April | Nguyễn Văn Thiện

A short story in Vietnamese by Nguyễn Văn Thiện
Translator: Nguyễn Thị Phương Trâm
Art: Đinh Trường Chinh

April begins in the garden under an eclipse, through the immersing sounds of cicadas from within the heart of people. The poets continued to smile, grinding down the words in their poems, the self-absorbed writers reserved in their minds the convoluted plots and desperate shredded ideas. The self-serving autocrats with their hands in each other’s pockets were pleased with themselves.

April begins with the drooling of an arrogant battalion spitting at a red hot summer far and beyond. A friend, in a moment of thoughtful brilliance, composing poetry with the intention of killing himself. But did not succeed! Because the dictators after patting themselves on the back came to the humiliating conclusion that in this world, no one could escape being discovered when they only think about themselves!

April would begin like a fish waving its tail to welcome the summer…

April begins with a communal procession of the dead. When the last drop of water in the mead disappears, it’s when the delusions begin to appear. Like a mirage that appears out of nowhere, the sheep obediently chew on the grass at the side of the road, proudly in rows, in their suits and ties, ready for the commemorations. It was not long before a sea of people-like waves would indiscriminately overwhelm everything. The craziest of ideas exploding spread like wildfire during the dry periods. All thought they were above the other or higher, atop the trees. So much so that some thought they were flying above humanity, in pairs of redwings, made from cilium and bird feathers. 

The entire crowd was deranged, no one bothered to ask themselves, how were they going to safely land after all that.

April begins with the excavation of the deep dark crevices that could never be whole again. The crowds on this side shouted at the crowd on the other side, back and forth, the chaotic racket waiting for the return of a hot sunny April with the Sun high up in the sky. Humiliating, pointing out each other’s faults… Once upon a time, swearing and insults were resolved with artillery, obliterating flesh and bone. Now these deep crevices are unseen by most people, but there they were from the very bottom of those dark pits trying to shed light, the fissures, they were fully aware of their power in the divide.

It’s not the Lam river, not the Gianh river, not Bến Hải, not some kind of river with two sides, but despair at the heart of humanity, in angry waves, over the deep moats, over the fortification of the hoe and hacksaw, to prove that they’re on the winning side, flying over the top of humanity with cilium and bird feathers not the fresh blood of our fellow citizens…

April begins with a rather strange record: More than three million butterflies turned up at the top of Mount Chư Mang! Something that has never happened before. In the middle of the day in the steaming burning sunlight, the butterflies of all shapes, sizes, and colours overwhelmed the mountain like tidal waves after an earthquake. Attracting them was a halo in seven brilliant shades. The swarms of butterflies were drawn towards it by some kind of transcending power at the peak of summer. The sounds of singing blended in with the laughter and tears, the sounds of feet rubbing against each other, the rustling sounds of lazy falling broken wings. The nymphs, exhausted, lay scattered along the side of the road, they couldn’t take their sad eyes off the old butterflies drifting in waves across the spine of the lush green mountain…

April begins with the tired hearts learning how to spell happiness. The passing rain in dreamy sketches of the mountains and rivers, the image of a familiar yet unfamiliar face, not of yesterday nor exactly the face of tomorrow. In the minutes before the sunrise was a change of heart, at the point of the return of the wind, there were these turns of events. Adding an accent you might end up with a cool game of hiding and seeking, adding a full stop meant the end of someone’s marriage, the absence of accents meant someone else’s husband, the punctuations belonged to no one… Why isn’t April a certainty like the wind, not fragrant like the streams high up the mountains, not a clear affirmation of the simplicity of such truths like if we were to walk we would then reach our destination, the cool summer rain always in front of us? Why must we wander around deceiving the deep dark holes, turning them into tall walls of roundabout vows and promises?

At the end of April, the end of the horizon, a storm is brewing, and there is a hoarding of knives and swords, weapons ready for an expedition of blood and bone in the river? Why would there be within the exodus of butterflies the warning signs of such a strange turn of events…

Eventually, all will be gone, the sea of crazy people, dictators, arrogant army men, even the festive sounds of cicadas, the hiding and seeking of happiness, all shall be no more, as the seasons follow one after the other, leave, be then be no more.

[October 2020]

Tháng Tư

Truyện ngắn Nguyễn Văn Thiện

  Tháng Tư bắt đầu bằng tiếng ve rộn ràng trong những tâm hồn và khu vườn u tối. Các nhà thơ lại tiếp tục bỏ thơ vào cối giã, các nhà văn ưa triết lý vụn vặt và xây dựng những cốt truyện lộn lèo lại hào hứng vung tay. Các nhà độc tài lại đút tay vào túi quần tay nọ bắt tay kia xoa xoa tự sướng.

Tháng Tư bắt đầu bằng một bãi nước bọt của bọn kiêu binh nhổ vào mùa hè đỏ lửa còn đang nằm chờ phía trước. Bạn của ta, trong một phút huy hoàng sáng chói của tư duy đã lao đầu vào thơ định tự sát. Nhưng rồi bạn sẽ không chết, đương nhiên! Vì các nhà độc tài sau khi xoa tay tự sướng thì bỗng bẽ bàng nhận ra rằng, thế giới này không có ai lại tự nâng bi của mình mà không bể! 

Tháng Tư mới chỉ bắt đầu như chú cá quẫy đuôi trước cửa mùa hè…

Tháng Tư bắt đầu bằng những cơn lên đồng tập thể. Khi giọt nước cuối cùng trên thảo nguyên biến mất, là lúc những cơn hoang tưởng vừa xuất hiện. Như một phép màu được thực hiện cùng lúc trên bầy cừu đang ngoan ngoãn bên lề đường gặm cỏ, bỗng nhiên áo mũ xênh xanh thẳng hàng thẳng lối như đang tham dự một lễ diễu hành tưởng niệm. Thoáng chốc, biển người đã như sóng trào dâng cuồn cuộn. Những ý tưởng điên cuồng nhất được dịp bùng phát dữ dội, như đám cháy rừng mùa nắng. Ai cũng tưởng tượng ra rằng mình đang ngồi trên đầu người khác hoặc đang ngồi cao trên tít tắp ngọn cây. Thậm chí có người đinh ninh rằng mình đang bay trên đầu nhân loại, bằng đôi cánh màu hồng, bằng lông mao lông vũ của loài chim.

Cả một đám đông loạn não, không một ai nghĩ rằng, rồi đây, bằng cách nào, mình sẽ hạ cánh an toàn…

Tháng Tư lại khởi động những hố sâu thăm thẳm không thể nào hàn gắn. Đám đông bên nọ réo gọi đám đông bên kia mà chửi và ngược lại. Những âm thanh cuồng loạn âm ỉ chỉ đợi tháng Tư về nắng cháy lại vút lên cao. Làm nhục nhau, kể tội nhau, lêu lêu nhau… Có một thời, tiếng chửi bới, tiếng lăng mạ đã trở thành bom đạn nát thịt tan xương. Bây giờ, có vẻ ít người nhìn thấy hố sâu, nhưng từ tận cùng sâu thẳm dõi lên, hố sâu biết rất rõ khả năng ngăn cách của mình.

Không sông Lam, không sông Gianh, không Bến Hải, không phải con sông hai bờ nào hết, mà chính là lòng người trong giờ phút điên cuồng nhất, đã gọi về sóng dữ, gọi về hào sâu, gọi về những lưỡi cuốc lưỡi mai công sự, để chứng minh bằng được mình đang ở phe thắng cuộc, đang bay trên đầu nhân loại bằng lông mao lông vũ của loài chim chứ không phải bằng máu tươi đồng loại…

Tháng Tư lại bắt đầu bằng một kỷ lục lạ lùng: Hơn ba triệu cánh bướm đồng loạt vỗ cánh bay lên đỉnh Chư Mang! Chuyện chưa từng xảy ra, người già nhất cũng chưa từng được thấy. Giữa cơn nắng cháy khét mù trời, cơn bão bướm đủ màu sắc và hình dạng nô nức tràn lên như sóng thần sau động đất. Trên đỉnh núi xuất hiện quầng sáng sặc sỡ bảy màu mời gọi, níu kéo. Lũ bướm bay theo một lực hút bí ẩn nào đó giữa đỉnh trời mùa hạ. Tiếng hát chen tiếng cười hòa vào tiếng khóc, tiếng chân va nhau, tiếng cánh rụng lông rơi lả tả. Bọn bướm non mệt lả, nằm lại thoi thóp bên đường, rên rỉ nhìn theo lũ bướm già đang tràn lên vách núi màu xanh…           

Tháng Tư bắt đầu với những trái tim mệt mỏi nằm im tập đánh vần một bài học về hạnh phúc. Cơn mưa thoáng qua vẽ lên núi lên sông những nét mơ hồ về một gương mặt nào đó không quen không lạ, không phải của hôm qua cũng chưa chắc đã mai sau. Chút nữa nắng lên sẽ thay hình đổi dạng, mai kia gió về sẽ bãi bể nương dâu. Bỏ dấu huyền vào sẽ là trò trốn tìm thú vị, dấu nặng vào sẽ là của người ta, thêm dấu ngã nữa là vụn vỡ, không dấu không thanh cũng không phải của mình…Vì sao tháng Tư không an nhiên như gió, không thơm lừng như suối trên núi cao, không minh định rõ ràng những chân lý giản đơn rằng cứ đi rồi sẽ đến, rằng phía trước là cơn mưa mùa hè mát rượi? Sao cứ phải quẩn quanh dối lừa hố sâu thành cao hứa hẹn vòng quanh?

Cuối tháng Tư, chân trời xa đang ủ giông ủ gió, đang tích tụ gươm đao để tiếp tục cuộc viễn chinh bể xương sông máu? Sao trong cánh bướm thiên di đã ngấm ngầm báo động những thay đổi lạ lùng…

Rồi cũng sẽ ra đi hết thảy, những biển người loạn não, những gã độc tài, những đứa kiêu binh, cả tiếng ve rộn rã, cả trò trốn tìm hạnh phúc, tất cả rồi sẽ ra đi, cho mùa nối tiếp mùa, đi mãi.



Nguyễn Văn Thiện
Born: 1975
Home town: Anh Sơn – Nghệ An
Master in Comparative Literature and Critical Theories
Currently a high school teacher, and a prolific writer.
Editor of Chư Yang Sin (Đắk Lắk) Art and Literary Journal.

Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.

A letter to the rain | Nguyễn Văn Thiện

Phố Cổ Hà Nội, Việt Nam. Photography by Nguyễn Thị Phương Trâm

A short story in Vietnamese by Nguyễn Văn Thiện
Translator: Nguyễn Thị Phương Trâm 

Casual like fate, the unforgettable rainstorms through our life. It passes, beyond, till that moment sunlight breaks, and we would never meet again. In a lifetime, have you ever experienced such a storm? What do you do as you reminisce on the passing light and deluge? Have you ever considered writing to the rain long gone, and why not? When there’s no way of bringing back the past, I would continue to take myself back to this moment in the past, why? Who knows! This morning, the sky was overwhelmed by a swarm of moths greeting the sunlight at the mead, I sat down to write a letter to an old storm, casual like fate stretched out waiting for a way to return, to a day in the past, long gone.

“You’ve arrived, exactly at that time and place, not early, nor late, caught me naked, alone, like an escaped criminal from hell lost in the mead. You’re oblivious, excited, enthusiastic you told tales of far unknown nine spheres of heaven. I lay there listening, engrossed, knowing, that must be the strangest thing, in this fraudulent world the truest tale I have ever heard. Every story involving people carries with it the subjective hue of suspicion. Your words, I believed, and years later, I continued to believe. You roamed amongst the seven hues of the rainbow, leaving behind all of your entanglement and worries. The truth is, it’s stuff made of dreams, a life never tasted nor experienced, not even a little. The raindrops fell then we were gone, reincarnated ablaze in a moment of happiness. In your eyes, life was evergreen, endlessly beautiful, no different to the greenest of grass on a spring morning to a young girl who became a woman, the first time she discovered love…”

“When I sat down to write these words, you were long gone, far away from the mead, roaming somewhere at the end of the horizon. Today the sun blistering in Chư Mang, infinitely the clouds piled on top of the light, the light in layers on top of the clouds. It took us forever to face the facts of those who were long gone, the existence of their value, you’re the aberrant rainfall, who had come and gone, took away with them so much longing. You brought to the mead tales so strange it woke up every blade of grass, leaves in trees, they dreamt of far off places of distant horizons, of vast, vast seas. You whispered into our ears new things, things unimaginable to them. You said, in a far-off place, there were people with a strange habit, they lived like animals, after a time, they forget their human voice. I immediately compared my life with theirs, and I could more than relate. We, as human beings, dwell together, also for a long time, our spoken language now a reverberation of grunts and screams liken to a pack of wild beast, day after day gradually we lose our humanity, lost is the pure original heavenly given nature of goodness, and kindness…”.

