái bò ra, bọ rệp cũng bò ra, cả bầy, cả lũ, như chạy giặc, như di cư, như vượt biên, như tang lễ…

Tôi hỏi: “Tụi bây đi đâu mà đông vui như thể biểu tình bãi khóa?”.

Rắn rết cóc nhái trả lời: “Chúng tôi nói thay cho những người đã chết!”. Bực chưa? Hỏi một đường chúng trả lời một nẻo. Không lẽ đuổi theo mà giết từng con? Thôi thì kệ bọn nó. Để xem chúng kéo đi đâu giữa những đêm dài nóng nực…

Tôi nói: “Tao không gọi mày là mày, tất cả chúng ta là anh em đồng chí…”. Bọn chúng nghe thế, cười khành khạch. Con rết bận áo giáp đi sau cùng quay đầu lại nói: “Liệu hồn! Nằm im đấy, đừng lải nhải!”. Ghê, chúng dám dọa tôi ư! Còn lâu tôi mới sợ, nhưng vẫn nằm im. Có thật là chúng nó nói thay cho những người đã chết không nhỉ? Phải chờ thôi.

Trăng khuya đã lên rồi, vằng vặc như trong thơ và trong nhạc. Bầy rắn rết cóc nhái từ miệng tôi bò ra, xếp hàng rồng rắn giữa sân. Trời vẫn nóng hầm hập. Tôi vẫn không dám ngủ. Nằm sấp, im lặng xem chúng chơi đùa…

Đêm dài lắm, nhất là những đêm trời nóng nực. Nếu không ngủ được, đêm càng dài. Tôi nghĩ, những người đã chết, họ còn gì để nói nữa không nhỉ? Tại sao bầy động vật này lại sinh ra để nói thay người đã chết? Mà người đã chết thì nhiều vô kể, chết trên đường đi, chết bên sông, chết trên biển, chết trên máy bay, chết trong đêm , chết giữa trưa, chết sáng sớm, chết vì xe cán, chết vì treo cổ, chết vì súng bắn lê đâm, chết vì sặc nước, chết vì bị hiếp dâm… làm sao chúng nói thay cho xuể?

Con rắn màu xanh da trời rít lên: “Chúng ta là những kẻ không cần tài sản!”. Cả bọn rít lên theo, như tiếng gió thổi bên vách núi: “Không cần tài sản!”. Nói rồi, rắn điềm nhiên bò lên cây lộc vừng nằm, thò đầu xuống, lắc lư như đầu thằng say rượu. Con rết mặc áo giáp sắt bò ra, hét toáng: “Ta sống đây là vì người khác, không phải cho riêng mình ta!”. Cả bọn lại hét lên phụ họa: “Không phải riêng mình!”. À, hóa ra chúng chơi trò con nít, tưởng gì!

Chúng nói phét thế thôi. Chuyện này, tôi biết rồi.

Chú nhái bén phùng mang trợn má hét: “Tao ghét những đứa gian lận!”. Cả bọn hét theo: “Đả đảo gian lận!”.

Tôi có một ông bác, chết từ thời tám hoảnh. Cha thường kể: “Bác mày trước khi chết đòi vợ một bát cơm nếp, nhưng không có!”.

Tôi nghĩ, những người chết, nếu có thể gửi tiếng nói lại cho hậu thế, chắc họ không nói những chuyện tầm thường đâu. Ví dụ, như bác tôi, nếu có gửi lời lại, thì cũng sẽ nói rằng, cố mà xây dựng cuộc sống làm sao cho yên vui. Chứ không lẽ lại nói, cho tao bát cơm nếp!

Bọn rắn rết vẫn mải mê chơi giữa sân. Trăng vẫn sáng. Trời vẫn nóng. Không ngủ được, cảm giác cực kỳ khó chịu. Tôi hét lên như có ai móc họng: “Cho tao bát cơm nếp!”. Bọn rắn rết cóc nhái giật mình dừng cả lại. Chúng ngớ ra một lúc rồi cười sằng sặc. “Người chết không xin cơm, đồ ngu, người chết nói điều đẹp đẽ hơn nhiều, mày im mồm lại, để chúng tao nói thay cho!”.

Tôi vừa phát hiện ra mình có một khả năng siêu phàm: Hễ tôi nghĩ đến cái gì, lập tức cái đó xuất hiện! Tôi vừa nghĩ đến Phật, lập tức Phật hiện ra, đương nhiên là râu cước bạc phơ, đương nhiên là vẻ mặt nhân hậu. Phật ngồi xuống, bọn rắn rết bò lượn quanh. Trên tay Phật cầm một tô cơm nếp. Hoá ra Phật nghe được ước mơ của tôi, không phải, ước mơ của bác tôi. Thế mới gọi là Phật chứ…

Phật cười, hỏi bọn rắn rết: “Ai bảo tụi bay nói thay người đã chết?”. Lũ nó trả lời: “Chúng tôi tự nguyện”. Phật lại hỏi: “Nói mãi thế, có đói, có mệt không?”. “Có”. Rồi không đợi Phật nói gì thêm, rắn rết cóc nhái bu vào bát cơm nếp bốc ăn ngon lành.

Tôi thất vọng, bác tôi cũng thất vọng, chính tôi nói dùm bác tôi, xin một bát cơm nếp, sao bọn kia lại được ăn?

Phật nheo nheo mắt giễu tôi, nói như gió thoảng: “Mày ngốc quá, thời này là thời nào mà cứ đòi công bằng, trung thực!”.

Tôi hiểu rồi, Phật cũng là kẻ cùng phường với rắn rết…

Gần về sáng, trời mát, tôi ngủ thiếp đi, trong khi lũ rắn rết cóc nhái vẫn múa hát vòng quanh và tranh nhau nói thay người đã chết. Trong mơ, tôi thấy những người chết sắp hàng đứng nhìn lặng lẽ bằng đôi mắt ngùn ngụt lửa cháy. Họ không nói gì đẹp đẽ, không nói gì tầm thường. Họ cũng không xin cơm nếp và họ không tranh nhau ăn cơm nếp.

Những người đã chết, họ không nói gì. Bọn rắn rết cóc nhái tranh nhau ăn và tranh nhau nói.

Chúng nói chán và ăn no rồi nằm ngủ dưới trăng. Phật, sau một hồi nói nói cười cười bạc phơ nhân hậu, chỉ còn đứng trơ lại một mình. Tôi nói trong giấc ngủ ấm ức: “Thôi, Phật đi đi!”. Phật quay lưng đi, phe phẩy cái đuôi dài y như đuôi cáo. Trời ạ, hóa ra là tôi nhầm, đó là một con cáo trên núi Chư Mang xuống chơi giữa đêm nắng nóng. Không phải Phật, hèn gì!

Những người đã chết cũng lặng lẽ bỏ đi, những đôi mắt vẫn ngùn ngụt như lửa cháy.


Nguyễn Văn Thiện
Born: 1975
Home town: Anh Sơn – Nghệ An
Master in Comparative Literature and Critical Theories
Currently a high school teacher, and a prolific writer.
Editor of Chư Yang Sin (Đắk Lắk) Art and Literary Journal.

Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.

Resident zombie | Nguyễn Văn Thiện

bóp tim by Đinh Trường Chinh

A short story in Vietnamese by Nguyễn Văn Thiện
Translator: Nguyễn Thị Phương Trâm 

Inside me is a resident zombie, it’s true, I’m not making this up. It also wants to eat, sleep, and make love, and it’s obsessed with slogans, and it is a continuous pain in the neck. I tried to reason with it, you have to let me get on with my life, I have to work, make money to support you! It said nothing, shifted ever so lightly before I fell asleep, it seems like I was able to reason with it, not the kind of zombie completely out of its mind. Sometimes for reasons unexplained, my soul would leave its body, all I know is that it would leave Mount Chư Mang, and the zombie would take over. You find him shouting things like: “Oh bells of hell, ring louder, come on, louder, louder than that!”.

There, it just screamed again…

My lips puckered up, as I tried to sound like the echoes of the bells from hell: U…u…ri…ri… It would then shut up. It seems like it was quite afraid of the sound of the bells from hell, things like that, for reasons unbeknownst to me. No matter how many times I’ve asked, it remained silent.

Have you ever felt anxious for no reason at all? It is very possible that inside you is a resident ghost. They also want to eat, sleep, and make love, and they are obsessed with slogans.

Hence, it’s an intense battle for me one day after the other. In my bed each morning, I would wake up with a plan on how to subdue this annoying resident zombie. I would try to find ways to trick it, reason, or threaten it, so it may remain still and disciplined. After that, it’s a different kind of battle beyond my bed, I’m exposed to the bare essentials of trying to make a living.

I’ve yet to mention the bloody battlefield outside. Born in an era when power is worshipped, it’s more than often we must make use of our muscles. We’re always ready for a fight anywhere, any time for any reason at all, may it be big or small. If you’re still questioning these facts, all you need to do is open any page of the newspaper and you can see the evidence for yourself, so I don’t have to repeat myself. There were days when I would return home with bloodied lips because of a fight at the council. Now, there’s something rather interesting which has never been in the papers: My eyes are rather confronting, more white than black, tiny irises, they’re egging for a fight! Hence, I’m always ready for a fight, any kind of thrashing. The days would run into each other, I was lucky if I had made it home without a bruise, with my life. To then start my battle with my resident zombie!

Exhausting? Yes.

A trial? Yes.

Depressing? Yes.

Then, what is the point of living? 

To fight with zombies!

If you had to live with a ghost, what would it be like? Wouldn’t it drive you nuts? I’m no different. I tried all sorts of ways to get rid of it. I reasoned: Why don’t you take a break, go on a trip for a few days? It said nothing before hiding itself away in a dark hole somewhere, a parasite like malaria hiding from drug treatment. As soon as I relaxed it would show itself, cause as much trouble as it could possibly make, asking to do this and that. Luckily where I live, there’s a consistent ringing echo of the bells from hell. Hell is apparently not very far from the foot of Mount Chư Mang. The alluring sad sound beckoning, inviting, threatening, dampened the ghostly spirit somewhat. 

There were the surreal days when it was endlessly windy and I was undisturbed.

There were the vivid moonlit nights when I was left in peace.

Alone, I was able to soak up the moonlight bouncing back from the bottom of the lake.

The mornings when the sunlight was as pure as it was in folklore. Void of a single echo from hell. I would loosen up, allowing myself to bathe in the rare sweet desolation. The resident zombie was probably wandering lost somewhere or asleep in some dark corner within the heart of humanity. There was no screaming, shouting, or sign of a struggle. I would go for a stroll on a familiar path, ears tentative to the wild daisies chatter about a honey-sweet spring over a mountain somewhere. Eyes piercing the distance, searching for whatever it was far as the eye could see beyond the reeds. Looks like there won’t be a battle today!

I am terrified of the afternoons alone. 

The mosquitoes buzzing in the dark shrubs as though they’re crying, mourning something or another.

The teenagers go home with their laughter. Mount Chư Mang is like some lonely drunk barely able to stand up staring at his ageing reflection in Năng river. The zombie in me would then begin to itch, blurting long-live slogans. I read a poem out loud like a mantra: Don’t throw me into the chasm, dear comrade, don’t filter this life out with the stroke of a pencil…

Promptly came would be the echo of bells from hell, surely and clearly, like the miracle of shimmering fractured moonlight through the thick mist rolling down the spine of the mountain. The zombie would shut up and not make a sound like a child afraid of the Boogeyman. And at the same time, came the sound of punching and kicking at the head of the alleyway, my neighbours fighting for my entertainment, it was nothing new. I would then head straight for the scuffle, and find myself in the middle of the punching, kicking, and sticks flying. My life is one way or another a constant battle. It would always end with a bleeding nose, and or bloody spit and split lips.

