pointless | Bùi Chát

poem by Bùi Chát
translation by Nguyễn Thị Phương Trâm

“Whoever uses the spirit that is in him creatively is an artist.
To make living itself an art, that is the goal.”

― Henry Miller, Big Sur and the Oranges of Hieronymus Bosch

the end is inevitable
don’t you want to go out with a bang?
try not to bored people to death

the same drama over and over again
a bunch of amateurs
inept actors always in the wrong role
saying the wrong lines

why the same sad tragedy?
do you think your audience are fools?
or no one has enough courage to write something new?

the end is inevitable
so choose the best way to go
dragging it out is pointless
to the sacrifice of so many patron!

Vô ích


Sau trước gì cũng xong
Phải chăng chọn một cái kết phù hợp?
Đừng để người xem nhìn nhau ngán ngẩm

Một vở kịch diễn đi diễn lại
Mà diễn viên toàn người nghiệp dư
Lần nào cũng không đúng vai
Lúc nào cũng sai lời thoại

Sao để mọi người xem mãi vở kịch tồi tệ?
Tụi bay nghĩ chẳng người nào hiểu kịch?
Hoặc không còn ai dám dựng vở mới?

Sau trước gì cũng xong
Hãy chọn một kết thúc hợp lý
Kéo dài chi vô ích
Mất hết khách bi chừ!


Bùi Chát is the poet, writer, publisher and artist’s pen name. Bùi Quang Viễn was born on October 22, 1979, at Hố Nai, Biên Hòa, Đồng Nai Province, Việt Nam. Born to family of patriotic Catholic refugees from the North in 1954.

Graduated in 2001 from the Faculty of Literature, Linguistics, and Journalism of Hồ Chí Minh City University of Social Sciences and Humanities. Bùi Chát named and cofounded Nhóm Mở Miệng (Open Mouth Group) with the poet and writer Lý Đợi, promoting Graveyard & Garbage Poetry.

Nhà Xuất bản Giấy Vụn (Scrap Paper Publishing House), also founded by Bùi Chát, distributions of xerographically structured sensitive works by “pavement poets”. In 2004, Bùi Chát and cofounder Lý Đợi were detained for two days for distributing flyers at a poetry reading raided by the authority. In 2005, the culture department blocked their performance at the Goethe Institute in Hà Nội.

In 2011, Bùi Chát was awarded the IPA Freedom to Publish Prize “for his exemplary courage in upholding the freedom to publish.” He was arrested on his return to Việt Nam after receiving the award in Buenos Aires and detained for several days.

Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.

Mother | Bùi Chát

Khai mạc 'Đang trôi'. Art by Bùi Chát. Photo by Trà Cù Lủ

poem by Bùi Chát
translation by Nguyễn Thị Phương Trâm

Definitely not a river, a grain of rice,
Nation or memory at all

Nor anything truly terrible ever

Mother

That fucker

Has a husband and lots of children

A fact that will never change

Mẹ


Hẳn nhiên không phải dòng sông, hạt gạo,
Quê hương hay kí ức gì cả

Cũng chưa bao giờ là gì đó thực sự tệ hại

Mẹ

Là mẹ

Có chồng và thiệt nhiều con

Đấy là điều luôn được biết đến

(Chúng ta đang trôi đi đâu?! – Nxb Đà Nẵng 2025)


Bùi Chát is the poet, writer, publisher and artist’s pen name. Bùi Quang Viễn was born on October 22, 1979, at Hố Nai, Biên Hòa, Đồng Nai Province, Việt Nam. Born to family of patriotic Catholic refugees from the North in 1954.

Graduated in 2001 from the Faculty of Literature, Linguistics, and Journalism of Hồ Chí Minh City University of Social Sciences and Humanities. Bùi Chát named and cofounded Nhóm Mở Miệng (Open Mouth Group) with the poet and writer Lý Đợi, promoting Graveyard & Garbage Poetry.

Nhà Xuất bản Giấy Vụn (Scrap Paper Publishing House), also founded by Bùi Chát, distributions of xerographically structured sensitive works by “pavement poets”. In 2004, Bùi Chát and cofounder Lý Đợi were detained for two days for distributing flyers at a poetry reading raided by the authority. In 2005, the culture department blocked their performance at the Goethe Institute in Hà Nội.

In 2011, Bùi Chát was awarded the IPA Freedom to Publish Prize “for his exemplary courage in upholding the freedom to publish.” He was arrested on his return to Việt Nam after receiving the award in Buenos Aires and detained for several days.

Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.

An Oxymoron | Bùi Chát

poem by Bùi Chát
translation by Nguyễn Thị Phương Trâm

1.
I am a witness to many deaths
Sad. Pitiful
Horrifying, to the point where…

Death is something no one dare


2.
I am a witness to many deaths
Sad
Pitiful
Horrifying
to the point where…

Living is something no one dare

Nghịch lí


1.
Tôi đã chứng kiến nhiều cái chết
Buồn. Thê thảm
Kinh hoàng, đến nỗi…

Không còn ai dám chết


2.
Tôi đã chứng kiến nhiều cái chết
Buồn
Thê thảm
Kinh hoàng
đến mức…

Không còn ai dám sống

(Chúng ta đang trôi đi đâu?! – Nxb Đà Nẵng 2025)


Bùi Chát is the poet, writer, publisher and artist’s pen name. Bùi Quang Viễn was born on October 22, 1979, at Hố Nai, Biên Hòa, Đồng Nai Province, Việt Nam. Born to family of patriotic Catholic refugees from the North in 1954.