“You told me in these far-off places people own their freedom, free to proudly live out their desires. You winked at me mischievously and placed a cold kiss on the top of my head, and left to continue your adventures! It has been a while, there has been no mentioning of any childhood adventures in the mead, yet this morning, dreamy-like that era of lakes long shimmering wild rivers, and wandering adventures with the clouds with eyes as blue as that of a maiden. The clouds chirped on about all sorts of stuff, luculent, without ever knowing pain, ever knowing deceit. Was it an amusing game with the clouds? If I knew the answer, no more than you – the rain – halfway up that familiar slope, would across the sky return. Though our story may have a long way to go, the morning has a long way to go; no more could be said, thoughtlessly you have cut through my life. When clouds casually became the protagonist, when you continue to be present as our casual witness void of misery, mount Chư Mang can only stand and watch, and smile…”

“I have invited you to, hey, why don’t you stay till the end of these long days? Of course, as vain white clouds, eyes narrowing, suspiciously shook your head! I know, youth, playtime, a time of self-discovery, though for a long time I’m left with this numbing aching heart, heartless no, but with little hope. Your tales always provoke our curiosity. I’ve asked: since you journey endlessly, have you ever transpired with a green-eyed maiden cloud? You would then, rushed around, as though busy, as though to dodge that answer…”

In passing as the rain came and went, I returned to my first role – a storyteller on mount Chư Mang. I’ve survived so much sun and rain in the mead, sometimes in lustful desire, delusional sadness, no day the same as the other, nor night like the other. This afternoon, I’ve chased away the hint of desire for a cloud with infinitely blue eyes right above my shoulders, its ready laughter had always led the way. I’ve walked through the afternoon without leaving a footprint or did I merely hover above the grass, laughing like warm rays of sunshine. I’ve tread quietly, my heart beating ever so lightly, for fear of awakening, frightening the clouds, which may fly away. As came the constant shadow of night, I will aimlessly roam these four corners of the trees and grass, with a warm smile safely in my hand.

And when sleep came, came the dreams, came the rain! 

THƯ GỬI CƠN MƯA

Có những cơn mưa đổ ngang đời, tình cờ như số phận, khiến ta không thể nào quên. Khi cơn mưa đã đi xa, xa lắc xa lơ rồi, có hôm nào nó khi nắng về tinh khôi chợt nhớ, mới biết rằng mình không bao giờ gặp lại. Trong đời bạn, đã bao giờ có những cơn mưa như thế chưa? Bạn làm gì khi quay quắt nhớ thương về những nắng mưa mình từng trải? Bạn có bao giờ nghĩ đến việc mình sẽ viết một lá thư gửi về cho cơn mưa quá khứ, tại sao không nhỉ? Khi không còn cách nào bắt quá khứ quay về, thì ta bắt mình ngược về quá khứ, để làm gì ư? Ai mà biết chắc! Sáng nay, mối bay lên rợp trời đón nắng thảo nguyên, ta ngồi viết thư gửi cho cơn mưa cũ, cơn mưa tình cờ như số phận giăng ngang đón đợi đường về, vào một ngày của xa xưa, xa lắm…

“Bạn đã đến, đúng vào thời điểm đó, không sớm, không muộn, để vừa vặn bắt gặp ta trần trụi, cô đơn, như một gã tù vượt ngục bị lạc giữa thảo nguyên. Bạn vô tư, sôi nổi, hào hứng kể cho tôi nghe câu chuyện thiên thu từ chín tầng trời xa lạ. Ta nằm nghe mê mải, biết rằng, đó là câu chuyện lạ lùng nhất, trung thực nhất mà mình được nghe trong chốn trần gian đầy bất trắc lọc lừa. Câu chuyện nào của thế nhân cũng mang một màu sắc chủ quan đáng nghi ngại. Riêng những lời bạn kể, ta tin, cho đến mãi sau này, vẫn còn tin. Cuộc đời của bạn, rong chơi giữa bảy sắc cầu vồng, bỏ hết mọi vướng bận và lo toan. Thú thực, đó là thứ đời sống trong mơ, ta chưa bao giờ được nếm trải, dù ít ỏi. Những giọt mưa đến rồi đi, luân hồi trong niềm vui rạng rỡ. Trong mắt bạn, cuộc đời xanh mướt, đẹp đẽ vô cùng, không khác gì sân trường xanh mướt trong buổi sáng mùa xuân trong mắt cô học trò mới lớn, lần đầu bắt gặp tình yêu…”

“Khi ta ngồi viết những dòng này thì bạn đã rời xa ta, xa thảo nguyên, rong chơi tít tắp cuối chân trời thăm thẳm. Chư Mang hôm nay nắng gắt, mây xếp chồng lên nắng, nắng xếp chồng lên mây, vô tận. Có những người khi họ đi xa rồi, ta mới thấy giá trị hiện hữa của họ, với ta, bạn là một cơn mưa lạ lùng, đến rồi đi, nhưng lấy của ta nhiều lần mong nhớ. Bạn mang đến thảo nguyên những câu chuyện lạ lùng và đánh thức cỏ cây bằng ước vọng xa xôi của bầu trời, của đại dương mênh mông. Bạn thầm thì bên tai ta về những điều ta chưa hề biết, chưa hề nghĩ đến. Bạn nói, ở xứ sở xa xôi, có những con người có sở thích kỳ quái, họ sống cũng muông thú, lâu dần, họ quên mất tiếng người… Ta lập tức liên tưởng, so sánh với cuộc sống của chính mình. Bọn ta, con người sống với nhau, nhưng cũng từ lâu, ngôn ngữ giao tiếp là tiếng gào thét của loài thú hoang, ngày càng mất đi tính người, mất đi thiên lương trong trẻo ban đầu…”.

“Bạn nói với tôi về những miền đất xa xôi con người được tự do, được sống để thỏa mãn niềm khát khao chinh phục tự nhiên. Bạn nháy mắt tinh nghịch rồi vội vã đặt một nụ hôn lạnh giá lên tóc, rồi tiếp tục rong chơi! Lâu lắm rồi, thảo nguyên không còn nhắc đến những hẹn hò tuổi nhỏ, vậy mà buổi sáng nay, tinh mơ như tuổi sông hồ dài rộng, ta lang thang cùng với một đám mây mắt màu xanh con gái. Đám mây líu lo kể đủ chuyện, bằng âm thanh trong trẻo, như chưa từng biết đến lo toan, chưa biết đến dối lừa. Đi chơi cùng với một đám mây thì có vui không? Ta chưa biết trả lời thế nào thì bạn – cơn mưa – lại ngang trời kéo đến, ngay giữa con đèo quen thuộc. Câu chuyện còn dài lắm, buổi sáng còn dài lắm, sẽ còn nhiều điều để kể, nhưng bạn đã vô tình cắt ngang.  Khi đám mây tình cờ trở thành nhân vật chính, khi bạn luôn luôn có mặt một cách tình cờ như nhân chứng không thể thiếu, núi Chư Mang chỉ còn biết đứng nhìn theo, có một nụ cười…”

“Ta rủ rê, thôi, hay ở lại đây cho hết những ngày dài? Dĩ nhiên là đám mây trắng kiêu kỳ lắc đầu nheo nheo mắt! Ta biết rồi, tuổi trẻ mà, còn phải rong chơi, còn phải kiếm tìm, mà ta thì từ lâu chỉ còn một trái tim đau buốt, không phải vô cảm, nhưng cũng không hi vọng gì nhiều. Câu chuyện kể của bạn luôn gợi trí tò mò. Ta hỏi: Bạn lãng du trong vô tận, thế đã bao giờ rong chơi với một đám mây con gái có đôi mắt màu xanh chưa? Lúc đó, bạn ào ạt chạy qua, làm như bận bịu lắm, để né một câu trả lời…”

Trong khi cơn mưa chập chờn đến rồi đi, ta lại trở về với vai diễn ban đầu – người kể chuyện ở núi Chư Mang. Ta đã đi qua bao nhiêu mưa nắng thảo nguyên, khi cuồng nhiệt mê say lúc ảo não u buồn, không có ngày nào giống ngày nào, không có đêm nào giống đêm nào. Chiều nay, ta đuổi theo dấu vết yêu thương với đám mây mắt biếc đậu trên vai và tiếng cười lảnh lót dẫn đường. Ta đi qua buổi chiều mà dường như không để lại dấu chân, hoặc là đang lướt trên mặt cỏ với tiếng cười vỡ ra long lanh như nắng ấm. Ta nhè nhẹ bược chân, tim không dám đập mạnh, sợ đám mây giật mình tỉnh giấc, bay đi. Khi bóng đêm vời vợi kéo về, ta vẫn loay hoay giữa bốn bề cây cỏ, với ánh mắt nụ cười ấm áp giữ chặt trong tay…

Và rồi, khi giấc ngủ kéo về, trong mơ, cũng có một cơn mưa!/


Nguyễn Văn Thiện
Born: 1975
Home town: Anh Sơn – Nghệ An
Master in Comparative Literature and Critical Theories
Currently a high school teacher, and a prolific writer.
Editor of Chư Yang Sin (Đắk Lắk) Art and Literary Journal.

Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.

a writer ingested | Nguyễn Văn Thiện

A short story in Vietnamese by Nguyễn Văn Thiện
Translator: Nguyễn Thị Phương Trâm 

 A WRITER INGESTED

Up high, it’s a slow pace in the morning. The cicadas’ song stretches endlessly through the grass, like morning light through leafy canopies. He lay on his back, chewing grass because he is a cow. Last night in his dream, he swallowed an entire calf into his stomach. This morning, he saw himself as a cow with wet eyes, long tail and hanging teats. He’d thought the grass was fragrant and delicious, because of this fact, anyone who is not a cow would be envious of him. Compared to cows, no one could appreciate this deeply on how grass can be so fragrant and delicious. Happiness is simple. He opens his middle age gauntlet to a healthy eight teeth and even grins then staggered to a stance stretching his shoulders into a yawn. 

Moooo…

You’re thinking, in the night dreams of ingesting any creature by morning will you become one? With this matter, he can’t give you an answer, ask the philosophers, the writer-poets of whom are wilfully manufacturing stories out there. He concedes! He can speak only of his tale. Some nights, he dreamt of swallowing an entire lake into his stomach. Noon the next day, he saw himself as a vast lake. His deep blue spirit is spreading wide, quietly reflecting the sky. A playful kingfisher leapt high into the air and fell in a sudden moment. Liken to something piercing the umbilicus, as the whole body squirmed in rippling waves of agony. The kingfisher then flew away with no promise of return, left behind is a blistering scar at the umbilicus beneath the blinding Sun. 

He wanted to scream, but his voice in the moment calm, like the bubbling wriggle of a fishtail, a whimper amid the desolation. How can the lake bewail, even when it’s in its eternal yearning!

Life is a constant grapple; looking back on his dreams with loath and longing, happiness seems rare while common is break up and resentment. We chase each other with knives at the edge of mountains in our thoughts, waking to shaken knees and pounding hearts. An odd nightmare, some drunken night of drinks, fully dressed to bed, to dream. In his dreams, he swallowed all at once three politicians! Morning came, out of bed, jumped to ablutions, washed hair, sprayed before he stepped out. His steps proud and deliberate, lips quiet, eyes focus on the distance, a look of indescribable compassion. 

He figured the three politicians in his dreams the night before had indeed possessed him. He went to the city gate and stood, raised his hand way too high above his head and greeted the people in a fashion custom to how one would greet one’s constituents, with a gentle smile. The faces of the stream of passersby were either blank, full of contempt, or filled with hate. 

Hang on, why’s that?

Sometimes he sat like a dense clump of sand. He tried to remember what he swallowed in his dreams last night? What stands still quiet in place, surrounded by gaudy bright flags? What leaks silently rotting mouldy fleshy excremental chilling air? Can you work out what it could be? He let out a shout at the hint of the smell that overwhelmed him: In last night’s dream, he swallowed a mausoleum! Now, standing there, square and imposing, evident, challenging. His shadow draped long, a dark black shield on the autumn lawn. He said: “Hey, whose body lies in my mausoleum, can you hear the befoulment of history? Can you still taste the splendour of the banquet and the skin of those women, can you hear echoing taunts of the demons from the nine circles of hell?”.

The mausoleum continues to persist like the moon. In a fit of decomposition, he heard the quiet crumbling four corners of history. He said to himself; there will eventually be a day; it’ll be your turn.

You asked yourself, what if in a dream you swallow an entire highway? Then what! As dawn came pulling his shoulders back into a yawn he saw his body stretched out thousands of miles, parts dead straight parts curving pieces crooked parts bumpy, elements vastly deserted abandoned, parts clambered with footsteps as those at an open fair. He felt these feet upon him; some tickled like the fondle of a bee, and some delicate or deliberate heavily laden with rocks. Now and then some advanced on their knees toward promotion. He laid bare, conceptualising small feet coming finding a home, like the first yearning encounter of love, but in waiting, they never came. Till it was way past noon, the tropical sun-scorched, he flipped over on all fours and writhed away, like a blind snake crawling through an expanding meadow of vast mountains, like the sound of a long sigh.

He’s a writer! Because of this absurd, laughable title, he had to replace all his hobbies, all those simple desires recently attained. He danced with every word each day. People look at him with empathy like a psychotherapist would at an ill-mind patient they’ve been treating for a length of time. Liken to keeping criminals in check; mass organisations appointed to watch any strange behaviour which may cause havoc for his community. He lived with endless long lost dreams without an escape. He conversed with each vision, in the death of the body he roamed ceaselessly inside each nightmare. Some nights, he swallowed a whole writer in his dreams!

In the morning, over coffee, he prattled along with his colleagues. Profoundly, he concisely explained compared every word and concept. Enthusiastically he discussed a writer they never met or an award-winning piece they never read. Excited, he exclaimed he’s a poet and philosopher. Gosh, he spoke in a moment inspired possessed, literature here are pens slaved to the institution!