At the moment, I’m sitting here as the curtain of night descends. Momentarily oblivious to the presence of the zombie, the impending intense battles to come, so I may bathe for a minute in the thousand-year-old peaceful civilization of my homeland. You never know, the moon might rise, and the moonlight may cover up all this chaos and exhausting commotion about survival right at the precipice of a bottomless hell. 

I will wait.

I will patiently wait.

And I might fall asleep on the sidewalk, like a hungry little boy begging for food, falling asleep through the chill and cold wind. And in my dreams, resounding will be the echoes of bells rising from beneath the sidewalk. 

Thây ma trú ngụ

Truyện ngắn Nguyễn Văn Thiện

Trong người tôi có một thây ma trú ngụ, thật đấy, không bịa đâu. Nó đòi ăn đòi ngủ đòi yêu và đòi hô khẩu hiệu nữa, phiền toái quá chừng. Tôi dỗ nó, mày phải để yên cho tao sống, tao làm việc, tao nuôi mày! Nó không nói gì, chỉ khe khẽ cựa quậy rồi ngủ, hình như nó cũng biết nghe lời, không phải loại thây ma chết tiệt.

Có những buổi hồn tôi đi vắng, vì lí do gì thì chưa rõ, chỉ biết hồn đi vắng khỏi núi Chư Mang, thây mà tha hồ quậy phá. Hắn hét lớn: “Hỡi tiếng chuông địa ngục, mày ngân lên xem nào, ngân nga to nữa đi nào!”.

Đó, nó vừa hét đó…

Tôi chu mỏ lên, bắt chước âm thanh tiếng chuông vọng về từ địa ngục: U… u…ri…ri… Thế là nó im. Hóa ra, nó chỉ sợ tiếng chuông địa ngục, chỉ sợ mỗi thứ đó thôi, vì sao thì tôi chưa biết được. Bao nhiêu lần rồi tôi hỏi, nó chỉ lặng im.

Bạn đã bao giờ cảm thấy cồn cào gan ruột mà không biết vì lẽ gì chưa? Rất có thể, trong bạn cũng có một hoặc nhiều hồn ma cùng trú ngụ. Chúng đòi ăn đòi ngủ đòi yêu đòi hô khẩu hiệu. 

Bởi vậy, với tôi, mỗi ngày là một cuộc chiến tranh khốc liệt. Mỗi buổi sáng choàng thức dậy trên giường, là tôi lập tức nghĩ cách trấn áp cái thây ma nhiều chuyện trong mình, hoặc lừa nó, hoặc dỗ dành hoặc dọa nạt, để nó nằm im. Sau đó là một trận chiến khác, với cuộc đời trần trụi ngoài kia.

Tôi còn chưa kịp kể về những trận chiến đẫm máu bên ngoài. Sinh ra trong một thời đại tôn thờ bạo lực, mỗi người chúng tôi đều phải thường xuyên nhờ đến sức mạnh cơ bắp. Chúng tôi sẵn sàng hỗn chiến với bất cứ đám nào với bất kỳ lý do nào dù to dù nhỏ. Nếu bạn còn hoài nghi điều này xin hãy mở trang báo ra đọc mỗi ngày, khỏi mất công kể lại. Có những ngày, tôi về đến nhà với cái mồm đỏ lòm máu vì bị đánh hội đồng. Có chuyện này chưa có báo nào đăng nên kể thêm tí nữa cho vui: Mắt tôi vốn gườm gườm, lòng trắng nhiều hơn lòng đen, nhìn vào ai cũng như đang nhìn đểu! Thế là ăn đòn, thế là hỗn chiến. Đấy, mỗi ngày như mỗi ngày, về được đến nhà là may. Để rồi, lại bắt đầu một cuộc chiến khác với thây ma!

Mệt mỏi không? Có.

Nặng nhọc không? Có.

Đau buồn không? Có.

Vậy thì sống để làm gì?

Để chiến đấu với thây ma!

Nếu bạn phải sống chung với một hồn ma, bạn sẽ thấy thế nào? Cực kỳ khó chịu, đúng không? Tôi cũng thế. Tôi tìm mọi cách xua đuổi nó ra ngoài. Tôi dỗ: Thôi, hay mày đi đâu đó ít hôm đi? Nó im lặng trốn vào đâu đó trong sâu thẳm, như con vi trùng sốt rét kháng thuốc. Hễ tôi lơ đi là nó lại vùng vằng đòi nọ đòi kia. Cũng may, nơi tôi ở, thường xuyên vọng về những hồi chuông từ địa ngục. Hình như từ chân núi Chư Mang đến địa ngục khá gần. Những âm thanh quyến rũ thê lương ấy nhiều lần rủ rê, mời mọc, đe dọa, khiến cho hồn ma bớt phá phách đôi phần.

Cũng có những ngày mênh mang gió thổi tôi không hề bị quấy rầy.

Cũng có những đêm mênh mang trăng sáng tôi không hề bị làm phiền.

Tôi một mình lên núi ngắm trăng suông dưới đáy hồ…

Những buổi sáng nắng trong veo như thuở còn cổ tích. Không có tiếng chuông nào từ địa ngục vọng về. Tôi thả lỏng trong cảm giác cô đơn ngọt ngào hiếm gặp. Thây ma trú ngụ chắc cũng dạo bước lang thang đâu đó hoặc nằm ngủ quên giữa sâu thẳm hồn người. Không nghe hò hét, không nghe quẫy đạp, không nghe kêu gào. Tôi dạo bước trên con đường quen thuộc, nghe hoa cúc dại kháo nhau về một triền núi mùa xuân mật ngọt. Đôi mắt bâng khuâng dõi mãi cuối trảng cỏ. Ngày hôm nay, có lẽ sẽ không có cuộc chiến đấu nào xảy ra!

Tôi sợ lắm những buổi chiều cô quạnh.

Tiếng muỗi vo ve trong vòm lá đen sẫm không biết than khóc điều gì hay nuối tiếc điều gì.

Lũ trẻ trâu mang tiếng cười về với mái nhà của chúng. Núi Chư Mang như một gã đàn ông cô độc nghiện rượu nghiêng mình soi tuổi tác xuống sông Năng. 

Hồn ma lại bắt đầu cựa quậy, lớn tiếng hô khẩu hiệu vĩ đại với muôn năm. Tôi đọc một câu thơ như thầy cúng niệm bùa chú: Đừng dắt ta đi vào vực thẳm, đồng chí ơi, đừng lừa lọc nhân gian bằng những nét bút chì…

Đúng lúc đó thì tiếng chuông ở địa ngục vọng về rõ ràng, thong thả, nhiệm màu như ánh trăng vỡ long lanh lăn tròn bên dốc núi đầy sương. Thây ma liền im thin thít, như trẻ con nghe tiếng ông Ba Bị. Cũng vừa lúc đó, tiếng đấm đá thụi bịch ngay trước ngõ, hàng xóm đánh nhau cữ chiều tôi, chuyện thường. Tôi lao ngay ra và tham chiến giữa bốn bề tay chân gậy gộc. Cuộc đời tôi là những trận đánh liên hoàn. Trào máu mồm máu miệng thì thôi.

Giờ thì tôi ngồi đây, khi màn đêm trùm xuống. Tạm quên thây ma, tạm quên hỗn chiến, hưởng một phút thanh bình của quê hương ngàn năm văn hiến. Biết đâu rồi trăng sẽ mọc lên, phủ lên tất cả những bi kịch ồn ào nặng nhọc của kiếp người bên miệng địa ngục hun hút. 

Tôi đợi! 

Tôi vẫn kiên trì đợi!

Và rồi ngủ quên bên hè đường, như đứa trẻ ăn mày bụng đói, lả đi khi gặp cơn gió lạnh. Và trong mơ, văng vẳng tiếng chuông mời mọc lên đường.


Nguyễn Văn Thiện
Born: 1975
Home town: Anh Sơn – Nghệ An
Master in Comparative Literature and Critical Theories
Currently a high school teacher, and a prolific writer.
Editor of Chư Yang Sin (Đắk Lắk) Art and Literary Journal.

Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.

straightening a curl as I walk | Nguyễn Văn Thiện

bia người by Đinh Trường Chinh

A short story in Vietnamese by Nguyễn Văn Thiện
Translator: Nguyễn Thị Phương Trâm 

On Mount Chư Mang – yes again Mount Chư Mang, where else could I go? – There are eyes sparkling innocently like stars, but there are also the devilish red eyes in the enchanted night. There’s nowhere for saints and angels to hide; they’re forced to confront the peril.

I’m straightening a curl. Not because I’ve lost my mind, it’s my way to attain perspective before facing angels and demons. Both sides find my stupidity pitiful; they tolerate me; probably I’m still alive.

No one will come to your aid if unluckily you fall into the mouths of demons. Your friends shall be oblivious to the point of viciousness, and they’ll watch and laugh as you drop from the ninth level of heaven. But entertaining for any distraught crowd. 

Hence, don’t be so straight, smile, don’t worry if it’s a little crooked, tasteless, add a bit of spit on your lips for drama, and you’ll be just fine.

I’m on the contrary, always straightening a curl as I walk!

How hard is it to straighten a curl? Hard, but not impossible. How hard is it to keep your balance on a rope between the mouths of angels and demons? Hard, but not impossible. It would be best if you didn’t look down too long at the rowdy crowd. They were born there; their heads were stuffed with hard ideologies, tough as nails, they’re everywhere like mosquitoes like water droplets in canyons, so don’t lose your temper. If you lose your temper, the curl shall break in half. Try it if you don’t believe me!

You asked me: “Why would anyone want to write something so depressing?”. I don’t have an answer for that, I didn’t have a chance to prepare an answer, so I won’t. My attention for the moment is focused on sketching a person in a storm or a dusty red sunset walking on a road. I wanted to describe my current situation; whether it’s happy or sad?

The last few days, images of a young boy floating face down in a pool of water washed up on a beach had plagued people’s minds. There has been a unified expression of love for humanity through evidential tears of compassion beyond borders. But, no one bothers to cry for the children at home, right by their side. The lives of the tiny little souls, yellow skin, they too bleed red, we watched them as they were being stepped upon, and we averted our eyes?

You said: “We cry for them now, who will cry for us later?”. In a place where every folklore is a tragedy then whether there are tears or no tears, compassion or indifference, there’s nothing of consequence!

Me fiddling with my one hair like an autistic child, jaw clamped shut as the teacher asked for an answer—the very curly hair, mystically shiny in the sunlight. Not every tear is a precious gem, and that’s the truth! I told you a story about a fairy godfather who had a kind face, tearful, and a bloody hand in the dark. Believe it or not, but if you’re not careful, you may drown in the tears of these righteous saints. Me, with a hair the colour of sunlight in my hand, I will continue to move forward, in the light, in the rain, through the screams of fanatics trying to protect a corpse in a pool of darkness. I tried to keep my sense of perspective, like a professional circus performer on a tightrope, across a valley of knives.

Sometimes I’m anxious, confused, since down there, the crowd never once stopped screaming. The fleshy red maws could swallow the whole of humanity. They were chosen for an important job of controlling the rhythm of this noisy life. But day after day they’re becoming more and more powerless, more helpless, more dangerous. “Take whatever you can!”, their pride is like an angry wave. Then there are times when they are soft and ignorant. Watching me straightening out my tight curl as I walked, they laughed, I was an alien from another planet. I laughed, with a bit of spit on my lips, though confused, I would continue with whatever I was doing, a circus performer on a tightrope.

Dangerous, but exciting, this is something, only I know!