Graduated in 2001 from the Faculty of Literature, Linguistics, and Journalism of Hồ Chí Minh City University of Social Sciences and Humanities. Bùi Chát named and cofounded Nhóm Mở Miệng (Open Mouth Group) with the poet and writer Lý Đợi, promoting Graveyard & Garbage Poetry.

Nhà Xuất bản Giấy Vụn (Scrap Paper Publishing House), also founded by Bùi Chát, distributions of xerographically structured sensitive works by “pavement poets”. In 2004, Bùi Chát and cofounder Lý Đợi were detained for two days for distributing flyers at a poetry reading raided by the authority. In 2005, the culture department blocked their performance at the Goethe Institute in Hà Nội.

In 2011, Bùi Chát was awarded the IPA Freedom to Publish Prize “for his exemplary courage in upholding the freedom to publish.” He was arrested on his return to Việt Nam after receiving the award in Buenos Aires and detained for several days.

Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.

Ways to die | Bùi Chát

Hoạ sĩ Noah Bùi kí hôm khai mạc. Cảm ơn em Hoàn Bùi Vẫn còn "Đang trôi"... -- Sketch of Bùi Chát by Noah

poem by Bùi Chát
translation by Nguyễn Thị Phương Trâm

Vietnamese people prefer to die standing
Of course. Better than to live one’s life on one’s knees
If I had a choice

I really don’t want to die standing [1]
I don’t want to drown either [2]
I don’t want to die like I’m in a movie [3]
Nor do I want to die in agony [4]
I don’t want my dying to go on and on forever [5]
nor do I want to die as though it’s just my next meal [6]
I don’t want to die flying [7]
nor do I want to die too quickly either [8]
I don’t want to just die and that will be that [the end.] [9]

Because after all, as a poet
You must know how to nurture the ability
To live and die in limbo

Assembling

[1] Even though my poetry is straightforward very firm and straight actually
[2] In the same boat with those half-asleep
[3] Someone will waste their time searching
[4] Ignore those starved for attention scavengers of emotions
[5] When will I come? I will never know for sure
[6] To die daily, satisfied by death fully
[7] To the rise and fall moans(of ecstasy)
[8] Probably not the right Feng Shui
[9] According to the dictionary, death means You’re Fucked

Cách chết


Người Việt thích chết đứng
Dĩ nhiên. Hơn sống quỳ
Một khi phải lựa chọn

Tôi thật không muốn chết đứng [1]
Tôi cũng không muốn chết chìm [2]
Tôi không muốn chết như phim [3]
Và không muốn chết bồi hồi [4]
Tôi không muốn chết dài dằng dặc [5]
Tôi không muốn chết như cơm bữa [6]
Tôi không muốn chết bay lên [7]
Tôi không muốn chết không kịp ngáp [8]
Và không muốn chết là hết [the end.] [9]

Bởi dẫu sao, là một nhà thơ
Bạn phải biết cách nuôi dưỡng khả năng
Sống và chết lơ lửng

Ráp nối

[1] Dù thơ tôi ngay và rất thẳng
[2] Cùng xuồng bọn mắt lim dim
[3] Ai đó uổng công đi tìm
[4] Mặc bầy cảm xúc ăn hôi
[5] Biết ngày nào về? Thì tôi chưa chắc
[6] Chết hàng ngày, chết ngon miệng
[7] Bay xuống bay lên như một tiếng rên
[8] Phong thủy có lẽ không hạp
[9] Theo từ điển chết là Đệt [Death]


Bùi Chát is the poet, writer, publisher and artist’s pen name. Bùi Quang Viễn was born on October 22, 1979, at Hố Nai, Biên Hòa, Đồng Nai Province, Việt Nam. Born to family of patriotic Catholic refugees from the North in 1954.

Graduated in 2001 from the Faculty of Literature, Linguistics, and Journalism of Hồ Chí Minh City University of Social Sciences and Humanities. Bùi Chát named and cofounded Nhóm Mở Miệng (Open Mouth Group) with the poet and writer Lý Đợi, promoting Graveyard & Garbage Poetry.

Nhà Xuất bản Giấy Vụn (Scrap Paper Publishing House), also founded by Bùi Chát, distributions of xerographically structured sensitive works by “pavement poets”. In 2004, Bùi Chát and cofounder Lý Đợi were detained for two days for distributing flyers at a poetry reading raided by the authority. In 2005, the culture department blocked their performance at the Goethe Institute in Hà Nội.

In 2011, Bùi Chát was awarded the IPA Freedom to Publish Prize “for his exemplary courage in upholding the freedom to publish.” He was arrested on his return to Việt Nam after receiving the award in Buenos Aires and detained for several days.

Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.