Foaming at the corners of his mouth, he talked about the flow of a composition. Then he would head for home around noon. His child rushed to deliver an invitation from the city police department, “to be clear on the subject matter of your recent work”. At that moment, the pretentious writer spontaneously exited his body and disappeared, left him alone on the side of the road, like the victim of a loan shark. Tomorrow is the last day they’ll visit him. He said to himself: “Hey, a writer is a writer or a writer is not a writer? A writer that looks like a writer plus can a writer be that much dissimilar to another writer?”.

That night, he couldn’t sleep, he couldn’t stop thinking of the next day, of the uncertainties, of all the possible plots of cowardice and revenge drawn out in his imagination. Just before dawn, tired laden with worries he closed his eyes, he ingested the wind in a dream. Morning came, in a new light, gently, he rose and took flight. This wind the colour of white light, like his fateful struggle, took a turn over his familial home then stretched out into the mead, found a way to mount Chư Mang, animated, in delirium and enchanted madness.

On his front steps, the invitation “to be clear on the subject matter of your recent work” laid abandoned, to this day.

September 2018

Nhà văn nuốt

       Buổi sáng trên cao thường chậm chạp. Tiếng ve ngân trong cỏ cứ dài ra mãi, như một tia nắng ban mai xiên ngang vòm cây lá rộng. Gã nằm ngửa nhìn trời và nhai cỏ, vì gã là một con bò. Tối qua gã mơ thấy mình nuốt nguyên con bò sữa vào bụng, sáng nay, gã thấy mình là con bò mắt ướt đuôi dài vú sệ. Gã thấy cỏ thật thơm ngon, những ai chưa thử làm bò chắc chắn phải ghen tị với gã điều này. Không ai cảm nhận được một cách sâu sắc vị cỏ thơm ngon bằng những con bò. Hạnh phúc nhiều khi đơn giản thế thôi. Gã nhăn hàm răng bò tám chiếc đều đặn trung niên ra cười rồi uể oải đứng dậy vươn vai ngáp.

       Ò ò ọ…

       Bạn thắc mắc rằng, có phải đêm nằm mơ ăn phải con gì thì sáng dậy mình biến thành con đó hay không? Việc này gã không thể trả lời được, hãy đi hỏi các triết gia, các nhà văn nhà thơ xông xáo bịa chuyện ở ngoài kia. Gã chịu! Gã chỉ kể câu chuyện riêng tây của mình. Có đêm, gã mơ mình nuốt luôn cả hồ nước vào bụng. Trưa hôm sau, gã thấy mình là một hồ nước mênh mông. Tâm hồn gã trải rộng ra xanh biếc, lặng thinh soi bóng mây trời. Có chú bói cá tinh nghịch từ trời cao bất ngờ đâm bổ xuống. Cảm giác đau nhói ngay lỗ rốn, cả cơ thể xôn xao náo động gợn sóng lăn tăn. Bói cá lại bay đi không hẹn quay về, để lại vết thương ngay rốn nước phập phồng dưới ánh nắng chói chang.

       Gã muốn cất tiếng gọi, nhưng giọng gã bây giờ thầm thì nho nhỏ, như tiếng đuôi cá quẫy bọt long lanh, thổn thức giữa hoang vu. Hồ nước thì làm sao mà gọi được, cho dù vạn lần thương nhớ!

       Đời muôn vàn lẩn thẩn, gã ngao ngán nhìn lại những giấc mơ của mình, hạnh phúc thì ít mà chia ly rượt đuổi thì nhiều. Có khi mơ thấy vác dao chạy đuổi nhau trên vách núi chênh vênh, tỉnh dậy tim đập chân run. Có hôm, mơ giấc mơ quái quỷ. Đó là một đêm bia rượu say mèm, gã để nguyên cả áo quần nằm ngủ, và mơ. Trong mơ, gã nuốt vào bụng cùng một lúc ba thằng lãnh đạo! Sáng ra, gã bật dậy khỏi giường tắm rửa xịt keo nai nịt gọn gàng rồi khệnh khạng bước ra đường. Dáng đi khoan thai đường bệ, miệng mím chặt lại, mắt cương nghị nhìn xa, nhân từ không tả nổi.

       Gã đoán chừng ba thằng lãnh đạo trong cơn mơ tối qua đã thực sự nhập hồn. Gã ra trước quảng trường thành phố đứng, giơ tay cao quá đầu chào mọi người theo đúng mô típ lãnh đạo chào dân, miệng cười hiền hậu. Dòng người đi qua trước mặt giương mắt nhìn gã bằng những ánh mắt hoặc vô cảm, hoặc khinh bỉ, hoặc căm hờn. 

       Ô hay, sao thế nhỉ?

       Có khi gã ngồi im như một đống đất cát vô tri. Gã cố nhớ lại xem thử trong giấc mơ đêm qua mình đã nuốt phải thứ gì? Thứ gì mà đứng im lìm một chỗ, xung quanh cờ xí lập lòe? Thứ gì mà hơi lạnh toát ra như thịt xương phân hủy âm thầm ẩm mốc? Bạn có đoán ra được không? Gã à lên khi nghe mùi tử khí phảng phất quanh mình: Trong giấc mơ đêm qua, gã đã nuốt một cái lăng vào bụng! Bây giờ, gã đứng đó, vuông vức rêu phong, như một chứng nhân, như một thách thức. Bóng gã trải dài, đen sẫm oan khiên trên mặt cỏ mùa thu. Gã nói: “Này, ai kia đang nằm trong lăng ta đó, có nghe chăng lịch sử oán hờn phán xét? Có còn không mùi vị yến tiệc ngút ngàn và mùi thịt da cung tần mĩ nữ, có nghe tiếng quỷ thần hai vai rủa nguyền thảm khốc từ chín tầng địa ngục vọng lên không?”.

       Lăng vẫn kiên gan cùng tuế nguyệt. Gã nghe râm ran vôi vữa tứ bề vỡ vụn trong cơn phân hủy lặng lẽ mang tên lịch sử. Gã nói một mình, rồi cũng có ngày, sẽ đến lượt mày thôi…

       Bạn hỏi, vậy nếu nằm mơ nuốt trọn một con đường thì sẽ thế nào? Thế nào nữa! Sáng dậy gã sẽ vươn vai ngáp và thấy cơ thể mình trải dài ra vạn dặm, chỗ thẳng tắp chỗ cong queo chỗ khúc khuỷu chỗ gập gềnh, chỗ vắng lăng mênh mông, chỗ rầm rập bàn chân đi như mở hội. Gã cảm nhận những bàn chân giẫm lên mình, có bước chân nhẹ như ve vuốt, có bước chân nặng như đeo đá hoặc thoăn thoắt hoặc điệu đàng. Thỉnh thoảng cũng có những kẻ di chuyển bằng đầu gối trên đoạn đường tiến chức thăng quan. Gã, con đường ấy nằm ngửa ra, bâng khuâng đợi một bàn chân nhỏ tìm về, như lần đầu hò hẹn yêu thương, nhưng đợi mãi đợi mãi vẫn không thấy. Cho đến khi quá ngọ, mặt trời nhiệt đới thiêu đốt, gã trở mình quằn quại bò đi, như một con rắn mù bò giữa núi đồi trùng trùng điệp điệp, như một tiếng thở dài…

       Gã là nhà văn! Cái danh xưng nhếch nhác buồn cười ấy, gã phải đổi hết mọi đam mê, mọi ham muốn tầm thường mới có. Gã nhảy múa cùng các con chữ mỗi ngày. Thiên hạ nhìn gã bằng ánh mắt chan chứa cảm thông như bác sĩ tâm thần nhìn con bệnh mãn tính mà mình chăm sóc nâng niu. Các ban ngành đoàn thể cắt cử người theo dõi hành vi lạ lùng có lúc gây hiểm nguy cho cộng đồng của gã, như theo dõi một tội phạm. Gã sống với những giấc mơ dằng dặc viễn miên không lối thoát. Gã trò chuyện với từng giấc mơ, đi biền biệt vong thân trong từng giấc ngủ.  Có đêm, gã mơ thấy mình há miệng thật to và nuốt một nhà văn vào bụng!

       Sáng ra, gã ngồi cà phê phét lác với các đồng nghiệp. Gã phân tích so sánh từng chữ từng khái niệm một cách chặt chẽ, uyên thâm. Gã hăng hái tranh luận về một tác giả nào đấy mà mình chưa hề gặp hoặc về một tác phẩm vừa đoạt giải nào đấy mình chưa hề đọc. Cao hứng, gã xưng là thi sĩ kiêm triết gia. Mẹ kiếp, gã nói trong cơn hứng khởi thần nhập, văn chương xứ này toàn bọn bút nô!

       Gã nói mãi về các trào lưu sáng tác cho đến khi hai cục bọt mép bay lên như bong bóng xà phòng… Gã quay về nhà khi đã xế trưa. Con gã chạy ra đưa tờ giấy mời của công an thành phố, “để làm rõ những nội dung trong những bài viết gần đây”. Đến lúc đó, gã nhà văn phét lác lập tức chui ra và biến mất, bỏ lại một mình gã đứng bên thềm, như một con nợ vay nặng lãi, chỉ đến hạn ngày mai là giang hồ vác dao đến xử… Gã nói một mình: “Ô hay, nhà văn là nhà văn hay nhà văn không phải là nhà văn? Nhà văn giống nhà văn và nhà văn khác nhà văn đến vậy sao?”.

       Đêm đó, gã không ngủ được, gã nghĩ đến ngày mai, nghĩ đến những bất trắc, những mánh khóe trả thù hèn hạ nhất được vẽ ra trong tưởng tượng. Gần sáng, vừa chợp mắt trong mệt nhoài vì lo lắng, gã mơ thấy mình nuốt trôi một cơn gió. Sáng ra, mặt trời vừa nhô lên, gã nhẹ nhàng cất mình lên và bay. Cơn gió ấy màu sáng trắng, như thân phận nhọc nhằn của gã, lượn một vòng trên ngôi nhà thân thuộc rồi vươn dài ra ngoài thảo nguyên, tìm đường lên núi Chư Mang, rạo rực, hào sảng và mê mải điên cuồng.

       Trước thềm nhà gã, tờ giấy mời “để làm rõ nội dung những bài viết gần đây” vẫn còn nằm lăn lóc, cho đến tận bây giờ.


Nguyễn Văn Thiện
Born: 1975
Home town: Anh Sơn – Nghệ An
Master in Comparative Literature and Critical Theories
Currently a high school teacher, and a prolific writer.
Editor of Chư Yang Sin (Đắk Lắk) Art and Literary Journal.

Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.

a house without a door | Nguyễn Văn Thiện

Sydney Harbour, Australia. Photography by Nguyễn Thị Phương Trâm

A short story in Vietnamese by Nguyễn Văn Thiện
Translator: Nguyễn Thị Phương Trâm
Photography: Nguyễn Thị Phương Trâm
Published first on litviet.net

“I live in a house without a door.
On their back, each visitor lugs their door
In place, before we sit and talk, then,
take the door with them when they leave.”

Phan Nhiên Hạo



He is ignorant of why he’s locked in this room. His father said: “It is a result of the injustice of a shady history”. His mother said: “It is because your father chose this path!”.

Whom should he believe, his father or his mother? Life is congested with convoluted restrictions making it always-difficult. If you ask the bloke next door, his answer would be very different. But on his backside he has never left the L or S-shaped room much like tunnels in a catacomb, never to meet anyone let alone his neighbour. One followed the other, his parents died entombed beneath the house. He never once left: His home has no door!

Filtering light would enter through the air vents. The wind would circumvent through the chink of the roof. Sun, the wind was chastised, confiscated as soon as they fell through. The house is always in pitch-black darkness. Every week, through where the light falls long fingers shoved a selection of social activities. He said: “This world is diseased, everybody’s dead, there’s no one diligent left!”.

He knows nothing, not of an overwhelming colourful world full of life outside. His history is sketched out by the naivety and ignorance of his ancestors contrary to the history of humanity. During a noiseless lunch, like a caught wildcat, he growled in anguish at the thought of it:

“Who will visit me? Why is life so lonely!”

He repeats the verse over and over again 4,084 times, equating to four thousand and eighty-four years of history. A murky history full of bias but rather positive and dialectic. Evident outside his house, people habitually pass by. They stare at the monument and believe it’s a prison for some menacing power locked up for plotting against humanity. They like to enter and study how these prisoners live, but there’s no door!

“Why is life so lonely, who will visit me?”.

He screamed out the 4,085th time, and someone heard him.

I don’t know whether it’s a strange coincidence, but the first person who listened to his cry was a poet! The poet lying on green grass mourning a long lost love, his whole being crying out for the land and waters of his homeland being invaded day by day, concurrently, expresses firm and steadfast devotion for his beloved country.

Provincially, poets like these, there’s one at every corner, many, hence, in an afternoon alone, the poet having heard the ominous echo from the vacant four walls. He exclaimed:” Oh, who is reciting such stirring poetry? That definitively is a great poem: Who will visit me? Why is life so lonely! A beautiful verse!”.

What could one believe? Poets are people with the most aspirations of humanity; there’s no argument there. So, the very next day, that poet, he did something rather unexpected: On his back, he carried a door, gingerly, in pomp and ceremony, visiting the house, like some international diplomatic mission after an official invitation.

Him in the house beholding this cherished question; “Who will visit…”.

The sound of footsteps echoed through from outside, and a voice loudly answered: “I’m here to see you…”.