Straightening a tight curl as you walk. Blokes with faces as cold as blocks of ice stopped me: “Hey, what are you up to?”. “Mate, what have you got up your sleeve?”… I laughed and showed them the tight curly hair in my hand. And they would laugh till they almost choked to death, before they abandoned me again, on my tightrope!/

Vừa đi vừa vuốt thẳng một cọng lông

Trên núi Chư Mang – lại núi Chư Mang, chứ còn biết đi đâu được nữa? – có những đôi mắt trẻ thơ như sao lấp lánh, nhưng cũng có những đôi mắt quỷ đỏ lòm trong đêm đen huyễn hoặc. Không có nơi nào cho thần tiên trú ngụ, bắt buộc chúng ta phải tìm cách đối phó với những hiểm nguy.
Tôi ngồi vuốt thẳng một cọng lông. Không phải điên khùng loạn não đâu, đó là cách tôi lấy lại thăng bằng để chơi cùng một lúc với thánh thần và ác quỷ. Cả hai phía đều thấy tôi ngu đần lẩn thẩn đến tội nghiệp, nên họ bỏ qua cho, để còn sống đến ngày mai.

  Không có ai dám bênh vực bạn đâu, nếu như bạn không may ngã vào miệng quỷ. Bạn bè của bạn sẽ trở nên vô tâm đến tàn độc và hả hê cười khi thấy bạn rơi từ chín tầng trời. Thậm chí cú rơi ngoạn mục ấy trở thanh trò giải trí cho đám đông quẫn bách.
Vậy nên, tốt nhất là hãy giữ thăng bằng, trên miệng hãy luôn luôn một nụ cười, méo mó cũng được, vô vị cũng được, thậm chí chảy thêm một ít nước bọt giả ngây giả dại cũng chẳng sao.

Tôi thì khác, vừa đi vừa vuốt thẳng một cọng lông!

  Vuốt thẳng một cọng lông có khó không? Khó, nhưng không phải là điều không thể. Giữ thăng bằng trên một sợi dây giăng ngang giữa miệng thiên thần và ác quỷ có khó không? Khó, nhưng cũng không phải là điều không thể. Có một điều cần biết là bạn không nên ngó xuống quá lâu đám đông nhảy múa gào thét dưới kia. Họ sinh ra ở đó, trong đầu được nhồi nhét một mớ giáo điều cứng như đinh thép, nhiều như muỗi như vắt trong hẻm núi vậy nên bạn hãy đừng nổi giận với họ.
Nếu bạn nổi giận, cọng lông sẽ đứt làm đôi. Không tin thì cứ thử xem!

Bạn hỏi: “Viết cái gì mà đau đớn buồn rầu đến vậy?”. Tôi thì không biết trả lời sao nữa, tôi chưa kịp chuẩn bị câu trả lời, nên đành bỏ ngỏ. Tôi cắm cúi ngồi vẽ gương mặt người trong gió mưa vần vũ hay nắng đỏ bụi đường. Tôi chỉ muốn vẽ lại một cách trung thực nhất gương mặt của khoảnh khắc mà tôi đang sống, còn đó là gương mặt buồn rầu hay vui vẻ, tôi làm sao biết được?
Những ngày qua, khi thân thể một cậu bé ở một xứ sở xa xôi nào đó nằm úp mặt trên một bờ biển xa xôi nào đó, mọi người có dịp chứng tỏ tình yêu thương đồng loại của mình bằng những giọt nước mắt nhân từ không cần biên giới. Nhưng hầu như không ai muốn khóc cho những đứa bé sống lay lắt ngay bên cạnh, đang bị đày đọa bởi những người thân yêu của nó. Cuộc sống của những sinh linh bé nhỏ, máu đỏ da vàng, đang bị chà đạp không thương tiếc ngay bện cạnh bạn đó, sao đành ngoảnh mặt làm ngơ?
Bạn nói: “Mình khóc thương cho người ta, rồi mai kia ai khóc cho mình?”. Ở xứ sở mà mỗi huyền thoại đều nhuốm màu bi kịch thì nước mắt hay không nước mắt, xót thương hay hững hờ, nào phải là chuyện gì ghê gớm!

Tôi mân mê cọng lông trên tay như một thằng bé tự kỷ, miệng ngậm hột thị khi thầy giáo hỏi bài. Cọng lông xoăn tít, lấp lánh dưới ánh sáng kỳ diệu của mặt trời. Không phải giọt nước mắt nào cũng châu ngọc cả đâu, thật đấy! Tôi đã từng kể cho bạn nghe về một ông tiên luôn luôn vẻ mặt nhân từ và nhạt nhòa nước mắt có bàn tay đẫm máu trong đêm đen. Tin hay không thì tùy, nhưng nếu không cẩn thận, bạn có thể chết đuối trong biển nước mắt của các thánh nhân đểu cáng. Còn tôi, với cọng lông màu nắng trên tay, tôi sẽ tiếp tục bước đi, trong nắng, trong mưa, trong sự gào thét của đám đông cuồng tín đang ra sức bảo vệ một xác chết chưa chôn hoặc một vũng lầy tăm tối. Tôi cố giữ lấy thăng bằng, như một diễn viên xiếc thạo nghề đang biểu diễn màn đi trên dây, qua một rừng gươm dao dựng ngược dưới chân.

Có nhiều khi cũng lo lắng, hoang mang, vì dưới kia, đám đông không ngớt thét gào. Những cái miệng há ra đỏ lòm chực ăn tươi nuốt sống đồng loại. Họ được lịch sử lựa chọn và giao nhiệm vụ vẻ vang giữ nhịp cho cuộc sống ồn ã này. Nhưng càng ngày họ càng tỏ ra bất lực, càng bất lực họ càng manh động, nguy hiểm.  “Không giành được thì cướp!”, họ nói thế và tỏ ra hãnh diện điên cuồng như sóng dữ. Nói thế chứ họ cũng yếu mềm và có khi đần độn. Khi thấy tôi vừa đi vừa cố gắng vuốt thẳng một sợi lông xoăn tít, họ ôm bụng cười lăn cười lộn, tưởng như được tận mắt thấy người ngoài hành tinh vừa rơi xuống. Tôi cười, miệng chảy ra một ít nước dãi ngớ ngẩn và tiếp tục công việc của mình, công việc của một diễn viên xiếc đi trên dây. 

  Nguy hiểm, nhưng rất thú vị, điều này, chỉ có tôi biết thôi!

  Vừa đi vừa vuốt cho thẳng một sợi lông xoăn tít. Những gã mặt lạnh như tiền chặn đường hỏi: “Này, mày định âm mưu gì đấy?”. “Này, mày có ý đồ đen tối gì đấy?”… Tôi cười hì hì và chìa ra cọng lông trước mặt, xoăn tít. Chúng nó bật cười sằng sặc, bỏ đi!/


Nguyễn Văn Thiện
Born: 1975
Home town: Anh Sơn – Nghệ An
Master in Comparative Literature and Critical Theories
Currently a high school teacher, and a prolific writer.
Editor of Chư Yang Sin (Đắk Lắk) Art and Literary Journal.

Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.

Just like that, I had managed to chase away the cloud | Nguyễn Văn Thiện

A short story in Vietnamese by Nguyễn Văn Thiện
Translator: Nguyễn Thị Phương Trâm 
Art: Đinh Trường Chinh

The cloud came, not sure from where it turned up one lovely sunny day. The garden was full of freshly bloomed flowers and locks of dreamy soft vines. I was busy digging up the weeds around them, watching the sunlight dance on the blades of grass and out of nowhere came this looming presence, it hovered in the middle of the sky, right over my patch of garden. Naturally, I looked up, a grey cloud from the North was just there,right over my head, obscuring half of the lovely autumn sunlight. 

Popped straight into my head was the question: How am I going to get rid of this cloud, so the garden can be lovely and sunny again?

The answer was: There was no way!

As for my garden. It was the best thing my father had left me when he passed away, he said: I had to work very hard all my life just to finally get it. I’ve lived here for forty years, tending to every tree and blade of grass. Now it’s yours, don’t lose it my son! The tears came, as I pondered the lifetime my father had spent working on the land to give me this life. Happiness is not so easily attained, harder for a man orphaned without any roots like my father. When he was a labourer at the rice mill, he stole a fist full of rice here and there, hiding it at the bottom of the yoke baskets covered with hay, and he was caught. They locked him up for a whole day and night before they allowed him to go home. And of course they made an example of my father, he was humiliated in front of everyone. 

The chairman of the cooperative enthusiastically announced loudly:

“Cooperative rice belongs to the common people. The compatriots are hungry, the soldiers at the front are hungry, so we shouldn’t take what isn’t ours to take, remember that?”

“But for more than a day now, my son has not even had a meal of watery rice!” – Dumbly, my father uttered.

I sat pant-less in the yard in front of the mill, watching my father cry. I grew up still, the kind of upbringing paid with the sweat and tears of others, salty and bitter. The garden is attached to all the memories of my childhood. My brother and sisters and I would play all day in the garden when our mother was at the district market. We play hide and seek amongst the bamboo shrubs and banana trees. I would play but always watched for the first sign of our mother. My little brother, too busy playing sometimes, ends up falling asleep amongst the clumps of banana trees. My father after ploughing in the fields would tie the ox to the base of the star fruit tree, before gathering my sleeping brother into his arms and putting him to bed on the wooden platform in our house, he would wake up screaming: mummy, I’m hungry! From this very garden, I saw the girl next door left for school and both of us would walk to school together. The days when the bombings did not stop, in the middle of the war, I joined the army. Returning after the war, without a job, this very same garden fed me. I grew a lot of vegetables, before dawn we would take the vegetables to the market to sell. As he fumbled his way to the market, my father’s form was more and more bent over, curled up like a question mark in the hazy first light.

The cloud was just there like a challenge throughout the heartbreaking memories of my father. I was a little stunned, I sat down in a bundle at the foot of the star fruit tree in the middle of the garden looking over, guarding the entire garden. In truth, the cloud was not very big, but it was enough to hide my garden and a few other homes nearby from the sun. It was just there, not moving, a grey cloud. I looked at it, and it was looking down at me with seemingly watery eyes, pungent and salty. I forced myself into imagining what it might be, but it was too hard. I’m terrible when it comes to things like that, you have to be intelligent to have an imagination, but I’m not anywhere near that level.

It, the cloud was irregular, not round, not oval, more like a deteriorating haystack left outside for too long, it was uneven, thick here, and thin there. Yes, It was very much like a haystack, but it was not a haystack. It strained my eyes as I studied it, the more I looked at it the more it looked like it had the face of a mastiff, yep, a huge growling mastiff. Its fur was knotted, ruffled and angry. I was more and more worried about my little garden. The cloud was hovering just there, covering up the sunlight, the flowers would not survive, they would wither and die, and it was a fact. I said: hey you, clump of hay, go away! It didn’t move. I said: Hey you, mastiff, go away! It was silent. 

It refused to budge! I felt small and powerless. The endearing little garden was clearly mine but I didn’t know how to protect it, there was nothing more humiliating! My poor garden, the sad purple flowers were droopy with sadness, unsmiling. Even the ground beneath them was silent, an indescribable sadness. For them, I needed to act quickly. I sat down next to a patch of lapis lazuri, I tried to lift their fragile petals, soothing them, consoled them as best I could: “it’s going to be okay, the cloud will eventually leave, the sky will be blue and brilliant with sunlight again!”. The clump of flowers remained silent, they looked as though they didn’t believe me. Flowers usually never listen to such frivolous words, my father had taught me that. Helplessly I sat there on the ground, the ground just as silent. Beneath the leaves, something stirred, it was a tiny speck of a caterpillar! After some careful inspection, I discovered an entire army of caterpillars beneath the cockscomb leaves, grey grey, brownish. They were busy diligently chomping on the leaves. The leaves were spindly and rough, the stem of the leaves swelling up, burning. The sudden anger took over my every thought, I said: You little critters, who gave you permission to gnaw and eat away my garden? They were too busy to grace me with their reply. Hey, I’m the boss. They remained silent. I was on all fours, picking out each and every tiny tiny caterpillar, but there were too many of them and it was impossible to catch all of them. I gave up after a while. 