COMPANIONS | Hoàng Xuân Sơn

Hôm nay nhớ cái ống Canon. Sydney vào mùa thu nắng rất đẹp. Nguyễn Thị Phương Trâm chụp

A poem in Vietnamese by Hoàng Xuân Sơn
Translator: Nguyễn Thị Phương Trâm

us on the same path
lionheart
[entangled]
somewhat sadness me
while
you are like water
embracing the future
seemingly as one
two roles
legion
dozens
beyond the watery realm of clouds
thus the whirlwind and gale
the flight is not so light
being helpful is meaningless in light of simply being
there’s never enough room
for envy
you reaching out. going beyond what is humanly possible
what we might
call
absentmindedly
clouds of sparrows resident of the sky
settling for a piece of the moon
reflection. mirroring the tears of a mercurial life

ĐỒNG HÀNH


Ta với nhau đi cùng đường
In tuồng tâm thể vương
[Vướng]
điều gì
Tôi đoạn buồn
Em du di
Như ôm cơ động dõi thì tương lai
Tưởng nhập một
Mà hai vai
Đơn vị
Hàng chục
Ra ngoài nước mây
Nên gió cuốn
Dễ gì bay
Đời cần nhau hơn bàn tay nỗi niềm
Khung chật hẹp
Nhốt tị hiềm
Em vươn tới. thoát ra điềm nhân thân
Có thể ta
Gọi
Thất thần
Ngôi nhà chim sẻ phù vân giữa trời
Thôi thì một mảnh trăng soi
Gương. như chiếu lệ khóc đời thủy ngân
)(
h o à n g x u â n s ơ n
@21avril2025


Hoàng Xuân Sơn 

A renowned poet, born 1942, writes under various pseudonyms: Hoàng Xuân Sơn, Sử Mặc, Hoàng Hà Tỉnh, Vô Ðịnh… 

Hometown: Vỹ Dạ, Huế.

Lý Thường Kiệt Primary  

Bán Công High School and Quốc Học Huế High School

Bachelor of philosophy, and postgraduate of political science and commerce at The university of Văn Khoa Sài Gòn. 

Worked at the Ministry of Transport and Communication, a branch of the General Department of Postal Service of the Republic of Vietnam.

After 1975 worked in the Postal Office for 7 years. December 1981 settled in Montreal, Canada.

The poet’s career span from 1970 to the present day his work has been published in many literary publications. In vietnam: Văn, Chính Văn, Diễn  Ðàn, Khởi Hành, Nghiên Cứu Văn Học, Ðối Diện, Thân Hữu, Xây Dựng Nông Thôn, Ngưỡng Cửa, Nhà Văn. Outside of Vietnam: Làng Văn, Văn Học, Văn, Thế Kỷ 21, Chủ Ðề,  Sóng, Sóng Văn, Nắng Mới, Saigon Times, Hợp Lưu, Phố Văn,  Gío Văn , Canh Tân, Ði Tới, tạp chí Thơ. 

Collaborating platforms: Litviet (U.S.A), Tienve (Australia), Vanchuongviet… and the translations of his poetry into English by Nguyễn Thị Phương Trâm on SONGNGUTAITRAM.

Published work:

Viễn Phố (thơ, Việt Chiến xb 1988)

Huế Buồn Chi (thơ,93)

Lục Bát (thơ, 2005)

Ref: vanchuongviet.org

Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.

BROKEN | Hoàng Xuân Sơn

Mèo đói, tranh by Đinh Trường Chinh

thơ Hoàng Xuân Sơn
người dịch Nguyễn Thị Phương Trâm

You are chipped
allow me the kintsugi
if not then
since fire is ash

In all the rhythm
exausting tonality
tone down how the out
of breath larghissimo

As I run into a river
to where what landing
no jetty
just beached

If I could fix
the blue beads
agate bracelet
piece together such a love

Because smoke is the mist
over reaction and careless decisions
no self preservation
dig one’s own hole

The prison is you baby
inside or out you are dead
since what is hard is actually soft
in life we will definitely lose

Which part are you missing
I have lost everything
the afternoon is bustling
because the night is beseeching

BROKEN

[ v ụ n v ỡ ]

Bạn sứt miếng nào
để tôi hàn cho
nếu không gắn được
vì lửa là tro

Trong muôn tiết tấu
âm điệu rã rời
làm sao vặn lại
ốc nhạc mòn hơi

Chảy tôi thành dòng
phương chi gượng lại
tấp một bờ không
vì bến là bãi

Nếu tôi chữa được
những hạt cườm xanh
chiếc vòng mã não
tình yêu đoạn đành

Vì sương là khói
hoảng hốt già lam
chắc gì thân xót
một nỗi giam cầm

Ngục cấm là em
Trong ngoài cũng chết
Vì cứng là mềm
Của đời thua thiệt

Bạn thiếu khúc nào
Tôi mất tất cả
Buổi chiều lao xao
Vì đêm giục giã

h o à n g x u â n s ơ n
20 tháng 5, 2025


Hoàng Xuân Sơn 

A renowned poet, born 1942, writes under various pseudonyms: Hoàng Xuân Sơn, Sử Mặc, Hoàng Hà Tỉnh, Vô Ðịnh… 

Hometown: Vỹ Dạ, Huế.

Lý Thường Kiệt Primary  

Bán Công High School and Quốc Học Huế High School

Bachelor of philosophy, and postgraduate of political science and commerce at The university of Văn Khoa Sài Gòn. 

Worked at the Ministry of Transport and Communication, a branch of the General Department of Postal Service of the Republic of Vietnam.

After 1975 worked in the Postal Office for 7 years. December 1981 settled in Montreal, Canada.