Exuberantly, he cried like a madman!

With the door he carried, veering to the eccentric, the poet manages to enter his home. And they converse like soulmates reuniting after half a lifetime apart, in animation, intoxication, excitement, full of passion. This talk, however, will forever be an enigma, because no one will ever hear of it. The four walls listened but understood nothing, the little bird with its nest in the roof also heard and understood naught. Till the dark of night, they parted, eyes nose running weeping.

The poet left the house and threw the door on the lawn, never to return. From then on no one saw him again on the greens composing poetry, some say, he’s gone to the sea to be a Dã Tràng Xe Cát, or perhaps it’s just nasty rumours.

The poet is gone, the door remains, red, paint peeling, rusting. The passerby stomps on it; kids run across it, sit, packs of dogs leaving their paw prints, lift their hind legs and peed. Now and then, someone would in ceremony lug the door on their shoulders, affix it to his home to enter. No one knows what he and his guests ever spoke of, in the end, as always concludes with no one ever returning a second time. This tale in itself belongs to the concealment of history.

Such concealment usually attracts a mass of curious opportunists. They lug all at once nine exact doors with the sole intention to liberate those oppressed and destitute inside.

Together all nine doors open, all the visitors enter. But he has been long dead!

He had died, always sitting on that chair. Inside the vacant house, his moans continue to echo, “Who will visit me? Why is life so lonely!”.

They saw the thick lines of words written in blood running across the walls, but no one is cognizant of its meaning. Other than that, are drawn skulls quivering behind a black cloak, not sure what it wants to say.

His house after that became a destination for tourists throughout the world. They left a sign outside his home with the inscription: “Here, a resilient unyielding poet fought violently till his last breath!”.

[September 2018]

Căn nhà không cửa

“Tôi sống trong một ngôi nhà không cửa
Mỗi người đến thăm phải mang theo cửa trên lưng
Lắp vào ngồi nói chuyện, xong
Khi từ biệt họ ra đi cùng với cửa”…

Phan Nhiên Hạo



Hắn không biết vì sao hắn lại mắc kẹt trong căn phòng này. Cha hắn bảo: “Đấy là sự bất công mù mờ của lịch sử”. Mẹ hắn lại bảo: “Đấy là do lựa chọn của cha mày!”.

Hắn không biết nên tin cha hay tin mẹ. Cuộc sống tù mù và rối rắm đến nỗi không biết phải tin ai. Nếu hỏi gã hàng xóm, chắc câu trả lời sẽ rất khác. Nhưng hắn chưa bao giờ gặp được hàng xóm hoặc người nào khác khi suốt ngày ngồi trong căn phòng hình chữ S hoặc chữ L gì đó, tương tự một căn hầm loằng ngoằng. lần lượt mẹ và cha qua đời đều được chôn xuống dưới nền nhà. Hắn chưa bao giờ thoát ra được khỏi nhà: Nhà hắn không hề có cửa!

Ánh sáng muốn lọt được vào nhà phải lọt qua các lỗ thông gió. Gió muốn lọt vào nhà phải đi vòng qua kẽ ngói. Ánh sáng, gió đã bị trừng phạt, bị thủ tiêu ngay khi lọt vào trong. Nhả tối om om. Mỗi tuần, hắn được một bàn tay dài ngoẵng nhét các thứ cần thiết cho sinh hoạt qua một cái lỗ mà ánh sáng thường đi qua. Hắn nói: “Thế giới này bị dịch hạch, chết hết rồi, không thấy đứa nào bén mảng!”.

Hắn không biết rằng, thế giới bên ngoài đang vô cùng rộn rã và tràn ngập sắc màu. Lịch sử của bản thân hắn được thiết kế bởi sự ngu dốt thật thà của các vị thân sinh nên đối lập hẳn với lịch sử loài người. Trong một buổi trưa yên tĩnh nào đó, hắn đã bực dọc nghĩ thế và sau đó thì hét to lên như một con hổ sa bẫy:

“Ai đến thăm tôi không? Sao đời hoang vắng quá!”.

Hắn lặp đi lặp lại câu nói đó 4.084 lần, tương đương bốn nghìn không trăm tám mươi tư năm lịch sử. Lịch sử có vẻ tù mù đầy thiên vị nhưng kỳ thực cũng khá khách quan và biện chứng. Bằng chứng là bên ngoài ngôi nhà hắn sống, thiên hạ vẫn thường xuyên qua lại. Người ta nhìn ngôi nhà bịt kín ấy và liên tưởng đến một nhà tù của các thế lực hắc ám âm mưu chống lại loài người. Người ta muốn vào trong để xem thử cuộc sống của tù nhân diễn ra thế nào, nhưng, không có cửa!

“Sao đời hoang vắng quá, Ai đến thăm tôi không?”.

Hắn nói câu nói đó đến lần thứ 4.085 thì có người nghe thấy…

Không biết có phải là một sự trùng hợp ngẫu nhiên kỳ lạ hay không, người đầu tiên nghe được câu nói của hắn là một nhà thơ! Nhà thơ ấy đang nằm trên bãi cỏ để khóc thương cho cuộc tình nào đó trong quá vãng, nhân thể khóc thương cho biển đảo quê hương đang bị xâm lấn từng ngày, nhân tiện, bày tỏ lòng kiên trung son sắt với đất nước thân yêu…

Ở xứ này, nhà thơ như thế, đi ngả nào cũng gặp, đông lắm, vậy nên, trong buổi chiều hoang vắng, nhà thơ nghe những tiếng âm u vọng ra từ ngôi nhà trơ trọi. Anh ta thốt lên: “Ồ, có ai đọc thơ ở trong này mà xao xuyến lạ? Đó đích thị là một câu thơ hay: Ai đến thăm tôi không? Sao đời hoang vắng quá! Cực hay!”.

Bạn có ý tưởng gì? Các nhà thơ là người có nhiều ý tưởng nhất trong thiên hạ, điều đó là không phải bàn cãi. Vậy nên, ngay ngày hôm sau, nhà thơ ấy, đã làm một việc khá bất ngờ: Ông ta mang theo một cánh cửa trên lưng, nhẹ nhàng, trịnh trọng đến thăm ngôi nhà ấy, như một chính khách quốc tế đến thăm quốc gia khác theo một lời mời ngoại giao chính thức.

Hắn ở trong nhà với câu thở than quen thuộc; “Ai đến thăm…”.

Tiếng lạch cạch bên ngoài vọng vào, và tiếng người dõng dạc trả lời: “Có tôi đến thăm anh…”.

Hắn mừng, cười rú lên như một gã khùng!

Bằng cánh cửa vác theo ấy, và theo một cách thức nào đó hơi kỳ quặc, nhà thơ đã vào được bên trong ngôi nhà. Và họ nói chuyện với nhau như một đôi tri kỷ nửa đời gặp lại, rạo rực, mê say, hoan hỉ, xót xa… Câu chuyện ấy mãi mãi là một bí mật, vì không ai nghe được. Bốn bức tường có nghe thấy nhưng không hiểu gì, chú chim sẻ làm tổ trên mái ngói cũng có nghe nhưng không hiểu gì. Đến tối mịt, họ chia tay nhau, nước mắt nước mũi ròng ròng…

Nhà thơ ra khỏi nhà và vứt cánh cửa lại trên bãi cỏ, mãi mãi không trở lại. Cũng từ đấy không còn ai nhìn thấy nhà thơ nằm trên bãi cỏ làm thơ nữa, nghe đâu, anh ta đi ra biển làm Dã Tràng xe cát, có lẽ cũng chỉ là đồn đại ác ý mà thôi…

Nhà thơ đi rồi, cánh cửa vẫn nằm đó, màu đỏ, tróc sơn, han rỉ. Có người đi qua dẫm lên, lũ trẻ chạy qua, ngồi lên, lũ chó đi qua, co chân đái lên. Thỉnh thoảng, cũng có một người nào đó trân trọng vác cánh cửa lên vai, kê vào ngôi nhà của hắn để vào trong. Không ai biết hắn và các vị khách đã nói gì với nhau, nhưng rồi, kết cục giống nhau là không ai trở lại thăm hắn lần thứ hai. Điều đó thuộc về bí mật của lịch sử.

Những điều bí mật thường kích thích trí tò mò của đám đông hiếu kỳ nhiều chuyện. Người ta vác đến một lần chín cánh cửa giống nhau với quyết tâm giải phóng cho con người đang đau khổ vì cô đơn trong đó.

Đồng loạt chín cánh cửa mở ra, các vị khách bước vào. Nhưng hắn đã chết từ lâu!

Hắn đã chết, vẫn ngồi ngay ngắn trên ghế. Trong căn nhà hoang vắng, tiếng than thở của hắn vẫn còn vang vọng, “Ai đến thăm tôi không? Sao đời hoang vắng quá!”.

Người ta thấy những dòng chữ bằng máu viết chi chít lên tường, nhưng không ai biết nội dung thể hiện điều gì. Ngoài ra, còn một số hình vẽ về những cái đầu lâu đang di chuyển phía sau một tấm áo choàng màu đen, cũng không hiểu là muốn nói điều gì.

Ngôi nhà hắn ở sau này trở thành một điểm tham quan của du khách trên toàn thế giới. Người ta đề bảng chỉ dẫn ở ngoài: “Nơi đây, một nhà thơ kiên cường bất khuất đã chống lại bạo tàn đến hơi thở cuối cùng!”./


Nguyễn Văn Thiện
Born: 1975
Home town: Anh Sơn – Nghệ An
Master in Comparative Literature and Critical Theories
Currently a high school teacher, and a prolific writer.
Editor of Chư Yang Sin (Đắk Lắk) Art and Literary Journal.

Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.

Alone | Nguyễn Văn Thiện

A short story in Vietnamese by Nguyễn Văn Thiện
Translator: Nguyễn Thị Phương Trâm 
Art: Đinh Trường Chinh


ALONE

Like everyone else, solo I came into the world. I arrived solo, and eventually, I will leave alone, you too, no one’s an exception. When you’re in a state of chaos, you forget, forget the origin and the infinite, your solitude. You fight loneliness with the value of your worth; splashing around to keep afloat above a billion people. Awake in the middle night, you are alone.

Life’s cruelty leaves one in a state of persistent terror of loneliness. Each day, I emerge inline in suburbia, in cafes or pubs with my friends. But always gruesomely possessed as though thick clouds blinded me, I saw no one, absolutely no one, just the sound of echoing laughter from some far-off fantastic place. I’m alone. 

The day shall come when I’m no longer in my youth; there will be termite in my eyelids. They will silently chew and suck on my flesh. Such issues guarantee complications: I would look at life through random potholes. The sky will always have falling snow, and people face no difference from separate coloured sheets of paper, holey. I have never disclosed this to anyone.

My belief is not that I am alone, but that many put up with these termites in their eyes. They’ll never speak of them, keeping such secrets close to their hearts. If disclosed, you’re medicated with complicated lengthy hospital and specialist visits, and with a promise of no better prognosis. Many lose their eyesight after treatment, and many end up blind; it’s an unfortunate fact!

I laughed out loud one quiet afternoon, as I listened to the district loudspeaker playing some song about unification. I say, apart is beautiful, it’s best to sit alone, you don’t have to entertain any dark intentions, listen alone to the termites squeaking, gnaw at the cells in your eyes.

No matter how lonely, you must be a good citizen to lead an upstanding life within the boundaries of society. Some are bound so tight it’s impossible to breathe. Others were a little looser but are so clumsy they habitually stumble.

I’ve no idea what he’s thinking but a neighbour opposite the other day hung a sign by the front of his gate: “Freedom for rent”. Of course, many turned up, but after the proprietor explained they saw that it was too involved and too complicated, they shook their heads and left. I queried, in frustration, he exclaimed: “They crave freedom but whine that the price is too steep, they all scream freedom, none of the cowards wants to pay!”.

I told another neighbour, a burglar about the “freedom for rent”, and he snorted: “That quack eats people alive, he evades tax, launders money like a pro, now he’s old and he’s still a hustler!”.

The strange story continued to haunt me. I decided to delve further, “freedom for rent” in its entity is to rent what, how much is too expensive. But my neighbour refused to give me a straight answer, he pressed on with if you have the means to pay, stop asking, stop being so nosy, and mind your own business.

Yesterday, my neighbour lost his life, but no one has yet rented his freedom. When they covered up his body, in the house, there was nothing in it but a pile of political books on how to deceive, to gain power, a complete collection from East to West. But on a positive note, he died alone! Leaning in to close his eyes, I whispered: “I’m prepared to rent your freedom at any price”. And of course, he couldn’t reply or nod in acceptance; there was just a twinkle in his eyes before they closed forever. From those eyes, a swarm of white ants in a swarm took to the sky, engulfing the entire city. I stood there, stunned, and watched them fly away, a haze of white flowers, the small cloud of them bloomed and expanded in a rush, covering everything. The world disappeared.

There was no other path, other than to wait, alone.

[August 2018]

Một mình

Bằng cách giống như tất cả mọi người, tôi đến với thế giới này một mình. Tôi đến một mình, và mai kia, tôi cũng đi một mình, bạn cũng thế, không có ai ngoại lệ. Khi bạn hòa vào đám đông hỗn loạn, bạn quên rằng, lúc đầu và mãi mãi, bạn chỉ có một mình thôi. Bạn chống lại trạng thái cô đơn bằng cách khẳng định giá trị của mình, và cố vùng vẫy để mình không bị chìm lút vào nhân loại đông đến hàng tỉ người. Vậy mà khi thức dậy giữa đêm khuya, bạn vẫn chỉ có một mình.