The cloud looked as though it had no intention of moving on. There was hardly a breeze at the beginning of autumn, and for reasons unbeknownst to me. There were changes in the formation of the cloud. The mastiff’s face expanded, elongated, it was more squiggly. Ey, just go away, there’s no point changing what you look like. It ignored me, its body stretched out longer and longer, curling in sections. Wow, it’s a dragon now! Fine, whatever you want to look like it doesn’t matter, what matters more is that your respect for others, you need to move on along, you need to disappear. It refused to leave, instead it descended, now closer, it was just above my head, right above the garden. There were raindrops. I thought. It was definitely raining. I held out my hands to collect the newly fallen raindrops.

“Where did you come from?”.

“Don’t know really, close your eyes and relax, then you will find yourself flying”.

“I want to fly to where you were before, above the clouds, could I do that?”.

Well, you could try.

Relaxing my shoulders, breathing in and then out deeply, I closed my eyes. My body became lighter and lighter. I was floating. What will I do when I get there? I had no idea. But I knew it was something I had to do. And I could feel myself slowly rising from the ground. After ten breaths, I slowly opened my eyes. Looking down at my feet, on the ground my neighbours were outside, they were talking all at once, pointing at the sky. The commotion echoed across the horizon, reaching me.

“What’s that?”.

“He’s flying!”.

“How could he be flying?”.

“No idea!”.

“Maybe he’s possessed by a god?”.

“Come down, you’ll break your neck, idiot!”.

I laughed, shouting:

“I’m fine, I just need to get rid of this cloud, then I’ll come straight down”.

The crowd on the ground was growing bigger and bigger by the moment, bobbing up and down on top of each other like ants. The ants were screaming and shouting over each other, some excitedly jumping up and down, some picking up clumps of soil from the ground and throwing them in my direction. I ignored them. I had to climb higher. And I did finally arrive at where I wanted to be. I climbed onto the back of the ash grey dragon, and shouted:

“Why do you want to attack my garden?”.

“What garden?” – it asked me in return.

“The one right there at your feet”.

“I don’t know what you’re talking about, I don’t even know you, I’m not trying to harm anyone. The land at my feet, the water at my feet, belongs to no one”.

“But all this time I thought. But what are you supposed to be anyway, a haystack, a mastiff, or a dragon?”.

“Depends.”

“But I don’t want you to hang around my garden”.

It did not dignify me with an answer, it seemed like it was shaking, trying to throw me from its back. It was very strong. I didn’t know what to do, I have never gone this far, this high in the sky, even in my dreams. I was shaking, I couldn’t control my bladder. I peed right there in my pants. It was a bad habit I couldn’t shake. Suddenly from somewhere within the watery misty dragon came echoing, a deep voice:

“Son, how did you end up here?”.

It was a very familiar voice, it was my father’s voice, there was no mistaking it.

I shouted:

“Father!”.

My father answered:

“Don’t be afraid son, if you’re afraid you’ll end up in hell!’.

“Why are you here father, on this stupid dragon?”.

“It’s not a dragon son, it’s just a cloud of water vapours, and blood, the blood of a thousand years that will not disappear. There are many eyes here. When you die you’ll be able to see them. Here, it’s neither heaven nor hell. It’s the last resting place for the birds before they fly to their final destination”. 

“I want to get rid of the cloud hovering over your garden father” – I shrieked in the middle of the blinding cloud.

“It won’t be easy, you can’t do it alone son. Take this home son, and place it at the foot of the star fruit tree, so when the cloud sees it, it will try and avoid it”. 

“But I can’t see you father?”

“Close your eyes and you’ll see”.

I closed my eyes. My father slowly emerged from the salty watery mist. Dear God, he was nothing but a white skeleton! Only his eyes looked familiar, like when he was alive, they never changed. He said: Don’t be afraid son, I’m like everyone around me, we’re all the same, white is bone, black is blood! Only the eyes see the truth. I studied everything carefully, dear god, so many eyes. The sorry eyes stared at me unblinking. There were eyes so old they were all wrinkly on the edges. There were innocent eyes of children who could have brought you to tears, and all you wanted to do was to kiss them. There were the sad thoughtful eyes of women. There were eyes which were quite familiar, as though I’ve seen them somewhere, sometime ago. The eyes were like stars, like drifting leaves all around me. Where were Ngọc’s eyes, the little girl who died right by the ferry during the bombing those years ago? Where were the eyes of my little brother who had lost his life at the border in seventy-nine? I looked and looked for them but I was unable to pinpoint them. There were too many eyes, too many stars, and too many leaves, and they would move around dancing continuously, ceaselessly. How long have they been here, what happened to them? It was impossible for me to know for sure. My father gave me something smooth and round:

“Place it in the garden, and maybe when they see it they’ll stay far away”.

I held the object in my hands, but couldn’t work out exactly what it was supposed to be, I thought, what does this have to do with the cloud? Does father know what he’s talking about? Was he trying to trick me? But I didn’t have the time to muck around. The watery mist was now all soggy and soft. Father disappeared, dissolving completely into the dense foggy mist. There was never a chance for another question. I slipped slowly off the dragon’s back and felt the squishy water seeping through my trousers.

And from there began my return to the ground. The army of ants gradually grew larger, and larger. By the time I had worked out who was whom, thud, I was already a pile on the ground, in my hands was the round smooth object. The children in the village cheered excitedly. Shouted enthusiastically:

“Brilliant, genius!”.

“Awesome, cool!”.

“It’s superman!”.

My neighbours crowding around me were very curious about the object in my hand:

“Gold, or maybe it’s black Corinthian bronze?”.

I said I didn’t know what it was and placed it right in the middle of the garden, at the foot of the star fruit tree, and sat down heaving, exhaling short breaths. I was really tired. More tired than that business with the wife. The one-eye guy next door stared at the odd object and asked:

“Sell it to me”.

“No”.

He approached the object, touched it, feeling it for a while. He announced confidently in the middle of the crowd, as an expert on antiques:

“It’s a bullet, the tip of a black Corinthian bronze bullet to be exact, at least three hundred years old! You better take good care of it”. 

After that, many came to check it out, each with their own conclusion, some said it was a piece of meteorite, lately, the planets seemed to be all over the place, slamming into each other, breaking, bits and pieces flung left right and centre. Some wriggled their nose and pulled faces, saying it was just a rock, so many con artists tried to trick people with black Corinthian bronze. I couldn’t be bothered with all that commotion, what’s the point of trying to define this round object. What’s important was that, ever since it was placed at the foot of the star fruit tree, no grey cloud had ever bothered my garden again. The sunlight was even more mellifluous than before. The dahlias, cockscomb thrived showing off their full blooming brilliant colours. The army of caterpillars seemed to have disappeared. Each time I stepped into the garden the lapis lazuri would laugh and giggle. The discerning golden chrysanthemums weaved together with rays of sunlight earnestly and lovingly eyed me. I would sit with my back leaning on the trunk of the star fruit tree, legs stretched out, relaxed, blowing into the tobacco bong. The white smoke would glide across the patches of chrysanthemums morphing into a gorgeous fragrant blue. I can’t remember the last time I was able to admire such beautiful blue smoke. The first time I believe it was the smoke from our kitchen when I turned sixteen. My mother was cooking dinner, and I was standing in the shade of a tree saying goodbye to Ngọc on my way to the front line. The second time was from the barrel of a submachine gun when I had used up an entire magazine of bullets aimed at Đắk Xút jungle after burying the last person in my unit.

I had succeeded in chasing away the cloud and got rid of the overwhelming sadness over the garden. But from that point on I developed a strange habit. Now and then on the road, I would have this aching desire to fly, but never once succeed, in the end, it would always look as though I was jumping around like a kangaroo, rather funny looking! The kids who followed me snaking through the village shouted: One two three fly! Fly, baby fly… No matter how often I tried, I had never succeeded in flying again.

The cloud in the shape of the haystack, the mastiff, and the dragon was no more. Now and then, like a dream in a painting, there might be a layer of thin mist like a veil of silk over the garden. Always to my surprise, I would find in them my father’s eyes and so many others watching me from within the refreshing clean mist. 

[April 2022]

Bằng cách đó tôi đã đuổi được đám mây

Truyện ngắn Nguyễn Văn Thiện

Đám mây, không biết từ đâu bay đến, vào một ngày nắng đẹp. Khu vườn đầy hoa tươi và những lọn tóc tiên xanh mượt. Tôi đang loay hoay nhổ cỏ gốc cho chúng và nhìn những tia nắng nhảy nhót trên các lá cỏ thì chợt cảm thấy có một nỗi ám ảnh mơ hồ nào đó chụp xuống từ phía bầu trời. Theo phản xạ tự nhiên, tôi ngẩng đầu lên và phát hiện ra ngay đám mây màu xám từ phương bắc trôi xuống đột nhiên đứng lại, che mất phần ánh nắng nhẹ của một ngày đầu thu. 

Ngay lập tức xuất hiện một câu hỏi: Làm sao để đám mây này bay đi, trả lại nắng đẹp cho khu vườn?

Câu trả lời là: Không có cách gì cả!

Trở lại với mảnh vườn của tôi. Đó là thứ tài sản vô giá và duy nhất mà cha để lại cho tôi với lời dặn dò trước lúc lâm chung: Cha cặm cụi một đời cày cấy mới tậu được nó. Bốn mươi năm cha sống ở đây, giữ gìn từng gốc cây ngọn cỏ. Bây giờ để lại cho con, đừng để mất đi con nhé! Tôi giàn giụa nước mắt, nghĩ đến quãng đời cay cực cha cuốc cày nuôi tôi lớn. Hạnh phúc không hề đơn giản mà có được, càng không thể dễ dàng với một gã đàn ông mồ côi lưu lạc quê người như cha. Cha đi trục lúa ở sân kho hợp tác, ra về còn cố giấu một ít thóc dưới gánh rơm, người ta bắt được. Người ta nhốt cha vào gian kho hết một ngày một đêm mới thả. Tất nhiên sau đó sẽ “được nêu gương” trước bà con tập thể. Chủ nhiệm hợp tác xã hăng hái truy vấn:

“Thóc hợp tác xã là của chung nhân dân. Đồng bào đang đói, chiến sỹ ngoài mặt trận đang đói, thế mà ông nỡ ăn cắp là sao?”.

“Nhưng từ chiều hôm kia tới rày con tui mới được có một bữa cháo loãng!” – Cha lí nhí.

Tôi cởi truồng ngồi bệt dưới sân kho nhìn lên thấy cha ròng ròng nước mắt. Thế mà rồi tôi cũng lớn khôn, thứ lớn khôn được đổi bằng mồ hôi nước mắt của người khác, mặn chát. Mảnh vườn ấy gắn liền với bao kỷ niệm ấu thơ. Những ngày mẹ đi chợ huyện, anh em tôi chơi tha thẩn trong vườn. Chúng tôi chơi trốn tìm sau bụi chuối, khóm tre. Tôi vừa chơi vừa hóng ra ngõ ngóng mẹ về. Thằng em trai mải miết chơi trốn sau bụi chuối rồi ngủ luôn lúc nào không hay. Cha đi cày về buộc trâu vào gốc khế rồi bế nó vào nhà đặt lên phản, nó choàng dậy gào: mẹ ơi, con đói! Cũng từ trong mảnh vườn này bước ra, tôi gặp cô bé hàng xóm trên đường đến lớp và cả hai cùng sánh bước. Những ngày chiến tranh bom đạn mịt mù, tôi vào bộ đội. Hết chiến tranh quay về, không nghề ngỗng, lại mảnh vườn này nuôi tôi. Tôi trồng thật nhiều rau, sáng sớm tinh mơ hai cha con đạp xe chở rau xuống chợ bán. Dáng cha già lọm khọm cong cong hình dấu hỏi nhạt nhòa trong sương sớm. 