The poet’s career span from 1970 to the present day his work has been published in many literary publications. In vietnam: Văn, Chính Văn, Diễn  Ðàn, Khởi Hành, Nghiên Cứu Văn Học, Ðối Diện, Thân Hữu, Xây Dựng Nông Thôn, Ngưỡng Cửa, Nhà Văn. Outside of Vietnam: Làng Văn, Văn Học, Văn, Thế Kỷ 21, Chủ Ðề,  Sóng, Sóng Văn, Nắng Mới, Saigon Times, Hợp Lưu, Phố Văn,  Gío Văn , Canh Tân, Ði Tới, tạp chí Thơ. 

Collaborating platforms: Litviet (U.S.A), Tienve (Australia), Vanchuongviet… and the translations of his poetry into English by Nguyễn Thị Phương Trâm on SONGNGUTAITRAM.

Published work:

Viễn Phố (thơ, Việt Chiến xb 1988)

Huế Buồn Chi (thơ,93)

Lục Bát (thơ, 2005)

Ref: vanchuongviet.org

Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.

CORONA, THE YEAR 2030 [160] | Lê Vĩnh Tài

Photography by Nguyễn Thị Phương Trâm

A poem in Vietnamese by Lê Vĩnh Tài
Translator: Nguyễn Thị Phương Trâm
Photographer: Nguyễn Thị Phương Trâm

ten years
in the cemetery
the dead with the weed grew

we may
tell the story this way
it was like this, precisely like that

the weeds after ten years
now prickly shrubs
or spectacular beds of flowers

after ten years
the faraway hills
like freckles
on someone’s lively face

those who stayed
awkwardly glancing at the tombstones 
justifying their innocence against the spring

since now coughing or feverish
no one cares
there always are the green meadows
delicately glaring

now the decease is a full ten years
you take off a set of clothes
drenched in sweat 
and bits of sticky biscuit crumb

now
you hear the wheat stalks talking
by the reeds steady upon the earth
the ten years

now they say you don’t have to stay home
but you prefer a place where you may hide
like in one verse, an entire preposition
after your meaningless terminologies
like ten years ago the teardrops fell
in quotations
the spawn of your loneliness

now
after ten years there’s still someone
steeping you in bath water a dream
a given piece of seafoam
the hint of the scent of soap, you’re teary
ten years of disinfection

now
you make out as though the poem knew:
ten years of glorious crowning terrorism
ten years of the innumerable deceased
but you never once thought it was the end

ten years
no school will be close
a Sunday afternoon could drag out into a week
like you have once take a month off for the new year
but each second stayed with you
we’re traumatised for ten years
we stayed strong for ten years

the wind is but a warning
so our hearts may be restored
in each other’s hand
not a need to wash them

to hold her
dry her tears
the gone ten years

_____

CORONA, NĂM 2030


mười năm
trong nghĩa trang
những người chết đã mọc cùng cỏ dại

đây là cách mỗi chúng ta 
sẽ diễn giải 
câu chuyện là như thế, như thế  

cỏ sau mười năm 
đã thành bụi gai 
hoặc những đóa hoa rực rỡ 

sau mười năm 
phía xa những ngọn đồi
nhìn như mấy nốt ruồi 
trên gương mặt người còn sống 

những người còn ở lại
lúng túng nhìn những tấm bia mộ 
thanh minh mình vô tội với mùa xuân

vì bây giờ dù họ có ho hay sốt
cũng không ai còn để ý 
chỉ còn những cánh đồng cỏ xanh 
mong manh nhức mắt 

bây giờ cái chết đã tròn mười tuổi
và bạn sẽ cởi ra một bộ quần áo cũ 
đẫm mồ hôi, những mẩu vụn bánh quy 
còn vương trên đó 

bây giờ
bạn có thể nghe thấy tiếng của những lá lúa
nằm yên trên mặt đất cùng với cỏ
mười năm

bây giờ họ không còn bảo bạn phải ngồi ở nhà
nhưng bạn lại thích chui vào trong nơi trú ẩn
như trong câu, ngay cả một giới từ
đi theo một danh từ bạn thấy cũng vô ý 
như những giọt nước mắt rơi xuống mười năm trước 
trong một dấu ngoặc kép
từng làm bạn cô đơn

bây giờ
hình như sau mười năm vẫn còn một ai đó
trong giấc mơ ngâm bạn vào trong bồn tắm 
với một miếng bọt biển 
mùi xà bông làm bạn muốn khóc 
sau mười năm bạn đã khử trùng 

bây giờ 
bạn làm như bài thơ cũng biết:
mười năm vẻ đẹp của vương miện và sự khủng bố 
mười năm bao nhiêu lần quá cố 
bạn vẫn không nghĩ đó là cuối cùng

mười năm
các trường học đã không còn đóng cửa 
rằng một chiều chủ nhật có thể kéo dài cả tuần
bạn từng nghỉ tết hàng tháng 
nhưng mỗi giây vẫn còn
mười năm chúng ta bị tổn thương
mười năm chúng ta mạnh mẽ

gió cũng chỉ là lời cảnh báo
cho nhịp tim của chúng ta phục hồi
rằng chúng ta sẽ nắm tay nhau 
không còn phải rửa tay 

rằng bạn sẽ ôm nàng 
lau khô giọt nước mắt 
đã mười năm…

_____

MARCH 2020


Lê Vĩnh Tài, the poet and translator born in 1966 in Buon Ma Thuot, Daklak, Vietnam. The retired doctor is still a resident of the Western Highlands and a businessman in Buon Ma Thuot.

Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.

[50 năm – thuyền nhân] | Nguyễn Thị Phương Trâm

THE TRAN

Not mine, but my husband, my brother in law and our children’s story.

Today marks Tàu Trường Xuân 50 years settlement in Australia.

Boat people.

There is no such thing as reconciliation between those who are boat people and those who are not.

Pain is not something you can reconcile like dollar and scent in your tax return. As though history could ever be remedied! WTF!

Reconciliation? Remedy? Toàn là chuyện tào lao!

It is what it is. Accept each other’s pain. Reconcile nothing. Feel it, feel the bloody blood stained battle fields. Acknowledge the fallen, inhale the smell of their rotting flesh, count their bones!

There is no remedy for war and its aftermath. We look ahead, we keep walking, we take our war to our grave.

The ignorance of reconciliation is not only condescending but an insult to the pain my parents, my siblings, my children had to shoulder for the last 50 years.

I am not asking for your pity, nor do I ask you to help me. I am perfectly capable of rebuilding my life – I am rising from the ashes each morning I open my eyes.

Doctors, lawyers, engineers, bricklayers, factory workers, we pave the roads for our children’s future.

Boat people.

Fuck your reconciliation!

June 20, 2025

[50 năm – thuyền nhân] [50 years – the boat people]

Allen Nguyễn Trần
Lâm Nguyễn Trần

[NHẬT KÝ ĐỜI TỴ NẠN]
– ba tôi, ông Nguyễn Xuân Thiêm viết

Hành Trình Tìm Tự Do  

Sài Gòn sụp đổ ngày 30 Tháng 4 Năm 1975  

Sau lệnh đầu hàng của Đại tướng Dương Văn Minh đọc trên đài phát thanh Sài Gòn  Người dân miền nam bắt đầu sống trong lo sợ…vì đã hoàn toàn rơi vào tay cộng sản Bắc việt! 

1. Ngày 26/06/1975: theo lệnh của ủy ban quân quản Sài Gòn tôi đi trình diện cải tạo 10 ngày vì  là sĩ quan cấp úy của chế độ VietNam Cộng Hoà kèm lời khuyên là mang lương thực cho đủ 10 ngày! Nhưng đã bị cộng sản đánh lừa! 

2. Từ ngày 26/06/1975 tới 21/03/1979: tôi phải đi vào trại tập trung cải tạo nhưng thực chất là  nhà tù khổ sai! bị đe dọa tinh thần luôn sống trong khủng bố bất chấp đúng sai phải tự khai là  mình đã có tội với nhân dân và quân đội cộng sản Bắc việt để tẩy não …về thể xác phải đi lao  

động; khổ hình; vất vả hàng ngày, ăn uống kham khổ, nhịn đói, đau bịnh phải khắc phục không có  thuốc điều trị…nhiều người đã chết trong trại cải tạo nếu còn sống thì về với thân tàn ma dại! 

Trong thời gian tôi bị ở tù thì người vợ trẻ ở nhà can đảm nuôi dạy 4 đứa con nhỏ, dưới áp lực  của công an phường phải học tập chính sách cộng sản mỗi tối, đối phó với cưỡng bức lao động  trong tổ hợp, bị đánh tư sản mại bản và áp lực đi vùng kinh tế mới…. 

3. Từ ngày 21/03/1979: được tạm tha về với gia đình, tôi vẫn phải sống dưới sự quản thúc của  công an phường, không có quyền công dân và phải trình diện khai báo chi tiết mỗi ngày là đi đâu  và làm gì? Hình thức một nhà tù kiểm soát mọi hoạt động của người dân. 

4. Ngày 20/11/1980: tôi đã quyết định đưa gia đình gồm vợ tôi với 4 đứa con nhỏ (Phương Anh  12 Tuổi; Phương Trâm 10 tuổi; Xuân Tùng 8 tuổi và Phương Thảo 7 tuổi) đi vượt biên tìm tự do.  Tôi thiết nghĩ thà cả gia đình cùng chết trên biển còn hơn sống dưới chế độ cộng sản Vietnam,  

một chế độ độc tài Đảng trị, tham nhũng; bạo lực; xào trá và dã man; không tôn trọng nhân  quyền và luôn khủng bố người dân bằng công an trị…các con tôi sẽ không được tới trường học  theo nguyện vọng; chúng tôi sẽ không có chỗ để sinh sống trong xã hội cộng sản Việt Nam vì họ sếp gia đình chúng tôi là công dân hạng hai! trên chiếc thuyền gỗ nhỏ bé với kích thước thật  khiêm tốn: chiều ngang chỉ 2.5 mét; chiều dài 10.0 mét; không động cơ vì bị hư ngay từ đầu  ngang qua đảo Phú quốc mà chỉ nhờ gió thổi vào vịnh Thải Lan!!! trên thuyền với 40 người cùng  cảnh ngộ. Lênh đênh trên vịnh Thái Lan 3 ngày 4 đêm không thực phẩm, hạn chế nước uống  trong biển động, sóng bão và nỗi lo sợ hải tặc; tưởng như chết trên biển cả ….đến ngày  24/11/1980 thuyền chúng tôi may mắn được một thuyền đánh cá Thái Lan cứu vớt, tôi vẫn còn  ghi nhớ ơn tên người chú thuyền là Chusan. Vì vào thời điểm này cứ 10 thuyền tỵ vượt biển thì  đã tới 8 thuyền bị hải tặc cướp của và hãm hiếp phụ nữ. 