Có vẻ như cuộc sống quá bất công khi để con người trong trạng thái cô đơn tiềm tàng với nỗi sợ hãi thường trực. Mỗi ngày, tôi vẫn hòa vào dòng người tấp nập ngoài phố, trong quán cà phê hoặc quán nhậu với bạn bè. Nhưng với một nỗi ám ảnh ghê gớm như đám mây mờ kéo ngang trong mắt, tôi không thấy ai hết, hoàn toàn không có ai, những tiếng cười nói hò hét như thể vọng về từ cõi xa xăm nào không có thật. Tôi vẫn chỉ một mình.

Một ngày nào đó khi không còn trẻ nữa, tôi phát hiện ra trong mí mắt mình có những con mọt. Chúng lặng lẽ gặm nhấm các tế bào. Chuyện này dĩ nhiên sẽ gây ra một số rắc rối: Tôi nhìn đời bằng ánh mắt bị mọt gặm thủng lỗ chỗ. Bầu trời lúc nào cũng như có tuyết trắng đang rơi, còn mặt người thì không khác gì những tờ giấy đủ màu, thủng lỗ chỗ. Tôi không hề nói cho ai biết bí mật này, chỉ một mình tôi…

Tôi vẫn tin rằng, không chỉ riêng mình,còn có rất nhiều người khác có những con mọt gặm trong mắt. Họ cũng không nói ra mà khăng khăng giữ bí mật ấy cho riêng mình. Bởi nếu nói ra, bạn sẽ phải uống thuốc, sẽ phải điều trị dài ngày trong bệnh viện, mà kết quả thì không có gì hứa hẹn là sẽ tốt hơn. Rất nhiều người bị mù, sau khi điều trị thì chuyển sang đui, thật đấy!

Có những buổi chiều, ngồi bên thềm nghe loa phường cất vang bài hát gì đó về sự đoàn kết, tôi cười thầm một mình. Tôi thấy, một mình cũng hay, nếu không cần phải hiện thực hóa một âm mưu đen tối thì tốt nhất vẫn nên ngồi một mình, nghe tiếng mọt gặm tế bào trong mắt, kẽo kẹt, kẽo kẹt…

Dù cô đơn đến mấy, bạn vẫn phải sống như một con người với đầy đủ ý thức về bổn phận trách nhiệm và mớ dây chằng chịt vân vân ràng buộc xung quanh. Có người bị buộc chặt đến nỗi không thở được, có người bị buộc lỏng hơn một chút nhưng lóng ngóng vụng về nên thường xuyên vấp té.

Ông hàng xóm nhà đối diện không biết nghĩ ngợi thế nào mà ngày nọ treo cái biển to đùng trước cổng: “Cho thuê tự do”. Đương nhiên là rất nhiều người thấy lạ đến coi nhưng sau khi nghe ông chủ giải thích thì thấy rối rắm mù mịt nên lắc đầu bỏ đi hết lượt.

Tôi hỏi cơ sự,ông ta trầm ngâm giải thích: “Họ thèm tự do nhưng chê giá quá đắt đó thôi, ai cũng kêu gào tự do mà không dám trả giá, hèn lắm!”.

Tôi đem chuyện ông hàng xóm “cho thuê tự do” nói với một ông hàng xóm khác làm nghề ăn trộm, ông ấy bĩu môi cười khinh khỉnh rồi nói: “Cái lão ấy lẩn thẩn ăn người, một tay buôn lậu rửa tiền cực giỏi, giờ về già nhưng máu buôn bán phi pháp vẫn còn!”.

Câu chuyện lạ lùng khiến tôi thắc mắc mãi. Tôi lân la hỏi xem, “cho thuê tự do” cụ thể là cho thuê cái gì, giá bao nhiêu mà đắt. Nhưng lão hàng xóm không trả lời, nằng nặc bảo rằng, có nhu cầu thì bỏ tiền ra, không thì đừng hỏi lôi thôi chuyện nhà người khác.

Cho đến ngày hôm qua, ông hàng xóm ấy chết, vẫn chưa có khách hàng nào thuê tự do. Lúc khâm liệm, trong nhà không có gì ngoài một đống sách chính trị nói về các mánh khóe lừa lọc và cai trị, từ phương Đông đến phương Tây đủ cả. Điều đáng nói, lão chết một mình! Khi vuốt mắt cho lão ấy, tôi cúi xuống nói nhỏ: “Tôi sẵn sàng thuê tự do của ông với bất cứ giá nào”. Dĩ nhiên là lão ấy không thể trả lời hoặc gật đầu đồng ý, chỉ có đôi mắt như khẽ chớp sáng trước khi đóng lại vĩnh viễn. Từ trong đó, bầy mọt trắng vỗ cánh bay ra, mịt mờ khắp phố. Tôi đứng ngẩn ngơ trông theo, thấy lờ mờ trước mắt những bông hoa màu trắng, lúc đầu còn nhỏ, sau nở bung xòe, che kín mọi thứ. Thế giới biến mất.

Không hề có con đường nào khác nữa, tôi ngồi xuống chờ đợi, một mình. 

Nguyễn Văn Thiện
Born: 1975
Home town: Anh Sơn – Nghệ An
Master in Comparative Literature and Critical Theories
Currently a high school teacher, and a prolific writer.
Editor of Chư Yang Sin (Đắk Lắk) Art and Literary Journal.

Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.

A hand | Nguyễn Văn Thiện

A short thriller in Vietnamese by Nguyễn Văn Thiện
Translator: Nguyễn Thị Phương Trâm 

Lately it has been really weird. Each time I logged onto the computer, a hand from under the keyboard pleadingly blocked me from typing: Stop now, don’t, don’t write.

When I tried to type, the hand’s tone was firmer: you’re not listening, stop typing.

I would abandon the desktop computer for my tablet; still, the same hand from inside it pops out: Stop.

But if I stop here, then I will never be able to find out the origin of the hand. Whose hand had the goad to prevent, stop, begging, threatening, before anything was written, as though I was not there!

This morning, like any other morning, after logging on, I noted down a few random thoughts. Immediately, the hand popped out. I proceeded not to acknowledge it, pretending to be absorbed by what I just wrote, but really I was carefully studying it from the corner of my eyes. Gosh, the ghastly hand was hairy, not like any human hand!

As it turned out, there was a monster inside my computer? I turned it off immediately, and I took it to the computer repair shop. I tried my best to explain it as concisely and as straightforwardly as possible, but the computer technician had no idea what I was talking about. He snapped in the end. “So, basically there’s nothing wrong with the computer?”. I pleaded: “I just want  you to remove whatever it is from my computer, please!”. He took off his glasses, got off his chair, he lifted his arms in the air, rotating his shoulders deliberately and slowly in a long stretch sighing: “Tsk tsk, this guy is out of his mind…”. I knew he meant me, not that damn computer. Then he said: “Why don’t you take my computer home instead!”.

A new computer means fresh inspiration. I was excited with the possibility, ah, and of course more writing. But, as soon as the machine was turned on, the same hairy hand popped out, shaking its index finger. Its white hair was like optic fibres, if you look closely, you’ll see that it has a silvery shimmering hue, if you stare until your eyes are out of focus then it’s red like blood. Have you ever seen a hand like that?

I held my hand out to touch the soft fur, the hair was damp and cold as though it has been iced!

I tapped on the keyboard again, now its hand and my hands touched each other, our fingers were intertwined, caressing as though we were lovers. They tenderly spoke to each other, confiding in one another, they cleaned and trimmed each other’s nails, massaging each digit, exploring all of each other’s gaps and crevices, no different from those well renowned masseuses in town.

That resentful hand slips in and out as though it wanted to make love to my hand. As I came to this sudden realisation, the fear which was already there within me grew. Have you ever considered a lustful encounter with another hand? The thought of it makes me sick! Those fingers were openly caressing. They encouraged, made promises, tried to connect with my hands at all intimate levels, on the desk, in front of the computer.

Outside the earth and the sky, they were all in their rightful, peaceful place. The lush green leaves rustling in the gentle breeze. The clouds drifting, birds singing in the treetops. Thousands of things remain unchanged. In this particular ridiculous predicament, I was alone.

It felt as though something awful was about to happen: When all those hairy and or slippery smooth hands pop out to caress and hold onto each other, it means there’s a fall in self-worth as the result of my dark fate. I will never write again!

Out there the wind blew, clouds flew, birds sang and dogs barked, and I was here alone and confused. My pupils dilated, the characters on the screen becoming more and  blurry, they were fading – sea leojkư ặcặc belly button kongà.

Writer’s block was a common problem, and one of the symptoms of such a problem is self denial. These writers would walk around boasting about all the ideas they have but really they weren’t able to spit out a word sitting in front of their computer at home. They’re sure that, one day, their work will create an echo through the writing community, and one day they’ll get their Nobel Prize. My situation is a little different, the desire to write is there, but my hands are always busy doing other things other than writing!

Quiet, I took a sharp knife out of the kitchen drawer, I will chop off the hairy limb, and report it to the authorities; after that, whatever happens, happens. But by the time I arrived at the police station gate, it was gone. Annoyed, I threw away the knife, chucked the computer, and lay down on my back in the garden.

These days, I don’t know if there seem to be dark omens, monsters keep appearing, strange creatures everywhere.

It started with red tail vipers attacking some locals, then a sounder of feral swine goring eating people in another town. Rumours also of the sightings of elephants and cheetahs.

I wanted to write about what had happened, but now I’ve come to terms with these lustful hands each time I sit down and log on to the computer or put pen to paper! I was not sure how many dozens of laps of the backyard I did, not that it’s very big, back and forth as I stumbled over my footprints. Then there it was, an idea; I took a piece of charcoal with me to the middle of the courtyard, I sat down, I began to sketch, I practised how to relay a story without words.

I illustrated a bed of snakes slithering in a circle, in the centre, a wild pig with its jaw wide open, outside, an ambush of cheetahs baring their fangs. I also drew a human, the victim lying in the middle of the yard, all black and blue from the gnawing and poison. The Sun high illuminated all the animals and the human brightly. They moved, climbing atop each other, crawling away, taking steps, the human at the bottom dying, on the ground in a fit, mouth spitting blood and saliva, a hand reaching for the sky in a portrayal of injustice.

I’m an artist, a real potter, dripping in sweat, staring at my work. Where, where’s what I want to say? Not here. Only a nagging laden tale. I’ve accomplished nothing? I thought harder. That’s right, I’ll draw a hand, ah but no, that’s stupid, what if it would. I’m terrified of that hand! I illustrated a face instead, a gentle, happy, reflective, tolerant, generous, affectionate, steeped in love, meaning and bright etc. amidst a portrait of the agony of life, and see if that face will save us from all that pain.

When the human face appeared, immediately the snakes lowered themselves to the ground, quietly crawling away like May 5th. The wild pig lay prostrated as though severely maimed, the ambush of cheetahs’ ears drooped turned away. Aha, that’s how it should be, how life should be, there’s the truth, there’s the wisdom, goodwill shine, to brandish the evil, correct! I reward myself with a glass of cold water, reward a gifted storyteller who could still portray what he wants to say without the need of a keyboard nor pen. I drank the water as I waited for the natural laws of the universe. I waited forever, and the body still did not move. Hang on, wake up my friend, this life is very much worth living, evil won’t continue to torment. Wake up and look at those kind, generous eyes, there’s Buddha, there’s the almighty up high, Allah, stand up and live? But, the laws of the universe that I live and die by was useless. The dead body is still a dead body, laying bane-fully there, ignoring my pleads. I’ve failed as a writer. I hated that evil hairy hand. In the glaring high noon light, with a twinkle in his eye the beautiful face smiled. A sudden hatred overwhelmed me, there’s no point smiling when death is evident?  The more it sank in, the more I was filled with rage, I grabbed a cleaver and I logged on to the desktop. The hand popped out, the knife in one sharp movement, it severed and flopped around like a human hand. Die die!

Like a wife in a fit of jealousy cuts off her husband’s member, with relish, I picked up the severed hand and examined it still oozing blood. Out in the yard, there was a sudden scream like someone was impaled. I headed out (can you see the trouble I’m in!), saw the human face rolled up, in pain. Someone’s voice spoke amid the dry, hot day: “Give me back my hand!”. Who? Snakes and cheetahs can’t talk, there are only two people, one is dead, the other one smiling and screaming.

Alone I laughed under the midday sun, no one else in the house, disturbed by the laughter even clouds disappeared. I took the piece of charcoal, and drew once more a hand, beneath the human’s body, for that kind face, placing the hairy hand in the correct place. The hand belongs to him! Do you recognise it? I took a few steps back, stared. The face of God, Allah and Buddha glorious again, the revived hand-waved.

I abandoned writing altogether, not because I’m hindered by the hand. But because the secrets were exposed from the moment I lifted my cleaver.

Now without absolution believe in those compassionate, kind faces, even more, do not hate or resent those snakes and cheetahs. I’m suspicious now of the usual old tales.

Every day, I’m still in the front courtyard, hand holding a piece of charcoal, drawing redrawing, faces of monsters, faces of people, and the hands.