Trong khi tôi đang thổn thức nghĩ về người cha thân yêu thì đám mây vẫn đứng đó như một lời thách thức. Tôi hơi hoang mang, ngồi thụp xuống cạnh gốc khế giữa vườn quan sát. Đám mây này không lớn lắm, thực tế thế, nhưng nó đủ che mất quầng sáng mặt trời trên khu vườn của tôi và một ít diện tích mấy nhà bên cạnh. Nó đứng đó, màu xám. Tôi nhìn nó, hình như nó cũng nhìn lại tôi bằng con ngươi mọng nước, thứ nước mặn mặn, tanh tanh. Tôi cố vắt trí tưởng tượng của mình để thử hình dung xem nó giống cái gì, nhưng thật là khó khăn, tôi vốn rất dốt món này, giàu trí tưởng tượng phải là những người thông minh, mà tôi lại không ở trong số đó. 

Nó, đám mây ấy, là một đám lổn nhổn, không tròn, không phải bầu dục, gần giống đụn rơm để lâu ngày ngoài vườn bị mục ra, vương vãi, chỗ dày, chỗ mỏng. Đúng rồi, nó hao hao giống đụn rơm, nhưng nó không phải là đụn rơm. Tôi căng mắt quan sát, lại thấy nó gần giống mặt một con chó ngao, ừ, con chó ngao thật lớn đang nhăn mặt gầm gừ. Những đám lông xù lên dữ tợn. Tôi thấy lo cho mảnh vườn của mình quá. Đám mây sẽ đứng lại ở đây, che mất ánh mặt trời, thì những bông hoa, chúng sẽ héo mất, nhất định thế. Tôi nói: Đụn rơm kia, mày đi chỗ khác chơi! Nó vẫn không nhúc nhích. Tôi nói: Con chó ngao kia, mày đi chỗ khác chơi! Nó vẫn im lặng. 

Không có cách nào khác! Tôi thấy mình nhỏ bé và bất lực quá. Mảnh vườn thân yêu rõ ràng là của mình mà không bảo vệ được nó, còn gì bất lực và nhục nhã bằng! Chỉ tội nghiệp cho mảnh vườn của tôi, những cánh hoa tim tím buồn cúi mặt xuống, không cười. Đất dưới chân chúng cũng im lặng, một nỗi u ám không tên. Tôi thấy mình cần có một hành động gì đó với chúng. Tôi ngồi xuống bên khóm lưu ly, đỡ những cành hoa mảnh khảnh lên, an ủi, vỗ về: “Không sao đâu, rồi đám mây sẽ trôi qua, bầu trời sẽ xanh và nắng sẽ đẹp thôi mà!”. Khóm hoa vẫn im lặng, hình như chúng không tin tôi thì phải. Những bông hoa thường không tin vào những lời nói suông kiểu cách, cha từng dạy thế. Tôi ngồi bệt xuống đất, đất vẫn lặng im. Chợt có một đốm trắng bạc ngọ nguậy dưới lá cây, à, là một con sâu! Chăm chú quan sát mới phát hiện ra dưới tán lá mào gà kia có cả một đám sâu, nâu nâu, xám xám. Chúng tất bật làm công việc gặm nhấm của mình. Những chiếc lá sần sùi, cuống lá nổi u, đau xót. Tự dưng có cảm giác bực tức chen lấn vào, tôi nói: Lũ sâu kia, ai cho chúng mày gặm nhấm vườn tao? Chúng không thèm trả lời. Tôi nói, tao là chủ ở đây. Chúng nó vẫn im lặng. Tôi gò lưng lật từng tấm lá để bắt sâu nhưng sâu nhiều quá, bắt không xuể. Bắt được một lúc, nản quá lại thôi.

Đám mây hình như vẫn chưa có ý định bay đi. Trời đầu thu ít gió, hoặc có một nguyên nhân nào khác nữa mà tôi không thể biết. Đám mây đang bắt đầu có sự thay đổi. Cái mặt con chó ngao từ từ duỗi ra, dài ra, ngoằn ngoèo. Ừm, mày biến đi, thay hình đổi dạng mà làm gì. Nó vẫn không nghe và tiếp tục dài ra, uốn khúc. Ô hay, bây giờ nó lại giống con rồng! Được, con gì cũng thế, nhưng mày nên biết điều mà biến đi. Nó không biến mà sà thấp xuống, ngay trên đầu tôi, trên mảnh vườn. Hình như có vài hạt mưa đã bắt đầu rơi xuống, đúng mưa thật rồi. Tôi đưa tay ra đỡ lấy hạt mưa vừa rơi xuống.

“Bằng cách nào mày xuống được đây?”.

“Không biết, thả lỏng cơ thể và nhắm mắt lại, thế là bay”.

“Tao muốn bay lên chỗ mày vừa ở, trên đám mây, được không?”.

“Không biết, thử xem sao”. 

Ờ, thì cứ thử xem sao.

Tôi vận khí, giữ nhịp thở thật bình thản, rồi nhắm mắt lại. Thấy cơ thể mình nhẹ bẫng. Thế là có thể bay lên được rồi. Lên đến nơi rồi sẽ làm gì? Chưa biết. Nhưng phải lên bằng được. Và tôi thấy mình đang từ từ bay lên. Được khoảng mười nhịp thở thì tôi từ từ mở mắt ra. Nhìn xuống dưới chân, hàng xóm đã đứng chen chúc dưới đất, họ nhìn lên, chỉ trỏ, bàn tán. Tiếng ồn ào vọng lên cao. 

“Cái gì thế?”.

“Nó bay!”.

“Làm sao mà bay được?”.

“Không biết!”.

“Hay thánh nào về nhập?”.

“Xuống đi, ngã gãy cổ, thằng tâm thần!”.

Tôi cười, nói vọng xuống:

“Không sao, tôi đi đuổi đám mây, đuổi xong xuống liền”.

Đám đông dưới đất mỗi lúc lại càng đông, lổn nhổn như một lũ kiến. Lũ kiến la hét ỏm tỏi, có con nhảy choi choi lên thích chí, có con nhặt đất ném theo. Tôi mặc kệ chúng. Tôi phải lên cao. Và tôi đã lên đến nơi mình muốn đến. Ngồi lên lưng con rồng nước màu xám tro, tôi hét to:

“Tại sao mày muốn làm hại khu vườn?”.

“Nhưng khu vườn nào?” – Nó hỏi lại

“Dưới chân mày đó”.

“Không biết nó, cũng không quen mày, không làm hại ai cả. Đất dưới chân, nước cũng dưới chân, đều không của riêng ai”.

“Thế mà tao cứ tưởng. Nhưng mày là đụn rơm hay con chó ngao hay là con rồng?”.

“Tùy”.

“Nhưng tao không muốn mày lượn lờ trên khu vườn”.

Nó không thèm trả lời tôi, hình như nó đang rùng mình, đang muốn hất tung tôi xuống. Nó có sức mạnh ghê gớm. Tôi hoang mang, chưa bao giờ tôi lên đến độ cao này, kể cả trong mơ. Tôi run, mót tiểu. Tôi tè luôn ra quần. Tôi có cái tật xấu ấy không sao bỏ được. Bỗng có tiếng nói trầm đục vang lên đâu đó từ trong đám hơi nước trên mình con rồng:

“Con của ta, mày lên đây bằng cách nào?”.

Giọng nói rất quen, đúng là giọng của cha, không thể nhầm được. 

Tôi gọi to: 

“Cha ơi!”.

 Cha nói: 

“Đừng sợ, nếu sợ hãi con sẽ rơi xuống địa ngục!”.

“Làm sao mà cha ở đây, trên lưng con rồng chết tiệt này?”.

“Không phải rồng đâu, nó là đám mây bằng hơi nước, bằng máu nữa, máu của hàng nghìn năm chưa tan hết. Có rất nhiều con mắt trên này. Chết rồi con sẽ biết. Đây không phải là địa ngục, cũng không là thiên đường. Đây là nơi trú ngụ cuối cùng của đàn chim trước khi bay về đến đích”. 

“Con muốn đuổi đám mây ra khỏi khu vườn của cha” – Tôi hét giữa mây mù.

“Khó đấy, một mình con thì không đủ sức. Con hãy cầm cái này về đặt cạnh gốc khế, nó thấy sẽ tránh”.

“Nhưng con không nhìn thấy cha?”

“Hãy nhắm mắt lại con sẽ thấy”.

Tôi nhắm mắt. Cha từ từ bước ra trong đám hơi nước tanh tanh. Trời ơi, chỉ là một bộ xương trắng hếu! Chỉ thấy đôi mắt là rất quen, như ngày cha còn sống, không hề thay đổi. Cha nói: Con đừng sợ, xung quanh cha, ai cũng như nhau, trắng là xương, đen là máu! Chỉ có con mắt nhìn là sự thật. Tôi quan sát kỹ, trời ơi, bao nhiêu là mắt. Những đôi mắt trân trối nhìn tôi không chớp. Có những đôi mắt già nua với những nếp nhăn tua tủa xung quanh. Có những đôi mắt trẻ thơ nhìn muốn khóc, muốn hôn. Có những đôi mắt phụ nữ đắm đuối trầm tư. Có những đôi mắt nhìn quen quen, ngờ ngợ như đã gặp một lần nào đâu đó. Những cặp mắt như sao, như lá trôi quanh tôi. Đâu là đôi mắt của Ngọc, cô bé láng giềng chết vì bị bom trên bến phà năm ấy? Đâu là đôi mắt của em trai tôi hy sinh trên trận địa biên giới năm bảy chín? Tôi cuống cuồng tìm kiếm nhưng không thể xác định được. Nhiều mắt quá, nhiều sao và lá quá, chúng lại chuyển động vần vũ không thôi. Họ lên đây từ khi nào, trong những hoàn cảnh nào? Tôi làm sao biết được. Cha đưa cho tôi một vật tròn tròn, nhẵn nhẵn:

“Hãy đặt nó trong vườn, có thể chúng nó sẽ sợ mà tránh xa”.

Tôi cầm lấy, không xác định được nó là cái gì, trong bụng nghi hoặc, cái này thì liên quan gì đến đám mây kia? Liệu cha có nói thật không nhỉ? Nhưng tôi không có đủ thời gian để thắc mắc thêm nữa. Hơi nước đã mềm nhũn. Cha tan biến vào đám hơi rối rắm ấy. Đôi mắt tan biến như lá mùa thu vừa bay liệng vừa chìm nghỉm trong sương mờ. Không kịp nói thêm lời nào nữa. Tôi tuột dần khỏi lưng con rồng, nghe nước thấm vào đít quần rin rít.  

Và bắt đầu trở lại mặt đất. Đàn kiến to dần, to dần. Đến khi phân biệt được từng người thì cũng là lúc tôi ngã oạch xuống đất, trong tay vẫn khư khư giữ lấy vật tròn nhẵn. Lũ trẻ trong xóm hoan hô cực lực. Có bao nhiêu sức chúng hét thành tiếng hết:

“Thiên tài, thiên tài!”.

“Trên cả tuyệt vời!”.

“Siêu nhân!”.

Mấy bà hàng xóm chăm chăm nhìn vào tay tôi, hỏi dồn:

“Cái gì đó? Vàng hay đồng đen phải không?”. 

Tôi trả lời không biết và đem cái vật lạ ấy đặt giữa khu vườn, bên cạnh gốc khế rồi ngồi thở dốc. Quả là rất mệt. Mệt hơn cả làm chuyện ấy với vợ. Gã hàng xóm mắt chột nhìn trân trối vào vật lạ, hỏi: 

“Bán cho tôi nhé!”.

“Không”.

Hắn ta lại gần và sờ nắn rất lâu. Hắn nói với mọi người, giọng tự tin của một tay chuyên gia buôn đồ cổ:

“Đó là một viên đạn, chính xác là một đầu đạn làm bằng đồng ít nhất là từ ba thế kỷ trước! Ông giữ cẩn thận nếu không là mất đấy”.