5. Ngày 24/11/1980-19/12/1980: chúng tôi ở trại tạm cư chuyển tiếp chonburi/Thailand. 

6. Ngày 19/12/1980-20/01/1981: chúng tôi nhập trại tỵ nạn Songkhla/Thailand 

7. Ngày 20/01/1980-05/03/1981: chúng tôi ở trại chuyển tiếp Panatnikhom/Bangkok/Thailand. 

8. Ngày 06/03/1981: gia đình tôi được chính phủ Úc chấp nhận cho định cư vĩnh viễn với tư cách  là những người tỵ nạn chính trị. 

9. Ngày 06/03/1981-15/10/1981: gia đình tôi được tạm trú tại East Hill Hostel. 

10. Ngày 15/03/1981-15/10/1981: tôi làm thợ mộc cho công ty Everest Worthington. 

11. Ngày 02/04/1984: gia đình tôi được tuyên thệ vào quốc tịch Úc Đại Lợi. 

12. 1981-1985: gia đình tôi cư ngụ tại vùng Baulkham Hills/Sydney  

13. 1982-1998: vợ tôi là nhân viên của bưu điện Úc.

14. Ngày 19/10/1981-03/11/2017: trong suốt hơn 36 năm làm việc tại Úc tôi đã phục vụ qua  nhiều công ty khác nhau tên là: FFE(Fire Fighting Enterprises); Quell Fire Safety; James Hardie;  Chubb Fire&Security; William; UTC(Unites Technologies Cooperations) vời nhiều nhiệm vụ từ factory process worker; supervisor; production manager; NSW. Workshop and Sydney Portable  Services Manager. 

15. 1985-tới nay (2025)…định cư tại Vùng Lidcombe NSW. Sydney 

Journey to Freedom 

Saigon fell on April 30, 1975 

After General Duong Van Minh’s surrender order was  read on Saigon radio 

The people of the South began to live in fear…because  they had completely fallen into the hands of the North  Vietnamese communists! 

1. June 26, 1975: Following the order of the Saigon  military committee, I went to a 10-day reeducation  camp because I was a lieutenant of the Republic of  Vietnam regime, with the advice to bring enough food  for 10 days! But I was deceived by the communists! 

2. From June 26, 1975 to March 21, 1979: I had to go  to a reeducation camp but in reality it was a forced  labor prison! I was mentally threatened and always  lived in terror regardless of right or wrong, had to  confess that I had committed crimes against the  people and the North Vietnamese communist army to brainwash… physically forced to do labor; torture; hard  work every day, poor food, hunger, illness that had to  be overcome without medicine… Many people died in  the re-education camp. If they survived, they returned  with a crippled body and a crazy spirit! 

During my time in prison, my young wife courageously  raised 4 children at home, under pressure from the  ward police to study communist policies every night, to  deal with forced labor in the complex, to be beaten as a comprador bourgeois and pressured to go to the new  economic zone… 

3. From March 21, 1979: I was temporarily released to  return to my family, I still had to live under the  supervision of the ward police, had no civil rights and  had to report in detail every day where I went and what  I did? The form of a prison controlled all activities of  the people. 

4. November 20, 1980: I decided to take my family,  including my wife and 4 small children (Phuong Anh,  12 years old; Phuong Tram, 10 years old; Xuan Tung,  8 years old and Phuong Thao, 7 years old) to cross the  border to seek freedom. I thought it would be better for  the whole family to die at sea than to live under the  Vietnamese communist regime, a dictatorial regime  ruled by the Party, corrupt, violent, deceitful and  barbaric; not respecting human rights and always  terrorizing people with police state… my children would  not be able to go to school as they wished; we would  not have a place to live in the Vietnamese communist  society because they considered our family as second class citizens! on a small wooden boat with very  modest dimensions: width only 2.5 meters; length 10.0  meters; no engine because it was broken from the  beginning, passing Phu Quoc island, only relying on  the wind to blow into Thai Lan bay!!! on a boat with 40  people in the same situation. Drifting on the Gulf of  Thailand for 3 days and 4 nights without food, limited  drinking water in rough seas, stormy waves and fear of  pirates; thought we would die at sea… until November  24, 1975, our boat was fortunately rescued by a Thai fishing boat, I still remember the boat owner ‘s name  Chusan. Because at that time, out of 10 refugee boats  crossing the sea, 8 were robbed by pirates and women  ere raped. 

5. November 24, 1980 – December 19, 1980: We were  at the Chonburi/Thailand transit camp. 

6. 19/12/1980-20/01/1981: We entered the Songkhla  refugee camp/Thailand 

7. 20/01/1980-05/03/1981: We stayed at the  Panatnikom transit camp/Bangkok/Thailand. 

8. 06/03/1981: My family was accepted by the  Australian government for permanent settlement as  political refugees. 

9. 06/03/1981-15/10/1981: My family was temporarily  housed at the East Hill Hostel. 