Bàn tay

Những ngày này, lạ lắm, hễ mỗi lúc mở máy tính ra viết thì y như rằng có một bàn tay nào đó từ dưới bàn phím thò ra chặn, níu tay mình lại: Thôi mà, đừng mà, đừng viết nữa mà… Tôi lì lợm gõ phím thì bàn tay đổi giọng: Nghe không, không viết nữa…

Tôi bỏ máy lấy quyển sổ nhỏ ra ghi, y như rằng, bàn tay ấy từ trong quyển sổ thò ra: Thôi mà, đừng viết nữa mà…

Nếu thật đúng thế thì thôi, tôi sẽ không biết nữa, chỉ giả vờ mở máy ra gõ mấy kí tự ngớ ngẩn thôi, để làm gì, bạn biết không? Tôi sẽ rình xem bàn tay ấy, là của ai! Ai, đứa nào dám ngăn, dám cản, dám năn nỉ, dám dọa dẫm, trong khi, không viết gì, coi như tôi đã chết rồi.

Sáng nay, như thường lệ, tôi mở máy tính ra, xòe mười ngón tay khởi động trên bàn phím. Lập tức, bàn tay ấy thò ra. Tôi giả vờ như còn bận ngó vào màn hình, không để ý, nhưng tập trung quan sát rất kỹ. Trời ơi, bàn tay đầy lông lá, không phải tay người!

Hóa ra, trong máy tính của tôi, có một con quái vật đang làm chuồng làm tổ? Tôi lập tức tắt máy, vác ra tiệm sửa. Cố gắng trình bày ngắn gọn, dễ hiểu nhất, nhưng chàng thợ sửa máy vẫn không tài nào hiểu được. Cậu ta gắt: “Tóm lại là ông muốn gì?”. Tôi khẩn khoản: “Đuổi nó ra ngoài dùm anh với?”. Cậu gỡ hẳn cặp kính cận, đứng dậy vươn vai: “Chà chà, ca này nặng lắm rồi đây…”. Tôi thừa hiểu, câu này nhằm vào tôi, không nhằm vào cái máy tính chết tiệt. Cuối cùng, cậu chủ tiệm nói: “Ông lấy máy tôi về dùng xem sao!”…

Máy mới, ý tưởng mới, tôi hăm hở, tôi hào hứng, à, phải rồi, mình sẽ viết, sẽ viết, viết nữa. Thế nhưng, vừa mở máy, bàn tay lông lá lại thò ra giật giật, lắc lắc. Lông nó màu trắng như cước, nhìn kỹ thì long lanh như bạc, nhìn mãi đến hoa mắt thì đỏ như máu. Bạn đã bao giờ thấy một cách tay như vậy chưa?

Tôi thò tay rờ rẫm vào lớp lông mịn màng, hơi lạnh tỏa ra như ướp đá, kinh!

Tôi không gõ bàn phím nữa, bây giờ tay nó và tay tôi rờ rẫm, xoắn xuýt, vuốt ve nhau như tình nhân mới bén. Chúng chuyện trò thủ thỉ, tâm sự, chúng gãi vào móng, nắn nắn các ngón, miết vão các kẽ hở, không khác gì bàn tay của những cô thợ mát xa nổi tiếng ngoài thành phố…

Cái bàn tay lông lá đáng ghét ấy, nó mơn trớn quá đà như thể muốn làm tình với tay tôi. Khi ý nghĩ này xuất hiện thì tôi bắt đầu thấy hoảng. Bạn đã bao giờ tưởng tượng, cuộc thông dâm của những bàn tay chưa? Nếu có, thì kể ra cũng khủng khiếp nhỉ! Những ngón tay ấy mơn trớn và khiêu khích một cách lộ liễu. Chúng giao hoan, chúng hứa hẹn và thề bồi, cam kết với nhau đủ thứ, trên bàn viết, trước máy tính, sáng nay…

Thế mà, ngoài kia, trời đất vẫn thanh bình. Những hàng cây rì rào trong gió. Mây bay trên trời và chim hót trên cây. Vạn vật vẫn không hề đổi thay. Chỉ có mỗi mình tôi là rơi vào chuyện trớ trêu.

Tôi nghĩ, điều khủng khiếp đang dần lộ diện: Khi những bàn tay lông lá hoặc trơn nhẫy đưa ra nắm lấy nhau và ve vuốt, tức là đã có một cuộc ngã giá trên chính thân phận đen đủi của mình. Như vậy, tôi sẽ không bao giờ còn viết lách gì được nữa!

Ngoài kia gió thổi mây bay chim kêu và chó sủa, còn tôi ngồi, mặt đần ra như đang bị thôi miên. Đồng tử giãn ra, những ký tự nhòe dần, thế là hết, biển leojkư ặcặc rốn kongà…

Tôi vẫn thường nghe nhắc đến triệu chứng mất chữ ở các nhà văn, tức là khi ngồi cà kê thì chém rất ác, rằng sẽ viết nọ viết kia, đang viết nọ viết kia, mà về nhà thì một chữ cũng không rặn nổi. Họ vẫn đinh ninh rằng, một ngày nào đó, tác phẩm của họ sẽ gây ra một tiếng vang, giật giải nọ giải kia, trong khi, hàng ngày, họ không hề viết. Trường hợp tôi hơi khác một chút, muốn viết nhưng tay đang bận!

Tôi lặng lẽ vào bếp, trở ra với con dao thật bén, tôi sẽ cắt phăng bàn tay lông lá, rồi mang lên phường trình báo, sau đó muốn ra sao thì ra. Nhưng lên đến nơi, lại không thấy nó. Bực mình, tôi vứt dao, bỏ máy, ra sân dạo.

Dạo này, không biết có phải là điềm báo đen tối hay không, quái vật xuất hiện, tác quái khắp nơi…

Đầu tiên là rắn lục đuôi đỏ xuất hiện dày đặc ở đâu đó và liên tục cắn người, sau đó là một con hay một bầy heo rừng xuất hiện ở đâu đó húc và cắn người. Nghe đồn là voi rừng và hổ báo ở đâu đó, cũng sắp xuất hiện ở đâu đó …

Tôi muốn viết lại những câu chuyện ấy, theo cách của tôi, nhưng bây giờ thì chịu rồi, mở máy hoặc giấy bút ra là lại phải ngồi chứng kiến tay nọ làm tình với tay kia! Tôi dạo quanh sân không biết mấy chục vòng, như một nhà hiền triết đang nghiền ngẫm. Mà mảnh sân nhà tôi, đâu phải rộng rãi gì, đi tới đi lui lại dẫm vết chân mình. Phải rồi, tìm cách khác. Tôi lấy một hòn than, ngồi vẽ giữa sân, tập kể lại một câu chuyện mà không cần có chữ nghĩa…

Tôi vẽ một bầy rắn bò ngoằn ngoèo giữa sân theo một vòng tròn, ở giữa là một con heo rừng đang há mõm lồng lộn, bên ngoài, một bầy hổ báo nhe nanh. Tôi vẽ thêm một con người, là nạn nhân của bọn ác thú, đang nằm giữa sân, đen thui vì trúng độc, vì bị cắn. 

Nắng lên cao, soi rọi bầy thú và người. Chúng lay động, vờn nhau, trườn đi, cất bước, người nằm dưới chừng như sắp mất mạng, lăn qua, lăn lại, miệng trào máu hay bọt mép, bàn tay chới với muốn níu lấy trời xanh để giãi bày oan khuất.

Tôi, như một nghệ sĩ đích thực, như một bác thợ gốm, nhễ nhại mồ hôi, đứng nhìn tác phẩm của mình. Đâu rồi, điều tôi muốn nói đâu rồi? Chưa thấy. Mới chỉ là một câu chuyện nặng về kể lể, tả thực. Không lẽ xưa nay tôi mới chỉ làm chừng đó thôi sao? Tôi căng óc tính toán. Phải rồi, tôi sẽ vẽ thêm một bàn tay, à mà thôi, ngu quá, lỡ ra nó lại… Tôi sợ tay lắm! Tôi vẽ một gương mặt, hiền từ, phúc hậu, trầm ngâm, bao dung, độ lượng, trìu mến, ánh nhìn thấm đẫm yêu thương, lại nghiêm nghị, sáng láng vân vân vào chính giữa bức tranh đau đớn của cuộc sống, xem thử nó, cái mặt ấy, có cứu rỗi nỗi đau không…

Gương mặt người xuất hiện, lập tức lũ rắn cúi sát người xuống đất, lặng lẽ bò đi như vừa đến mồng Năm. Chú heo rừng nằm phủ phục như bị trọng thương, bầy hổ báo cụp tai ngoảnh mặt không dám nhìn. A ha, phải thế chứ, cuộc sống đấy, chân lý đấy, minh triết đấy, cái thiện sẽ tỏa bóng lên, cảm hóa cái ác, phải không!

Tôi tự thưởng cho mình cốc nước lọc, tự thưởng cho người kể chuyện tài ba không cần bàn phím và cây bút vẫn nói được điều mình muốn nói. 

Tôi vừa uống nước vừa đợi chờ cái quy luật vận hành quen thuộc của vũ trụ. Nhưng đợi mãi, vẫn không thấy cái xác người cựa quậy. Ơ hay, dậy đi mày, cuộc sống này đáng sống lắm, cái ác không hoành hành mãi được đâu. Dậy mà nhìn vào cái ánh mắt đầy trìu mến bao dung kia kìa, Đức Phật đấy, Chúa Trời đấy, Thánh Ala đấy, dậy mà sống đi chứ?

Nhưng, cái quy luật mà tôi cố sống cố chết bám lấy mà tin ấy, lúc này không còn tác dụng nữa. Cái xác chết vẫn là cái xác chết, nằm chình ình ra đó, mặc cho tôi lay gọi, động viên. Có lẽ là tôi thất bại rồi, viết không được, vẽ cũng không xong. Tôi buồn, tôi chán tôi lắm lắm. Đứa bất tài vô dụng! Tôi thù oán cái bàn tay lông lá chết tiệt đã ngăn đã cấm đã vuốt ve tôi. Nếu không có nó, thì tôi vẫn đang điềm nhiên ngồi viết, chứ có đâu ra nông nỗi này. Trong nắng trưa chói lóa, gương mặt người phúc hậu rõ ràng là đang nheo mắt cười với tôi. Tự dưng, tôi ghét lây cái nheo cười giả dối ấy, cười thì làm được gì, khi mà người bị rắn cắn kia không sống lại được, hỡi người?

Càng nghĩ, càng uất, khí giận bừng bừng, tôi nhặt dao lên chạy vào ngồi trước máy tính. Vừa lúc tôi xòe tay thì bàn tay oan nghiệt kia lại thò ra. Tôi mạnh mẽ cắt phăng một nhát. Nó rời ra, lăn lóc, như tay người thật. Cho mày chết! Như một bà vợ cuồng ghen vừa cắt con giống của chồng, tôi hả hê nhặt bàn tay còn dính máu lên nhìn. Ngoài sân, bỗng có tiếng kêu thét như người bị đâm, bị chém. Tôi nhào trở ra (bạn thấy tôi khổ không!), thấy gương mặt người đang nhăn nhó, đau đớn. Tiếng ai nói rõ ràng giữa ngày nắng khô: “Trả tay tao đây!”. Ai? Rắn rết hổ báo không nói được, chỉ có hai người, một đã chết, một đang vừa cười vừa khóc. Hay là… 

À, phải thế chứ, mày nhé, hèn gì. Tôi cười một mình, thật to, giữa trưa nắng, nhà không có ai… Tiếng cười làm đám mây đang điềm tĩnh bay qua trên đầu giật mình bỏ chạy. Tôi lấy hòn than, vẽ thêm một cái tay nữa, vào dưới thân người, cho cái gương mặt ấy, xong rồi đặt cánh tay lông lá vào đúng chỗ của nó. Đến đây, thì bạn đã tưởng tượng được chưa? Bàn tay ấy là của người ấy! Không hình dung được phải không? Tôi lùi lại vài bước, đứng nhìn trân trối. Gương mặt của Chúa Trời và Thánh Ala và Đức Phật tươi trở lại, cái tay đáng ghét giơ lên vẫy chào…

Rồi tôi bỏ viết, bỏ hẳn, không phải vì bàn tay quái ác kia ngăn chặn. Từ lúc tôi vung dao lên, mọi thứ đã thay đổi, đã lộ diện những bí ẩn mà trước đó tôi chưa lường được.

Bây giờ thì tôi không còn đinh ninh tin tưởng những gương mặt nhân từ, càng không căm ghét bọn rắn lục và hổ báo. Tôi hoài nghi luôn câu chuyện mà tôi vẫn thường kể lể trước đây.

Hàng ngày, tôi vẫn quanh quẩn trước sân, tay cầm hòn than, vẽ đi vẽ lại, gương mặt của ác thú, gương mặt của người, và những bàn tay./


Nguyễn Văn Thiện
Born: 1975
Home town: Anh Sơn – Nghệ An
Master in Comparative Literature and Critical Theories
Currently a high school teacher, and a prolific writer.
Editor of Chư Yang Sin (Đắk Lắk) Art and Literary Journal.

Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.

A game of sinking to the bottom of the sea | Nguyễn Văn Thiện

A short story in Vietnamese by Nguyễn Văn Thiện
Translator: Nguyễn Thị Phương Trâm 

I’ve been trying to remove myself from this world, slowly, a small piece at a time. Attachments can be tiresome, talking, smiling, the acts of socialising — picking away like a bird plucking at its feathers, like a silkworm pulling at every strand of silk, beneath a looming gloomy grey horizon. Chư Mang is entering a season of torrential rain. I’m ready to let myself go, to sink to the bottom of the sea, to officially step into another fragile broken adventure of the heart. Where I may find myself with all its corners, and sharp edges, sorrow, joy, a complete story, not lost or displaced, officially mine alone!