Sau đó có rất nhiều người đến xem, mỗi người kết luận một kiểu, người bảo nó là mảnh thiên thạch, dạo này các hành tinh trong vũ trụ hay chạy lung tung, va vào nhau vỡ ra rơi vãi tung tóe khắp nơi. Cũng có người bĩu môi nhăn mũi bảo, đó là cục đá, bọn lừa đảo dạo này rất thích dùng chiêu lừa đồng đen. Tôi không cần biết đó là cái gì, biết làm gì cho mệt. Chỉ biết, từ khi đặt nó dưới gốc khế thì những đám mây u ám không còn lởn vởn trên khu vườn nữa. Nắng chan hòa hơn cả nắng ngày xưa. Lũ thược dược, mào gà tự tin vươn cành khoe sắc. Bọn sâu cũng lủi đâu mất. Mỗi lần bước chân ra vườn, lưu ly cười hớn hở, hoa cúc vàng lẫn vào ánh nắng thiết tha, trìu mến nhìn tôi. Tôi ngồi dựa vào gốc khế, xoãi chân kéo điếu thuốc lào. Làn khói trắng vương vào khóm cúc chuyển sang màu xanh thơm ngời ngợi. Lâu lắm rồi tôi mới được thấy lại một làn khói xanh đẹp đến thế. Lần đầu tiên là làn khói trên chái bếp nhà tôi năm mười sáu tuổi. Mẹ nấu cơm khi tôi đang đứng dưới gốc cây bên nhà chia tay Ngọc lên đường ra trận. Lần thứ hai là làn khói trên nòng khẩu tiểu liên khi tôi vừa kéo hết một băng đạn vào phía cửa rừng Đắk Xút sau khi chôn xong đồng đội cuối cùng. 

Thế là tôi đã đuổi được đám mây, xua đi nỗi u ám bủa vây khu vườn. Nhưng kể từ đó, tôi mắc phải một hội chứng lạ. Thỉnh thoảng đang đi trên đường tôi lại muốn bay lên, nhưng không bay được, thành ra vừa đi vừa nhảy choi choi kiểu kangaroo, đến là khổ! Lũ trẻ trong xóm đi theo rồng rắn đồng thanh hét vang: Một hai ba bay lên! Bay lên nào, em bay lên nào… Thế mà tôi vẫn không tài nào bay được. 

Đám mây hình đụn rơm hình con chó ngao và con rồng không còn nữa. Thỉnh thoảng chỉ thấy một dải hơi sương mỏng như làn khăn voan lượn qua khu vườn, đẹp như trong một bức tranh. Tôi chợt sững người khi nhìn thấy trong làn sương tinh khiết ấy đôi mắt quen thuộc của cha và nhiều đôi mắt khác nhìn đăm đắm.


Nguyễn Văn Thiện
Born: 1975
Home town: Anh Sơn – Nghệ An
Master in Comparative Literature and Critical Theories
Currently a high school teacher, and a prolific writer.
Editor of Chư Yang Sin (Đắk Lắk) Art and Literary Journal.

Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.

Lone wolf | Nguyễn Văn Thiện

trên đỉnh cao by Đinh Trường Chinh

A short story in Vietnamese by Nguyễn Văn Thiện
Translator: Nguyễn Thị Phương Trâm 

Is there anything colder than the winter chill? Is there anything colder than snow? It is getting colder and colder towards the end of winter. But nothing compares to the frightening lingering chill of lost hope. Our lives have fallen into the hand of destiny, figuratively speaking, we are like sheep shepherded by an old senile ruffian. Seasons after seasons, year after year, then again, how much time do we have?

The recurrent dreams of blood spattered on the snow. The dreams of being alone with fire in our eyes. To wake up, forget, and continue with a long sigh.

We all want a fire to keep us warm out there in a thunderous stormy world, but we’re shy and afraid, dare not self-ignite, so, where can we find such heat to warm our hearts?

In the mead, when it’s cold, the lone wolves pee on their paws to keep warm.

Where will this path take us? The question, like some inexplicable knock of a hammer, bounced around inside the walls of our skull. We’re alone from the day we’re born, as dictated by destiny, or was it our choice, there’s no wrong answer. In the crowd, we’re nothing but an indistinguishable shadow. We choose to be a lone wolf in the mead, with all the burning desire for love and indelicate loathing. Many nights we would lift our heads in long imperative howls. The moon would quietly pass by. The arrival of winter this year was rather late and staggeringly cold. We continued to blindly soldier on, not sure in which direction, or never knowing where we’ll end up.

Behind us the crowd, screaming, shouting and applauding, crying for a fight in an arena far away.

We’re telling you a story about everything that’s good and bad in the mead at the moment, for a long time now, we have forgotten about our story. The story about a lone wolf, who pees on his paws to keep warm, is not very exciting right? But so what, there’s always the little secret we reserve for ourselves, so when we’re awake in the middle of the night we could reshape, reimagine, rearrange, we could again dream, to then slip back into the same confounding icy slumber. In truth, we have to keep our promises, words of love, and terrifying, crazy desires like any other living soul on this earth, and why not right? But for a long time now the chill within has blinded us, we are detached from the stars across the horizon, we could no longer see the wild daisies in their glorious beauty. Our voice was entirely swallowed up by the mead, leaving not even a mark. But the spring is forever there, and will always be there.

Sometimes, we wish for once, just once, a chance to just sink to the bottom of a lake, to perish as we embrace there, the moon, so our path is not so long, so the winter may no longer linger on and on, so that life may not continue with not a single day more of longing. Here, it would be the ideal way to die, here where even the smallest of living things strive at becoming legendary, a kind of cheap corny claim to fame. But, even if that is but a dream, nothing is ever easy!

Day after day, life continues at a rapid pace, always in a rush, where people leave to seemingly never return. There are the lonely nights, the mead would be in disarray due to some bloody war, the thrashing of endless living, the heartbreaking screams, the gratifying splattered blood and flesh scattered across the horizon. In the end, as the sun rises, all is back in its place as it were, any evidence would have been erased by the wind. Where we now live, is the residence of the night, the conspiracy to harm, the lurking agreements, and back door handshakes. Hence, now and then the wind howls bitterly, now and then, the clouds weave these laden pitiful images, and the flowers, the wild daisies silently carry their pain on a patch of meadow white with snow.

You asked, should one believe in the cries of a wolf? In truth, we may never know! But, should we have any faith in the cries of humanity, especially the cries of those in the role of our leaders, leading the mass down one blinding path after another? You know it is a lie, yet you refuse to admit it, refusing to stand up and find your right of passage, why?

After these sad nights, surely there shall be warmth in the mead, the falling light shall surely roll off the blades of grass in laughter, even when the Spring is still exiled and far away. This morning, on the way up Mount Chư Mang, a wild daisy tardily bloomed, its petal opened wide, welcoming, waiting for us on top of a mount of melting ice./

Sói hoang

Truyện ngắn Nguyễn Văn Thiện

Có cái giá lạnh nào hơn giá lạnh mùa đông? Có giá lạnh nào hơn tuyết nữa không? Càng về cuối mùa đông, giá lạnh càng nhiều. Nhưng đáng sợ nhất là cái lạnh lẽo của cuộc sống khi không còn niềm tin nào khả dĩ có thể bám víu. Cuộc sống của chúng ta đang phó thác vào tay số mệnh, nói hình tượng một tí, là như một bầy cừu được chăn dắt bởi những gã du côn già nua lú lẫn. Hết mùa này sang mùa khác, hết năm này sang năm khác, mà đời người, sống được bao lăm?

Nhiều khi mơ thấy máu mình vương vãi trên tuyết trắng. Nhiều khi mơ thấy mắt mình rực lửa trong đêm vắng. Rồi tỉnh dậy, rồi quên đi theo tiếng thở dài.

Ai cũng mong muốn có một bếp lửa sưởi ấm lúc ngoài trời giông bão, nhưng rụt rè, sợ sệt, không dám đốt cháy mình lên, vậy, lấy lửa ở đâu để hơ ấm trái tim mình?

Giữa thảo nguyên, khi trời trở lạnh, những con sói cô đơn vẫn tự đái vào chân mình, để sưởi ấm.

Con đường này rồi sẽ dẫn ta đến đâu? Câu hỏi đó nhiều khi vang lên thảng thốt như nhát búa siêu hình đang gõ lên hộp sọ. Từ lúc sinh ra, ta luôn một mình, do định mệnh, hoặc do ta chọn lựa, đều đúng. Nếu hòa vào đám đông cuồng loạn, ta sẽ chỉ còn là chiếc bóng giữa mù khơi. Ta chọn làm con sói hoang đơn độc giữa thảo nguyên, biết yêu thương cháy bỏng và căm hận bời bời. Có nhiều đêm, ta ngửa mặt nhìn trời rồi tru lên từng hồi dài thê thiết. Vầng trăng vẫn lặng lẽ đi qua.  Mùa đông năm nay đến muộn và dữ dội một cách bất ngờ. Ta vẫn lao đi giữa nhân gian mờ mịt, không biết rồi sẽ đến đâu, rồi sẽ về đâu.

Sau lưng, đám đông đang hò hét, la ó vỗ tay, khóc than cho một trận thư hùng bỉ ổi đang diễn ra trên một võ đài xa xôi nào đó.

Ta đang kể cho bạn nghe về tất thảy những buồn vui của thảo nguyên, rồi lâu, quên kể chuyện của chính mình. Chuyện về một đứa sói hoang cô độc tự đái vào chân mình để sưởi ấm thì có gì hay ho đâu mà kể, phải không? Dù sao thì ta cũng có những bí mật nho nhỏ, để lỡ trong đêm dài thức giấc, để hình dung, để tưởng tượng, để sắp đặt, để hi vọng, rồi sau đó, lại chìm vào giấc ngủ bâng khuâng lạnh giá. Thực ra, ta cũng có một lời hứa hẹn, cũng có một lời tin yêu, cũng có một ước muốn điên cuồng như bao nhiêu kẻ độc hành khác trên thế gian này, chứ sao nữa? Nhưng từ lâu lắm rồi giá lạnh che khuất không còn thấy sao trời, không còn thấy cả những bông cúc dại bên đường khoe sắc. Tiếng gọi của ta bị thảo nguyên nuốt trọn, không để lại một dấu vết nào. Mùa xuân vẫn còn hun hút…

Có nhiều khi, ta mong ước một lần, chỉ một lần thôi, được nhảy xuống đáy sông ôm bóng trăng mà chết, để đường không còn dài nữa, để mùa không còn lê thê nữa, để cuộc sống không còn ngày nối ngày mong đợi nữa. Đó là cái chết hoàn hảo nhất ở nơi đây, ở nơi mà mỗi sinh vật dù bé bỏng nhất cũng mong mình được trở thành huyền thoại, thứ huyền thoại vụn vặt và ướt át. Nhưng, đó cũng chỉ là mơ ước, dễ gì!

Mỗi ngày, cuộc sống lại trình diễn một nhịp điệu gấp gáp, hối hả, mà cố nhân đi mãi không về. Có những đêm hoang, thảo nguyên hỗn loạn bởi những cuộc huyết chiến, những trận đòn sống mãi, những tiếng kêu xé ruột xé gan, những vệt máu bắn lên trời hoan lạc. Để rồi, khi mặt trời lên, đâu lại vào đấy, mọi dấu vết bị gió về xóa sạch. Xứ sở mà ta đang sống, là xứ sở của bóng đêm, của những âm mưu hãm hại, của những cái bắt tay thỏa thuận ngấm ngầm trong bóng tối. Vậy nên, thỉnh thoảng gió mới vút lên những âm thanh cay đắng, thỉnh thoảng, mây giăng đan những hình ảnh tang thương, và hoa, những bông cúc dại vẫn lặng thầm đau đớn bên vạt đồi tuyết trắng.

Bạn hỏi, nước mắt của loài sói, có đáng tin không? Thú thực là ta không biết phải phân giải thế nào! Vậy, nước mắt của loài người, có đáng tin không, đặc biệt là nước mắt của những kẻ đóng vai đầu lãnh, dẫn dắt đám đông đi hết đoạn đường mịt mờ này sang mịt mờ khác? Bạn biết rằng đó là thứ nước mắt giả dối tại sao không dứt khoát chối từ, đứng lên tìm cho mình một lối đi riêng?