10. 15/03/1981-15/10/1981: I worked as a carpenter  for the Everest Worthington company. 

11. 02/04/1984: My family was sworn into Australian  citizenship. 

12. 1981-1985: My family lived in Baulkham Hills/ Sydney 

13. 1982-1998: My wife was an employee of the  Australian Post Office as a mail officer.

14. 19/10/1981-03/11/2017: During  more than 36 years working in Australia,  I have served through many different  companies named: FFE(Fire Fighting  Enterprises); Quell Fire Safety; James  Hardie; Chubb Fire & Security; William;  UTC(United Technologies Corporations)  with many tasks from factory process  worker; supervisor; production manager;  NSW. Workshop and Sydney Portable  Services Manager. 

15. 1985-present (2025)… settled in  Lidcombe NSW. Sydney

Thông, Anh, Trâm, Tùng, Thảo, Nghĩa, Thiêm và Thiện

Tôi kiểu, như bị thất tình, cái tuổi xồn xồn hay sồn sồn bồn xồn người đàn bà tiền mãn kinh.

Tôi chần chừ muốn nghỉ rồi chơi lại mạng xã hội. Nhưng chính nó đã là một giảng trường đời.

Học không hết chữ. Thời 4.0, bạn không cần phải vào giáo trường, bạn có thể ngồi ở nhà xem những thuyết trình của những giảng đường đại học như Cambridge và Harvard.

Bằng cấp chỉ là những tờ giấy trắng dành riêng cho những người có điều kiện.

Bây giờ tôi sẽ sống hàng ngày với hai cụm từ mỗi ngày dưới đây sẽ là quá đủ:

1) It is what it is – từ tác phẩm thơ con cóc của anh Nguyễn Hưng Quốc

2) tới đó tính tiếp – từ những buổi sáng của anh Vũ Hồ Như

Chúc vui.

ultra-minor aiming to be major – Mai Ver Dang (H’Mong-American poet) – surrealness cuts through to the truth

poets function as conscience – viet thanh nguyen

On the Joy of Otherness

death and realism – ken chen

can realism help migrants and border crossers refugee exiled displaced comes to term with home sickness reluctant time travelers an infinite homecoming timeline

[50 năm – thuyền nhân]

If I am inclined to see the journeys of my parents as heroic, the writer Amitava Kumar pushes back against the praise for those who cross borders: the immigrants, the refugees, the undocumented, the expatriates, the tourists, the settlers, the conquerors. He writes that “It is not the immigrant but the ones who stay behind who are the true unvanquished.” Viet Thanh Nguyen

“Being asian-american is not the only dimension of myself, just one aspect, born from defending myself or others like me or who are seen as being like me, but my asianamericaness matters less than my ethics politics and art, together they constitute a stubborn otherness that resists the lure of a domesticated otherness siated by belonging” Viet Thanh Nguyen

Crossing many borders. The refugee is exiled. Death away from home. “The continent of death has no borders”.

asian expansive solidarity (japanese-chinese-vietnamese-filipino) – self-defense – victims of our own success – a moment of clarity against exclusion and move on from inclusion.

identity build on violence and white invasion colonialism

beyond labels – boat people being only one label of global inclusion

the utopian society of the earth being a global village where we solve our dispute in a football game(olympic games?)

Đang xem vidiô nghe tiếng còi bom báo động, tôi nhớ đến cái cảnh bò xuống dưới gầm giường đầy mùi khai khai để núp. Ký ức tuổi thơ dồn dập bất ngờ làm tôi bật ra khóc nức nở không ngưng.

Tôi cứ nghĩ bao nhiêu năm tôi đã tự chữa bệnh PTSD bằng thơ ca, là mình đã khỏi bệnh. Mình đã thả nó hẳn vào quá khứ.

Tôi hơi bực vì sự thất bại của mình.

Tôi nhìn cái mặt điện thoại thông minh của mình, nước mắt nó cứ trào ra thì qua những dòng nước tôi bắt gặp mấy câu thơ của Y Thiện làm tôi bật ra cười.

Rồi tôi lại nghĩ – ồ ồ, tiếng việt của mình giỏi hơn hồi xưa nhỉ?

Tôi thấy mình đáng yêu ghê. Hồi xưa tôi đọc những gì Y đã chia sẻ đã không hiểu gì luôn. Vừa không hiểu vừa xấu hổ là mình đã bị mất gốc.

8 năm trôi đi như bèo bọt trôi qua cuộc đời tôi.

Tôi hôm nay vừa cười vừa khóc thì ăn mười cục gì nhỉ?

Trong tôi vẫn là xương máu rồng tiên.

Thì sẽ okê nha.

The sound of bomb sirens from a documentary broke me, it triggered a break down I thought I had fixed. The bombings of the Port of Hai Phong, where my eleven year old English student now lives. The lives of villagers who died during the carpet bombing. The people who were massacred in their homes in Hue during the Tet Offensive the year my sister was born. It broke me. I don’t know the words to console such pain.

Good morning, sáng nay có hẹn với chồng nha.

30/4 là 30/4.

It is the two faces of the same coin.

Những cái label ngoài những con số đó chỉ là thừa.

Tôi không cười thì tôi khóc. Có anh chồng lau nước mắt hay cùng cười với cũng vui.

It is what it is.

Thank you to mother and father to whom I would not be here today.