I’ve often thought God was wrong when he created too many people, weak with the need to lean on others via the invisible fragile threads call tradition, and morality. There’s no true faith nor whole enough for all. I rather have myself as company, than a boat full of people. I like the idea of sinking to the bottom of the sea alone, then from there, looking up, watching life in waves roll by. But of course, it would be boring and lonely, and yes, I would ask a pretty fairy to come and play with me!

I know, hiding beneath my yellow skin and those like me are the boundless possible instabilities. Hence, after a short time edged in-game in the middle of the silence, I would rise to the surface to breathe, like a pathetic yellow tail fish. In those times bobbing up and down, I heard the earth stooped over in pain: The broken promises and jealousy, the lies and betrayal, cunning cowardice. I would sit quietly beneath the shade of a tree on the side of the mountain singing a trivialised song about the nation, its people fumbling noiselessly — my throat raw and burning like inside the barrel of a machine gun after a tirade of gunfire.

Everybody prods along, running, crawling, as though they’re afraid that if they were to stop, society would lose its magnificent radiance. I query in passing: “Hey, why don’t you try leaving the world just once by sinking to the bottom of the sea? Hey, why don’t you just lie down on the spine of the mountain and sing some meaningless songs and see?”. No one listens to me. They’re very busy! Some held out their hands to pull me up to join the rest of this happy, lively human race. Stop, I know, the creator is wrong.

Now and then, there had been a few volunteers sporting a game of falling into the sea with me, but only for a few weeks, before the moon was high enough in the sky, they were gone, quietly they would leave me. Some leave-in regret, some unsure if they’re happy or sad. I have always known, so I have no regret, in this game, you need to be persistent, take nothing for granted, not have too much fun, but also can’t just eat and do nothing either. I play alone, like a woodcutter who had lost his way in the jungle, solely in the deep dark leagues of the sea, I’m content and at peace.

But if we sink too deep into the sea, never knowing though, all might be ashes, forgotten, will never – amount – to – anything! Hence, now and then I would rise for a breath of air, laugh with the people I care about and others, and give back to love a kiss the shape of a spiral of Cổ Loa Citadel! This life, you can’t be forever far from it?

In the end, you’re just a small living thing busy juggling the two different worlds, far apart; such contradictions, torturous enough? Often we are like a migrating bird who is displaced from its flock at dusk or early morning fog, a fractured, broken call in the twist of a breeze. You swore to live and die to the full from here to the end of the world, with the will of an iron gut, till the river erodes and the sea dries up, till the rocks are yellow and grounds to dust. Now, all have flown away in a direction unknown without a hint of ever being. A strand of hair is left behind, serendipitously shiny beneath the eerie sunlight, like a flash at the equator splitting a road into two distinct halves.

You ask me, why does it have to be so absurd, why different from everyone else, why is that? One never knows! Life was already like that when I was born. A portrait of tragedy bound for hardship, a tattered map, in it, everyone wanted for themselves the part that makes sense. They all thought they make sense the most, the most useful, hence then who will accept what does not make sense? So okay I will volunteer to receive all that is worthless without meaning, take it all upon myself, so the world is in less disparity of light and load, and see if the world will be that much more balanced. All of humanity, all the celestial beings residing, all the thrones, monuments big and small, I will push them aside, so I can be alone; on the other side, see if the earth would stop rotating, knowing it may implode!

Though honestly there shouldn’t have to be so many words, I’m afraid when I’m gone humanity will misconstrue my ideas; they’ll make up some treacherous fantasy instead; hence I have to repeat it once more, then I’m done. This nation is drowning in a lie, a gold plated crystal-laden illustrious epic tale, why would you bother with falsifying more folklore, it’s only a matter of time, sooner or later (people will work it out). You can either continue to believe or not believe. As for me, I will continue to go on my search for a game of my choice. I shall let myself go, sinking to the bottom of the sea, to step into another fragile broken official adventure of the heart. Where, I may find myself with all its corners, and sharp edges, sorrow, joy, a complete story, not lost nor displaced, officially mine alone!

Hey, is there anyone out there interested in joining me for a while?

Chơi trò đánh đắm

Ta đang cố gắng gỡ mình ra khỏi thế giới này, từ từ, từng tí một. Tình trạng kết dính nhiều khi làm ta mệt mỏi, tiếng nói nụ cười chỉ là hình thức biểu hiện xã giao. Gỡ như chim gỡ lông, như tằm gỡ tơ, bằng cách ngồi nhìn bầu trời xám xịt. Chư Mang bắt đầu vào mùa mưa dầm dề. Ta lại chuẩn bị đánh chìm mình, để chính thức bước vào cuộc phiêu lưu mới trong thế giới nội tâm mong manh đứt đoạn. Ở đó, ta thực sự tìm thấy mình với đầy đủ góc cạnh, buồn vui, với đầy đủ câu chuyện, không mạch lạc, nhưng chính thức là của riêng mình!

Ta vẫn thường nghĩ rằng, chính thượng đế đã sai khi tạo ra loài người đông đúc yếu mềm và kết nối họ lại với nhau bằng những sợi dây vô hình có tên là tập quán, đạo đức. Không có một đức tin nào là đúng và đủ cho tất cả mọi người. Ta vẫn thích lang thang một mình hơn là phải ngồi chung một chuyến tàu đầy nhóc sinh mạng. Ta thích đánh chìm mình xuống đáy đại dương cô độc, rồi từ dưới đó, ngước cặp mắt nhìn lên, thấy cuộc đời nhốn nháo cuồn cuộn đi qua. Nhưng như thế thì dĩ nhiên buồn chán vì cô đơn quá, phải rồi, ta sẽ rủ một nàng tiên xinh đẹp chơi cùng!

Ta biết, dưới màu da vàng vọt của ta và đồng loại còn ẩn chứa nhiều điều bất ổn. Vậy nên, sau những thời khắc ít ỏi rong chơi giữa chốn lặng câm, ta lại phải ngoi lên thở, như một chú cá da vàng tội nghiệp. Những giờ phút ngoi lên ngụp xuống ấy, ta nghe thấy nỗi đau trần thế vây bủa xung quanh: Những hẹn hò ghen tức, những dối trá quanh co, những thủ đoạn đê hèn… Ta ngồi lặng dưới bóng cây bên sườn núi và hát một bài hát vô nghĩa về quê hương đất nước, về dân tộc đang đổ dốc không phanh phèng la vỡ trận… Nghe miệng mình bỏng rát như nòng súng vừa bắn liên thanh.

Mọi người vẫn nườm nượm đi, chạy, hoặc bò, làm như họ không vận động thì xã hội không thể tươi đẹp hoặc vĩ đại. Ta hỏi bâng quơ: “Này, sao không thử đánh chìm mình đi để rời xa thế giới này một lần? Này, sao không thử nằm xuống sườn núi này mà hát một bài hát vô nghĩa xem sao?”. Không ai nghe lời ta hết. Họ bận lắm! Cũng có người chìa bàn tay ra, hăm hở kéo ta đứng lên nhập cuộc cùng nhân loại đông vui. Không đâu, ta biết rồi, thượng đế đã sai lầm.

Thỉnh thoảng, cũng có người xung phong tham dự chơi trò đánh đắm chìm nổi phong sương với ta, nhưng chỉ được một vài tuần trăng là lại lặng lẽ bỏ đi. Có người bỏ đi trong nuối tiếc, có người ra đi không rõ buồn hay vui. Ta biết trước rồi, nên không hề tiếc nuối, cuộc chơi này, cần phải kiên trì, không vụ lợi, không ham vui ăn xổi ở thì. Ta chơi một mình, như một gã tiều phu lạc lối, một mình với đại ngàn thăm thẳm, mà vui…

Nhưng nếu chìm sâu quá dưới đáy đại dương, biết đâu rồi, tất cả sẽ cát bụi, sẽ lãng quên, sẽ không – là – gì – nữa! Vậy nên, lâu lâu ta lại ngoi lên hít thở khí trời, cười thân thiện với mọi người, và gửi lại cho yêu thương một nụ hôn hình xoắn ốc Loa Thành! Cuộc đời này, làm sao xa mãi được?

Cuối cùng thì ta cũng chỉ là một sinh linh nhỏ bé bận bịu đi về giữa hai thế giới cách xa nhau, khác xa nhau, vậy đã mâu thuẫn chưa, đã đọa đày chưa? Nhiều khi ta ngỡ mình là con vạc lạc bầy bay đi trong ráng chiều hay sương sớm, với tiếng kêu vỡ vụn rơi theo gió nghiêng nghiêng. Người đã thề sống thề chết rằng chân trời góc bể, rằng tạc dạ sắt đồng, rằng sông mòn biển cạn, rằng đá vàng ghi tạc… bây giờ cũng đã vỗ cánh bay đi về hướng nào đó không còn thấy tăm hơi. Một sợi lông còn sót lại, tình cờ lóe sáng lên dưới ánh mặt trời xa lạ, như một tia chớp nhiệt đới rạch đôi con đường thành hai nửa khác xa nhau…

Bạn hỏi ta, sao phải vô lý thế, sao phải khác người thế, sao thế? Ta có biết được đâu! Ta sinh ra đã thấy cuộc sống như vậy rồi. Một bức tranh điêu tàn khổ sở, một tấm bản đồ rách nát, trong đó, ai cũng giành cho được về phía phần có lý. Ai cũng nghĩ mình có lý nhất, hợp lý nhất, vậy ai chấp nhận phi lý đây? Thôi ta xin nhận hết những điều vô nghĩa lý vậy, nhận hết về mình cho thế giới này bớt chông chênh nặng nhẹ, xem cuộc sống có cân bằng hơn chút nào không. Tất cả thế nhân xuôi ngược, tất cả thánh thần ngự trị, tất cả tượng đài lớn nhỏ mưu mô, kéo nhau về hết một bên đi, ta một mình chọn phía bên này, xem trái đất có ngừng quay không, có sụp đổ không!

Lẽ ra thì không nên nhiều lời đến vậy, nhưng ta sợ khi ta đi rồi nhân loại hiểu nhầm ta, rồi bịa ra những huyền thoại ẩm ương giả dối, nên đành nói thêm lần nữa, rồi thôi. Đất nước này ngập chìm trong những câu chuyện vàng mã trang kim giả dối vĩ đại quang vinh, đừng bịa thêm một truyền thuyết nào nữa hết, đừng dựng thêm một tượng đài nào nữa hết. Tất cả những tráng lệ nguy nga xương máu ấy sẽ sụp đổ tan tành vào một ngày nào đó, chỉ là sớm hay muộn mà thôi. Bạn cứ việc tin hoặc không tin. Còn ta, ta còn mải chạy theo cuộc chơi mình lựa chọn. Trưa nay, khi mặt trời đứng bóng, đám mây lơ đãng bay qua, ta lại bắt đầu chơi. Ta lại đánh đắm mình, để chính thức bước vào cuộc phiêu lưu mới trong thế giới nội tâm mong manh đứt đoạn. Ở đó, ta thực sự tìm thấy mình với đầy đủ góc cạnh, buồn vui, với đầy đủ câu chuyện, không mạch lạc, nhưng chính thức là của riêng mình!

Này, có ai chơi cùng ta một lúc không?


Nguyễn Văn Thiện
Born: 1975
Home town: Anh Sơn – Nghệ An
Master in Comparative Literature and Critical Theories
Currently a high school teacher, and a prolific writer.
Editor of Chư Yang Sin (Đắk Lắk) Art and Literary Journal.

Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet and translator, born 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.

a dream in red | Nguyễn Văn Thiện

A short story in Vietnamese by Nguyễn Văn Thiện
Translator: Nguyễn Thị Phương Trâm 

I live under a red sky. The birds perched on red branches, the songs were red, the poems were red. What had dyed us red? No idea! My mother said: It’s blood!

It slipped my mind, it had also slipped your mind, we all thought the trees were green, and the clouds were supposed to be white. Wrong, everything was a blazing red colour. Our sense of sight had tricked us.

My younger brother called me last night, he was screaming: “Bro, it’s after me, I’m scared!”. I said: “Calm down, what does it look like!”. “Not sure if it’s a man or a woman, but it’s red, it’s definitely red!”. O god, my baby brother was having a nightmare! He kept having these dreams where some kind of red entity was chasing after him. There’s no way to stop it, these bizarre dreams? “He told my parents, but no one believed him, they said he was suffering from some kind of mental breakdown!” – He’s always anxious, before falling into an exhausting sleep.

I’m retelling a story about colour, like an artist painting a portrait in red. Don’t just rush into any kind of rash conclusion; it would be deplorable if it’s this or that!

You’re allowed to wear dark glasses and howl: “Mother …, what is this inky darkness!”. Poor people were allowed to line up to receive their portion of rice and at the same time look up at the fireworks to proclaim gleefully like a child: “Wow, life is beautiful!”

Everything unravelled, just like that.

Mother messaged just then: “Your brother just woke up, mumbling blood, blood…”.