Sau những đêm u ám, thế nào rồi thảo nguyên cũng sẽ ấm hơn lên, giọt nắng rồi sẽ lăn và cười trên cỏ, dù mùa xuân có xa xứ chưa về. Sáng nay, trên đường lên núi Chư Mang, có một bông cúc dại nở muộn, vươn vai đứng chờ ta trên đống băng giá vừa tan./


Nguyễn Văn Thiện
Born: 1975
Home town: Anh Sơn – Nghệ An
Master in Comparative Literature and Critical Theories
Currently a high school teacher, and a prolific writer.
Editor of Chư Yang Sin (Đắk Lắk) Art and Literary Journal.

Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.

imagine | Nguyễn Văn Thiện

nỗi cuối như chuyện mơ. tranh Đinh Trường Chinh

A short story in Vietnamese by Nguyễn Văn Thiện
Translator: Nguyễn Thị Phương Trâm 

The Nation placed in the palm of my hand, my fingers slowly wrapped around it, me holding tightly onto the Nation as though it was my lover. The chaos ensued inside my fist. Clobbering of sledgehammers, frantic eddies in the ponds, lullabies, yearnings of the heart, singing softly, laughing wistfully. I tightened my hold and louder were the clambered sword fights, locomotion, pounding heart beat, teasing, moans… The tighter my fist the louder it got, the shrieking, bellowing, screeching as though a bridge was collapsing, flipping over cars, homes were burning, everything was in flames. Triggered by the onslaught of sound, I tightened my jaw, grinding my teeth, my hold was stronger than ever. The explosions in my hand were thunderous, earthquakes, tsunami, devastation.

I loosen my fist to take a peek inside, like a child trying to hold onto a tiny cricket. Everything was upside down, it was a war zone. A mother was collapsed by her sick child’s bedside, the child curled up like a white innocent question mark, now and then, the question mark would spasmodically cough. Nearby was a toothy pearly grin of a youth in a blue shirt. In the middle of the floor, a fisherman, his face sunburnt, black like the bottom of a charcoal pot, the bandage around his head was soaked with blood. In his hand was a piece of torn sail or banner. An elderly man bent over lugging a gùi on his back loaded with woodchip quietly walked away. On the road, there’s a burning car, it was blackened by the smoke. Haggard and confused people huddled together, pointing at this and then that…

I opened both of my hands. Crumbling pieces of land fell out. The yellow pebbly soil of Móng Cái, the Bazan red earth of the Western highlands, the alluvial loose soil of Cà Mau. The rivers slipped down from the web between my fingers. Kỳ Cùng river, Ba river, Hậu river. Through my fingers fell pieces of the forest. The Northwest Iron woods, the West highland jungle of giant Crape-myrtles, the Southwest Melaleuca forest. My mother’s words were in my right ear: Hold onto it child, close your fingers, otherwise there will be nothing left… My father’s quiet words in my left ear: Hold on tightly child, otherwise there won’t be anything left… But I was afraid. Holding on meant I had to endure the assault of these noxious sounds. Opening my hands, meant all that was dear to me, would slowly slip away, through my fingers…

I didn’t have the strength to write down in words the appellation of what I had witnessed, I didn’t have the strength to sit at my desk and scribble on blank pieces of paper all night. I drew instead, an elephant, and as soon as I stopped drawing, the elephant slowly stepped from the page, off my desk, and left me alone in my room. I drew a bird, and in the last stroke of the lead, the bird quietly lifted its wings from the pages and flew out of the window of my room. I drew a wooden idol, and in the last stroke of the pencil, the wooden idol had also stepped from the pages and exited through the door of my room. I was about to draw the emperor, but the feeling had filled me with dread! I knew eventually even the emperor would leave me as well. And I will be alone again. I drew myself, and in the last stroke of the pencil, I saw myself rising from the pages before heading for the door. How could that be, how am I gone? What did I do wrong, all I wanted was the truth, all I wanted was the ability to separate fact from fiction? Slamming the pencil on the wooden desk, I cried out for myself, my throat was hoarse: “Don’t, don’t leave me, please don’t…”.

Everyone and everything that I loved was gone. I was alone. I dropped my hands, not holding on, letting go, I gave up, my hands were no longer that of the living. The lines in my palms broke into random sections, without direction. There were wild elephants, birds flying, wooden idols, emperors, then there was me, leaving, there were all these goodbyes… I wanted to talk to them, so I could ask: “Why would…?” In the middle of the night, or has time ceased to exist. The moonlight was visible, filtered through the dense fog. I found myself at the door looking out, surprised to find the manifestations of my drawing, each character lined up quietly, serious and sad in my front yard.

The elephant through watery eyes: “We tried to run from them…”

The birds’ piercing eyes stared at me as they chirped: “We’re being hunted..”

The confused wooden idols: “We were bullied…”

I shouted with resentment: “We were deceived…”

They spoke up all at once, whining, upset.

I asked: “Who or what is doing all the chasing, hunting, bullying, and deceiving?

In unison, they said: “The emperor!”.

But, I didn’t have a chance to draw the emperor? In unison, they said: “There’s still an emperor!”. I asked: “Where?”. They answered: “He’s in shadow!”. Their voices trembled with fear. Shaking in the dense fog, trembling in the moonlight. No, how could there be an emperor, I couldn’t draw the emperor, I was too scared. Flinging my front door wide open, I stepped outside to investigate, what if they were right. My eyes strained, I searched all corners of the fairly large garden mostly in the dark. I checked beneath the looming shadows of the trees, bushes, overhanging vines, inside the rainwater barrels, chicken coop, and dog kennel. There was nothing. I had a second look to make sure, still, there was nothing. Annoyed, I shouted: “Emperor, where are you?”. My voice broke like falling pebbles as it dispersed through the dense fog. The elephant, bird and wooden statue after all the crying and whining, were now fast asleep around my front door, as though hypnotized. The poor things! The poor genteel things, they would never hurt anyone!

I was sure, for instance, that if I did find the emperor hiding somewhere in the garden, I would place him in my palm, and I would proceed to slowly crush him. Echoing from inside my fist would be the sound of constant fancy parties, conniving  plots and conspiracies? The sound of gold clanking and painful seedy pounding of flesh upon flesh and mattresses? The hard sound of power or nefarious mumble of vile cowardly barter and sales of human souls?

Then I will open my hand to see what will fall out. Royal edicts, imperial decrees piled up, an erection of power or crumbling swords, rotten to the bone? Scented impertinent golden dias or wood and rocks ground down like pig’s feed? Or tales of folklore no one cares to read anymore?

I don’t know since I’ve never drawn an emperor.

Nor have I ever met the emperor.

Hence, I will have to place the Nation in my hand, I will slowly wrap my fingers around it, and I will squeeze, I will hold on…/

Tưởng tượng

Truyện ngắn Nguyễn Văn Thiện

Tôi đặt Đất nước vào lòng bàn tay rồi từ từ nắm chặt lại, như cách những người đang yêu nắm lấy tay nhau. Cả một mớ hỗn độn đang vẫy vùng trong đó. Tiếng guốc khua, tiếng ao hồ gợn sóng, tiếng ru con, tiếng thổn thức của trái tim, tiếng hát nho nhỏ và tiếng cười mơ hồ. Tôi nắm chặt hơn chút nữa, tiếng dao kiếm va chạm, tiếng động cơ, tiếng tim đập mạnh, tiếng cười đùa, tiếng rên rỉ kêu than… Tôi bóp chặt tay, tiếng ré, tiếng gào, tiếng thét như sập cầu như lật xe, như cháy nhà cháy chợ. Bị kích động bởi những âm thanh mạnh, tôi nghiến răng bóp chặt. Âm thanh từ bàn tay phát ra như sấm sét, kinh thiên động địa. 

Tôi mở tay ra, nhẹ nhàng như một cậu bé với bàn tay đang giam giữ một con dế nhỏ, và ghé mắt nhìn vào. Những hình ảnh chồng chéo như một bãi chiến trường. Một người mẹ gục đầu bên giường bệnh của con, cháu bé nằm co như một dấu hỏi màu trắng, lâu lâu, dấu hỏi lại ho và quằn quại. Bên cạnh là một hàm răng trắng nhởn đang nhe ra cười của một cậu thanh niên mặc áo xanh. Giữa đất, một ngư dân mặt đen như đít chảo với dải băng thấm máu quấn trên đầu. Trên tay ông ta là một lá buồm hoặc lá cờ đã bị rách. Một cụ già còng lưng gùi một đống củi lặng lẽ bước đi. Trên đường, một chiếc xe cháy trụi, đen thui. Một nhóm người mặt mũi hốc hác tối tăm đang đứng vây quanh, chỉ trỏ…

Tôi xòe hết mười ngón tay. Những vạt đất rụng rơi lả tả. Đất sỏi vàng Móng Cái, đất đỏ bazan Tây nguyên, đất phù sa Cà Mau. Những dòng sông trôi tuột xuống dọc kẽ tay. Sông Kỳ Cùng, sông Ba, sông Hậu. Những vạt rừng rơi xuống kẽ tay. Rừng lim Tây bắc, rừng bằng lăng Tây nguyên, rừng tràm Tây nam bộ. Mẹ nói bên tai: Nắm tay lại đi con, không thì sẽ không còn gì… Cha nói nhỏ bên tai: Nắm tay lại đi con, không thì sẽ không còn gì… Nhưng tôi không dám. Nắm tay lại, tôi bị những âm thanh cuồng nộ kích động. Mà xòe tay ra, lại trôi tuột những hình ảnh thân thương…

Không đủ sức gọi tên những điều mình nhìn thấy, tôi ngồi lại bên bàn vẽ những nét nguệch ngoạc lên giấy, trong bóng đêm. Tôi vẽ con voi, xong những nét cuối cùng, con voi chậm rãi bước ra khỏi phòng. Tôi vẽ con chim, xong những nét cuối cùng, con chim lặng lẽ bay ra khỏi phòng. Tôi vẽ tượng gỗ, xong những nét cuối cùng, tượng gỗ cũng đi ra khỏi phòng. Tôi định vẽ một ông vua, nhưng không dám! Tôi sợ những ông vua trước sau rồi cũng sẽ bỏ ra đi. Cuối cùng, tôi vẫn một mình. Tôi vẽ tôi, xong những nét cuối cùng, tôi cũng đứng dậy bỏ đi. Có lẽ nào, ngay cả tôi cũng đã bỏ tôi đi? Tôi đã gây ra lỗi gì, hay chỉ vì đã trót muốn nghe những âm thanh thật, nhìn những hình ảnh thật của cuộc sống này? Tôi buông bút, gọi theo mình, giọng khản đặc: “Đừng bỏ lại, tôi, ơi…”.

Những thân yêu tin cậy đã bỏ đi hết rồi. Còn mỗi tôi trong căn phòng hoang vắng. Bàn tay tôi thõng xuống, không nắm không mở, như tay người chết. Những đường chỉ tay đứt nối một cách rối ren,loạn xạ. Này thì voi hoang, này thì chim trời, này thì tượng gỗ, này thì vua chúa, này thì là tôi, này thì chia ly, này thì tan rã… Tôi muốn gặp họ, để hỏi một câu, chỉ một câu thôi: “Vì sao lại…?” Có lẽ phải nửa đêm, hoặc là thời gian không còn trôi nữa. Bóng trăng cũng đặc lại trong sương. Tôi mở cửa phòng nhìn ra, kinh ngạc thấy những bức tranh của tôi đứng xếp hàng ngoài đó, lặng lẽ, u buồn. 