I don’t know what I was thinking, but I bought my brother a pair of dark glasses anyway. But my mother rang one day and said, we don’t need them anymore. I’ve sent him to the monastery. Hopefully, learning about Buddhism may help with his delusions. I thought, how comforting! But the next day, my brother called, crying and rattling on and on about all sorts of stuff. He said: “That old man of the cloth, he’s not a monk, he’s not a saint, all day he taps on a gong and meditates. He’s old, he’s ancient, and his body is crusty with sores, and he makes me scratch them all the time, always complaining, don’t scratch there it’s sensitive. I said it’s sensitive everywhere, how should I scratch you? Instead of replying, he punched me right in the mouth…”

My brother won’t be coming home for the new year this new year. He said over the phone; I have to stay back to wash the monk’s clothes. “His clothes were red, not sure what was used to dye them but the water was still red after several washings, it makes me gag every time, but I have to wash them!”. I said, just come back to the farm, we’re a family, brother, together we can figure out anything. If we have veggies we’ll eat veggies if we have congee we’ll eat congee. He didn’t answer, but instead he sang an old song about the colour red.

I called my mother and repeated the entire incident. My mother was quiet for a while, before she said quietly: “Son, what are you talking about, you’re scaring me! Your brother is dead!” Gosh, then who have I been talking to every night on the phone? Who?.

Mother said: “Oh, they call me more than half a dozen times every night, but I never picked up, so I don’t know who they are!”. “When he passed away, why didn’t you tell me, mother?”. “No, well, you’re so far away, that’s why I didn’t call you!”. I dropped the receiver. I was very upset with my mother. Though lately there’s been many strange occurrences. Over the phone, my mother’s voice sizzled like amber coal burning in the middle of winter. It was a long time since I had made the trip home. The red clay path was scattered with red banners, the people in the village were getting ready to welcome the new Lunar year. My childhood was full of time blowing up tiny balloons, and setting them free each new year; they were also red.

Some kind of god was deliberately dyeing all of us red. Living for a long time amongst such bright glaring colours, I adapted! Each new year, I would sit in the middle of the backyard in front of a bucket of red blood, watching the blood spurt freely from a pig’s throat. Father stood in the middle of the house feet wide apart, slurping up the congeal blood, laughing ha-ha: “Eat son, only once a year we get to eat blood, eat son, eat, drink it all up!”. We grew up with these illusions, the contentment, the bright red aspirations.

A dozen calls every night, has that ever happened to you? Scary right! The phone flickered like ghosts in the dark, half of me wanted to listen; the other half did not. But in the end, I would always answer it. It was a familiar voice, not my mother’s, nor was it my brother’s voice on the other end. He sounded grouchy and irritated, “It’s me, the old guy who wears the red robe, every time it’s washed it would be dripping in blood, well?”. Aha, so it’s the monk! He said: “Lucky for your brother, your mother sent him to me so that I can educate him. But, he was a slow student, he detests the colour red and endlessly he complained about how much I smelt! Reverend sir, you smell reverend sir! – How dare he, your brother was a rude brat!”.

It stopped me from answering the phone in the nights after that. I turned my phone off completely, but it would never work out. I missed my mother, I missed my little brother. The new year was almost here. This Lunar New Year will be cold, and my mother will feel the ache in her bones. What was red dancing on the ceiling, like a pair of eyes from spotted fever? What was red running across the wall, like the red flowers that bloom every Lunar New Year? I couldn’t sleep. When did my brother die? Who was this monk, why was he calling all the time in the middle of the night?

I packed my bags for the village. More than half of this country “packs their bags for the village” each coming Lunar New Year, I was not alone! More than half of this country was exiled, I was not alone! My house was in the middle of the slope of a red dirt hill. Father looked at me, his eyes were like red amber coal glowing in the dark, he was quiet, he turned his gaze Westward as soon as our eyes met, he lifted his arm, pointing his index finger toward the setting sun. There was not just one grave but rows and sows of freshly dug graves, rising and falling like freshly scalped heads, a bloody mess. There was a pile of logs, not sure who kindled it, its flames moodily spat smoke. Was I having some kind of nervous breakdown, everything felt unreal! There has never been any monk, there was no phone, no messages or nightly phone calls? Nothing was real, it has all been an illusion, the evil in all that red has tricked me.

That foul evil had tortured my little brother, now it’s torturing me: There was a giant not sure if it’s a man or a woman, but all I know honestly and for sure was this red entity was now always chasing me. I ran into a freshly dug red tunnel, across a red road; it went on and on forever. My family was running away just in front of me, while just behind me was this glaring intoxicated red entity chasing us. As it ran, it screamed angrily: “You’re all very difficult students, you hate red you say I smell, I’m coming for you, you ungrateful brats…”.

I will continue to run away, day in and day out, through every town, every cross road, through every nightmare, every terror, until I all my strength is spent, then I’ll stop! 

May 2019

Giấc mơ màu đỏ

Tôi đang sống trong một bầu trời màu đỏ. Con chim trên cành màu đỏ, con cá dưới sông màu đỏ, bài hát màu đỏ, câu thơ màu đỏ. Cái gì đã nhuộm đỏ chúng tôi? Không biết! Mẹ nói: Máu

Tôi đã quen rồi, bạn cũng quen rồi, lâu nay cứ tưởng cây cối màu xanh, đám mây màu trắng… Sai, toàn màu đỏ loét. Chúng ta đang bị thị giác đánh lừa…

Đêm qua, em gọi điện cho tôi, hét thật lớn: “Anh ơi, nó đang đổi theo em, em sợ lắm!”. Tôi nói: “Bình tĩnh đi, trông nó thế nào!”. “Không rõ là đàn ông hay đàn bà, nhưng nó màu đỏ, chắc chắn!”. Trời đất ơi, giấc mơ kinh khủng của em tôi! Nó luôn mơ thấy màu đỏ săn đuổi. Không còn cách nào ngăn chặn nó ư, cái giấc mơ kì quái ấy? “Em kể với cha và mẹ, nhưng không ai tin, họ bảo em bị loạn não!” – Nó thổn thức, trước khi chìm vào giấc ngủ mỏi mệt…

Tôi đang kể lại câu chuyện về màu sắc, như một họa sĩ đang vẽ một bức tranh màu đỏ. Đừng vội quy kết sang vấn đề quan điểm nọ kia. Tôi khinh!

Bạn có quyền đeo kính màu đen vào và hét toáng lên rằng: “Mẹ kiếp, trời đất gì mà tối đen như mực!”. Những người dân nghèo có quyền xếp hàng nhận gạo cứu đói vừa ngẩng đầu ngó pháo hoa trên trời và reo lên như trẻ nhỏ: “Ồ, đời đẹp quá!”.

Vậy thôi.

Mẹ vừa nhắn tin nói: “Em mày vừa tỉnh lại, miệng đang lảm nhảm, máu, máu”…

Không biết nghĩ ngợi thế nào, tôi mua và gửi cho em chiếc kính đen. Nhưng mẹ gọi điện bảo, không cần nữa đâu, mẹ gửi em vào chùa rồi. Hi vọng Phật pháp sẽ làm cho óc nó bớt hoang tưởng. Tôi nghĩ, thế cũng ổn! Nhưng chỉ hôm sau, đã thấy em gọi điện, khóc và kể đủ thứ chuyện. Em kể: “Cái lão trụ trì ấy, sư không ra sư, thánh không ra thánh, suốt ngày niệm chú gõ mõ. Lão già rồi, già lắm rồi, mình lại đây mụn ghẻ, thường xuyên bắt em gãi, nhưng lại luôn mồm mắng em, rằng, mày đừng gãi vào chỗ nhạy cảm. Em hỏi lão rằng chỗ nào cũng nhạy cảm thì làm sao mà gãi? Lão chẳng nói chẳng rằng đấm thẳng vào miệng em…”.

Thế là tết nay em không về. Em nói qua điện thoại rằng, em phải ở lại giặt áo cho lão ấy. “Áo lão ấy màu đỏ, không biết nhuộm cái gì mà giặt ra đỏ cả mấy thau nước, em vừa giặt vừa nôn!”. Tôi nói, thôi về quê, có anh có em, có rau ăn rau có cháo ăn cháo. Em không trả lời, mà hát câu hát gì đó màu đỏ tận đâu đâu…

Tôi lại gọi cho mẹ, mách chuyện của em. Mẹ lặng đi hồi lâu, rồi mới nói: “Con ơi, đừng làm mẹ sợ! Em con chết rồi mà!”. Trời ơi, thế tôi vẫn thường nói chuyện với ai trong điện thoại mỗi đêm? Ai?”.

Mẹ nói: “Chô cha, chúng nó gọi cho tao hàng chục cuộc mỗi đêm, mà tao không nghe máy nên chả biết là đứa nào!”. “Em mất khi nào, sao không báo cho con?”. “Thôi, tại mày ở xa quá, tao không báo!”. Tôi tắt rụp điện thoại. Giận mẹ vô cùng. Mà dạo này nhiều chuyện kỳ lạ. Qua điện thoại, tôi nghe thấy giọng mẹ màu đỏ, cháy xèo xèo như than củi mùa đông. Từ lâu lắm tôi không về nơi ấy. Con đường đất đỏ đầy băng rôn biểu ngữ màu đỏ mỗi dịp tết về. Tuổi thơ tôi, mỗi dịp tết mới được tận miệng thổi vào một chiếc bóng bay bé xíu, cũng màu đỏ nốt.

Hình như có một vị thánh nhân nào đó đang có âm mưu nhuộm đỏ chúng tôi. Sống lâu trong màu sắc chói lòa, tôi quen rồi! Tết, với tôi là chậu tiết canh màu đỏ, chảy đầm đìa từ cuống họng chú lợn nằm ngửa giữa sân. Cha đứng dạng chân giữa nhà, húp bát tiết canh, cười ha hả: “Ăn đi con, mỗi năm nhà ta mới được ăn tiết canh một lần thôi, ăn đi, uống đi!”. Chúng tôi lớn lên trong những ước mơ, hoan hỉ, hi vọng dạt dào máu đỏ…

Hàng chục cuộc gọi mỗi đêm, đã có có ai bị như vậy chưa? Ghê lắm! Điện thoại lập lòe như ma trơi, nửa muốn nghe, nửa muốn không. Cuối cùng, tôi mở máy. Giọng lạ, không phải của mẹ, cũng không phải của em. Hắn gầm gừ: “Tao đây, lão già mặc áo màu đỏ, mỗi lần giặt là nước đỏ ngầu mà máu đây, mày nhớ chứ?”. À, thì ra là lão thầy chùa! Lão nói: “Phúc cho đứa em mày, mẹ mày gửi nó cho tao, để tao nâng đỡ dìu dắt. Nhưng, đó là một thằng khó bảo, ghét màu đỏ và luôn mồm chê tao hôi! Thầy ơi, thầy hôi quá! – Nó dám bảo tao như vậy đấy, láo không?”.

Tôi không còn dám mở điện thoại mỗi đêm nữa. Tắt nguồn để ngủ, thế mà cũng không được. Tôi nhớ mẹ, nhớ em. Tết sắp đến rồi. Tết năm nay lạnh, mẹ lại hay đau ốm. Cái gì màu đỏ nhảy nhót trên trần nhà, như những cặp mắt sốt phát ban. Cái gì màu đỏ chạy dọc bên vách, như những bông hoa màu đỏ vẫn nở vào mỗi tết. Tôi không ngủ được. Em mất khi nào? Lão thầy chùa ấy là ai mà lại gọi cho tôi vào những giờ khuya khoắt? 

Tôi khăn gói về quê. Hơn nửa nước này “khăn gói về quê” mỗi khi tết đến, chứ riêng gì tôi đâu! Hơn nửa nước này tha hương chứ riêng gì tôi đâu! Nhà tôi, nằm bên vách đồi đất đỏ. Cha nhìn tôi, mắt như than hồng buổi tối, không nói gì, chỉ tay về hướng Tây. Tôi đi theo hướng ấy. Mộ của em tôi ngoài đó. Đất vẫn còn mới, tung tóe như máu. Không phải một nấm mồ mà là hàng dãy, mới tinh, nhấp nhô như những cái đầu vừa lột da tóe máu. Đống củi, không biết ai đốt, đang âm ỉ khói. Hóa ra là bể dâu, thì ra là ảo giác! Làm gì có sư, làm gì có điện thoại, tin nhắn nào hàng đêm? Tất cả mọi thứ đã bị đánh tráo, bị đảo lộn, bị phù phép bởi màu đỏ quái ác.

Giấc mơ quái ác từng hành hạ em, bây giờ hành hạ tôi: Có một gã khổng lồ không rõ là trai hay gái, nhưng đích thực là màu đỏ, thường xuyên đuổi sau lưng tôi. Tôi chạy vào đường hầm đất đỏ mới đào, hun hút. Phía trước, những người thân đang chạy, phía sau,  màu đỏ chói mắt đang hùng hổ đuổi theo. Vừa chạy, vừa chửi rủa: “Chúng mày là một lũ khó bảo, ghét màu đỏ và luôn mồm chê tao hôi, chúng mày liệu đấy…”.

Tôi vẫn chạy, mỗi ngày, mỗi đêm, mỗi tỉnh, mỗi mơ, cho đến khi nào không còn đủ sức nữa, mới thôi!


Nguyễn Văn Thiện
Born: 1975
Home town: Anh Sơn – Nghệ An
Master in Comparative Literature and Critical Theories
Currently a high school teacher, and a prolific writer.
Editor of Chư Yang Sin (Đắk Lắk) Art and Literary Journal.

Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.