Voi nói bằng ánh mắt ngân ngấn nước: “Chúng tôi đã bị xua đuổi…” 

Chim nói bằng ánh nhìn cong vút: “Chúng tôi đã bị truy sát…”

Tượng gỗ nói bằng thớ thịt não nề: “Chúng tôi bị cưỡng bức…” 

Tôi nói bằng lưỡi cong như chiếc muỗng: “Chúng tôi đã bị lừa dối…” 

Tất cả đồng thanh cất tiếng, kể lể, than vãn. 

Tôi hỏi: “Ai, ai đã xua đuổi, ai đã truy sát, ai đã cưỡng bức, ai đã dối lừa?” 

Tất cả đồng thanh: “Vua!”.

Nhưng, tôi đã kịp vẽ vua đâu, tôi chưa vẽ vua bao giờ mà? Tất cả lại đồng thanh: “Vẫn có vua!”. Tôi hỏi: “Ở đâu?”. Họ trả lời: “Trong bóng đêm của khu vườn!”. Giọng nói của họ toát lên vẻ sợ hãi. Họ run rẩy trong sương, run rẩy dưới trăng. Không lẽ nào, ở đây lại có vua, trong khi tôi chưa vẽ vua bao giờ? Tôi đẩy cửa bước ra ngoài, tôi phải tìm thật kỹ xem, biết đâu điều này lại là sự thật. Tôi căng mắt ra nhìn vì khu vườn khá rộng và tối. Nhìn vào trong hốc cây, trong bụi cỏ, dưới tán lá, trong thùng đựng nước, cả trong chuồng gà, chuồng thỏ. Không thấy. Tìm lần nữa, vẫn không thấy. Bực mình, tôi gọi to: “Vua ơi, vua ở đâu?”. Tiếng của tôi vỡ ra như sỏi, tan trong sương đêm. Bọn voi, chim và tượng gỗ sau một hồi khóc than kể lể đã đứng ngủ ngay trước cửa, như bị thôi miên. Nhìn mà thương lạ! Những hình hài hiền lành ấy, chúng đã bao giờ làm hại ai chưa?

Tôi chắc chắn, giả sử bây giờ tìm được vua đang nấp đâu đó trong khu vườn này, tôi sẽ đặt vua vào hai bàn tay và bóp chặt. Từ trong đó, sẽ vọng ra nhưng âm thanh dặt dìu đài các yến tiệc hay tiếng thì thầm của những thủ đoạn mưu toan? Sẽ là tiếng vàng sắt chen nhau hay tiếng gối chăn đau buốt? Tiếng hùng cường cứng cỏi hay tiếng đê hèn thỏa hiệp thì thào đổi chác, bán mua?

Rồi tôi sẽ xòe mười ngón tay ra xem cái gì sẽ rơi lả tả. Những ngự chuẩn ngự phê dồn dựng hùng cường hay những bảo kiếm nát tan, long bào hắc ám? Là sừng sững ngai vàng hay gỗ đá vỡ ra như cám? Hay chỉ là một dòng chữ cổ xưa không còn ai đọc được?

Tôi không biết, bởi tôi chưa từng vẽ vua bao giờ. 

Tôi cũng chưa từng gặp vua bao giờ.

Vì vậy, tôi lại đặt Đất nước vào lòng bàn tay rồi từ từ nắm chặt lại…/


Nguyễn Văn Thiện
Born: 1975
Home town: Anh Sơn – Nghệ An
Master in Comparative Literature and Critical Theories
Currently a high school teacher, and a prolific writer.
Editor of Chư Yang Sin (Đắk Lắk) Art and Literary Journal.

Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.

IT’S ME, RUBBING MYSELF | Nguyễn Văn Thiện

A short story in Vietnamese by Nguyễn Văn Thiện
Translator: Nguyễn Thị Phương Trâm 

The writer : Nguyễn Văn Thiện

I’ve come to terms with how my face feels, but I was still unsure of its shape, an estranged spirit busking at a flea market, a samurai waving a knife gutting himself for fun, or some deranged fool arranging words dreaming of becoming a poet? Shrouded by a cloud of smoke and mist of desolation, I considered the position of my face. Each time there was an itch, I took a glimpse at the mirror, it was a sad, defiant stranger.

I settled with rubbing my feet, but I was unsure if they belonged to me or to someone else. Whose feet tirelessly climbed dunes after dune just so he could reach the sea, whose feet entangled in the long grass dreaming of laying down, abandoning everything to for the best view of the bluest the biggest sky? Whose feet chose to set foot on a path through such deserted ravines? Someone else or mine away on an off-beaten path and lost moving back and forth with neither foot conforming to the expectations of society?

I settled with rubbing my stomach, but I was unsure if it belonged to me or to someone else. Whose gut was so changeable day after day burning then wet in the sun and rain, through the anguish, full of hunger and desire. Am I ordinary or some evolved empathetic being? Me in the middle of the night yearning for a faraway soul, my confused gut churning with lies and deceit.

I settled with continuously rubbing my heart, but I was unsure if it was mine. Whose heart was arrhythmic without rest? Whose heart each night was by the moonlight, rising and falling with the tide, in constant heat? My soul or someone entwining red and blue palindromic heated haemoglobin? Someone or mine that at times were breathlessly drowning, lost, and exhausted in this dull, sad life?

I settled with rubbing my shoulders, but I was unsure if it was mine. Whose shoulders bore the burden and constant scrambling for food and shelter, drenched in sweat, not once relieved by a breeze, ripped through the jungle for a living amongst the thorns and brambles? Exhausted because of me are the wings of a bird at the end of the horizon? Whose shoulders saw the starkness of the seasons alone at the side of the mountain, ready to embrace a breeze that never turned up? My shoulders or theirs on which were the fallen leaves, barely touched before in haste, flown away without a promise?

Crawling through my body was some kind of sickness. There to see here and hither a ghoulish four realm of heaven and earth when I have resided to rub my eyes. Mine or theirs to only see worms and maggots devouring holes in all places, weeping battered eyes? My eyes or theirs that those familiar features will never be identified? Whose eyes closed could see the mangled fate of humanity on this planet? Whose eyes were as wild as grass in a dry season upon everything igniting in torturous flames?

There were afternoon naps when sleep had evaded me; I would rub my back, rub the length of it up then down not sure if it was mine! Whose back was so long, a waste of good cloth, my lumbar or an eroded boulder amongst the sparsely scattered weed? Whose back failed after forty years of cultivation missed out on the season of their dreams, covering one side to expose the other? You have left me in a fog, cut short was the path you betrayed when you turned your back on me.

Was there anyone out there like me, to be that far from myself, finds after searching through all the crevices and troubled parts of his anatomy to be equally frightfully estranged? Am I me or some other being in these inconvenient troublesome clothes? If not me then where lies the meaning of life, who will shoulder the burden of these struggles for me amid this world for thirty-six thousand days? If one was unable to recognise oneself then who?

More than often, it’s me rubbing myself.

Mình tự xoa mình

Nhiều khi ngồi xoa mặt mình mãi, vẫn chưa thể định hình mình là ai, là kẻ vong thân hát cuồng giữa chợ, một mình múa dao đồ tể toan làm tráng sĩ rạch bụng coi chơi, hay chỉ là gã xếp chữ huênh hoang mơ làm thì sĩ? Mặt mình hay mặt ai mà khói sương che phủ hang hốc hoang vu? Mặt của ai hay mặt của mình mà mỗi lần nhìn vào gương đều bắt gặp một kẻ xa lạ u hoài ngang ngạnh?

Nhiều khi ngồi xoa chân mình mãi, vẫn chưa thể định hình chân mình hay chân ai. Chân ai mà miệt mài lên xuống đi về đầu non cuối bể, chân ai mà rối ren hoa cỏ sợi ngắn sợi dài mơ ngày nằm choãi ra dưới trời xanh lồng lộng? Chân ai mà chọn đường chọn lối nơi cheo leo vực thẳm mà đi, chọn độc đạo một mình mình mà bước? Chân mình hay chân ai mà trước lẫn sau đều không có bàn chân nào đồng hành như nhân gian mong đợi?

Nhiều khi ngồi xoa bụng mình mãi, vẫn chưa thể định hình bụng của mình hay bụng của ai. Bụng ai mà cồn cào thương nhớ giận hờn đói no thất thường mưa mưa nắng nắng, là tiểu nhân tầm thường hay kẻ biết phân ưu cộng lạc với thiên hạ khổ đau? Bụng ai mà nửa chiều đổ mưa bỗng thấy bâng khuâng về những quanh co gian dối, mà nửa đêm bỗng cồn cào vì một người ở xa thật là xa?

Nhiều khi nằm xoa tim mình mãi vẫn chưa định hình nổi tim mình hay tim ai. Tim ai mà loạn nhịp liên hồi không ngủ? Tim ai mà rạo rực theo từng nhịp thủy triều lên xuống, mà giãn nở thất thường mỗi khi đêm về thăm thẳm bóng trăng treo? Tim mình hay tim ai mà chằng chịt đỏ đen xuôi ngược hồng cầu rộn rã? Tim ai hay tim mình mà có khi đắm đuối muốn đứt hơi trong quên lãng kiếp người quá mệt mỏi hoang vu?

Nhiều khi ngồi xoa vai mình mãi vẫn chưa minh định nổi, là vai của mình hay vai của ai. Vai ai mà đòn tre chín dạn gánh gồng cơm áo xiêng viêng, vai ai mà hổn hển mồ hôi trưa hè gió quạt, mà lá cắt gai cào xé lối băng rừng tìm nẻo mưu sinh? Vai ai hay vai mình mà nhiều khi mỏi mệt, như cánh chim quạt gió cuối trời? Vai của mình sao mấy mùa sừng sững vách núi cô đơn đón đợi gió ngàn qua chưa thấy? Vai của mình hay vai của ai mà chiếc lá vừa rơi, vừa đậu xuống đã vội vã vụt bay đi không hẹn quay về? 

Hình như có căn bệnh gì đó đang bò trong người mình. Nhiều lúc ngồi xoa mắt mình mãi rồi nhìn ngược nhìn xuôi, thấy đất trời điêu linh bốn cõi. Mắt mình hay mắt ai mà nhìn đâu cũng thấy mọt gặm sâu ăn thủng lỗ chỗ, dột nát tứ bề? Mắt ai hay mắt mình mà mình nhìn mình cũng không nhận ra nét thân thuộc? Mắt ai mà càng nhắm lại càng thấy rõ ràng rối ren của kiếp người nơi trần thế? Mắt ai mà nhìn vào cái gì thì cái đó bốc cháy ngùn ngụt như cỏ dại mùa khô?

Có những buổi trưa khó ngủ nằm xoa lưng mình mãi, xoa tới xoa lui vẫn chưa dám chắc là lưng ai hay chính lưng mình! Lưng ai mà dài lưng tốn vải thư sinh giá áo, lưng mình sao mà như tảng đá trùi trũi bên đường cỏ mọc lau thưa? Lưng ai mà hơn bốn mươi năm gieo gặt mất mùa chiêm bao thất bát, hễ che bên này lại lạnh phía bên kia? Người đi bỏ mặc phong sương, quay lưng phản bội con đường lêu đêu…

Có ai như mình không, cảm thấy mình xa lạ với bản thân mình đến thế, tìm hết mọi bộ phận mọi ngõ ngách phiền hà của cơ thể đều thấy xa lạ đến kinh hoàng. Ta là ta hay ta là tha nhân trong áo quần phiền hà rắc rối? Ta không phải là ta thì ý nghĩa cuộc đời nằm ở đâu, rồi ai sẽ gánh chịu cho ta những công tội nhọc nhằn giữa thế gian ba vạn sáu ngàn ngày? Ta không nhận ra thân thuộc chính mình thì còn ai có thể nhận ra ta nữa?

Nhiều khi, mình tự xoa mình…


Nguyễn Văn Thiện
Born: 1975
Home town: Anh Sơn – Nghệ An
Master in Comparative Literature and Critical Theories
Currently a high school teacher, and a prolific writer.
Editor of Chư Yang Sin (Đắk Lắk) Art and Literary Journal.

Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.