To my community of boat people, thank you for just being. We may never completely heal, completely let go. But at least we will have each other.

Survive.

Our survival our legacy.

My kindest of regards,

Nguyễn Thị Phương Trâm

A Man of Two Faces by VIET THANH NGUYEN

Dịch thơ Mai Thảo tôi thấy mình đã trải qua trọn vẹn 7 giai đoạn tang thương buồn thảm – GRIEF:

Sốc.
Phủ nhận.
Giận dữ.
Thương lượng.
Trầm cảm.
Chấp nhận và hy vọng.
Xử lý nỗi đau.

Mai Thảo tìm sự hỗ trợ của anh Johnie Đỏ là một chuyện hiển nhiên.

Thuyền nhân là một giọt nước mắt giữa đại dương…

Sự bỏ rơi và sự chia ly, có khác nhau lắm không?

Như sự hận thù và tình yêu, có ai phân biệt những cảm xúc sâu đắm mù quáng của nó nổi không?

Màu vàng chạng vạng của sự bình minh và hoàng hôn chúng khác nhau ở điểm nào?

Sự bỏ rơi bắt đầu từ ngày tôi đã bỏ rơi đất nước tôi, hay đất nước tôi đã bỏ rơi tôi? Một đời người đã trôi qua, nhưng vết thương vẫn còn mới?

– Anh đã bỏ rơi em hay em đã bỏ rơi anh?

– Em cứ lo an ủi những người khác nhưng người em cần an ủi là em.

Nếu chúng ta là người dưng. Chuyện của chúng ta không còn là một cuộc chia ly nữa.

Nó chỉ là một chặng đường. Những cuộc đối thoại, những va chạm. Để chúng ta thấy da thịt của chúng ta vẫn còn đau vẫn còn biết sướng.

Một chặng đường hoang vu dã man “thiên nhiên hoàn toàn lãnh cảm”[1]

Tôi ác tôi nhẫn tâm là một sự chấp nhận sống trong bóng tối mong ngày ánh sáng.

[1] thơ Nguyễn Hưng Quốc: 
Đừng hiểu lầm: Thiên nhiên hoàn toàn lãnh cảm
Nó không có
Ký ức

Tôi không hiểu tại sao quê hương của tôi cứ phải là một người đàn bà đẹp, cứ phải mãi là một con điếm?

Nếu quê hương của tôi là một người đàn ông, một người đàn ông thật xinh, có nhiều vợ. Thì lịch sử của đất nước mẹ đẻ của tôi sẽ được đẹp hơn không?

[50 năm – thuyền nhân]

Sáng sớm trước khi hành trình đi tìm cánh đồng bồng bềnh giữa biển khơi, tôi đi qua thăm ông bà ngoại của hai người lớn của họ nhà Trần.

Ông bà nôn nao lo tình trạng tinh thần của cô con gái thi dịch sĩ của họ. Tôi qua thăm và để kể cho hai ngài nghe về bệnh mất trí đến những người bạn của tôi.

Những người bạn của tôi không chỉ cho tôi nơi trú chân mà đã dành riêng thời gian cho tôi hồi phục lại sức khỏe và tinh thần.

Những bữa cơm và những ly rượu hữu tình mà tôi sẽ không bao giờ quên và muốn ghi lại ở đây cùng với những lời tri ân của mình. Thật ra họ cũng đã biết họ là ai, tôi không muốn điểm danh họ hết ở đây.

Dù rằng tôi bạc cả đầu, tính tôi vẫn vô tư. Hôm nay tự nhiên trong một hơi thở ba má tôi nhắc đến Lý Đợi và Bùi Chát. Ồ ba má biết hai cậu đó à? Thì ba má hồi xưa hay đọc thơ văn của hai người đó.

Nhắc đến hai người bạn của anh Tài làm tôi hơi xấu hổ. Tôi xưng tội luôn: khổ ghê, con không hiểu anh Lê Vĩnh Tài lại uống yếu hơn con như vậy, anh say quá Chi phải đưa anh về trước để con lại với Lý Đợi và Bùi Chát. Con thấy hơi tội nghiệp hai ông em, con say, con không chịu đi taxi về, con nhất định phải đi bộ cho bằng được hết 2 cây số về khách sạn. Trên đường về khách sạn thì chắc chắn là con đã lải nhải cái gì á con không nhớ, nhưng con chỉ nhớ là con lải nhải rất nhiều.

Khổ ghê. Tính nói nhiều của tôi khi trúng đài.

Nên nè hai anh bạn nhỏ Ly DoiBui Quang Vien , dù say không phải ai tôi cũng nói, hôm nay tôi xin hai bạn bỏ qua cho tôi. Hôm đó tôi đã quá làm phiền hai bạn – đi gì cả một chặng đường dài. Vừa đưa tôi đi lại còn phải nghe tôi đổ rác chảy cả máu tai, tôi thấy mình thật là có lỗi. Hôm nay tôi mới có đủ can đảm để nhớ lại và thật tình xin lỗi, và cám ơn thật nhiều hai người đã cứu tôi.

Again thank you, I owe both of you one. And I always pay my debt.

SS Ayrfield, Sydney Olympic Park. Nguyễn Thị Phương Trâm chụp

Nhà văn nhà thơ nhà báo nhà viết lách họ khác với người thường của mình nha. Mình đọc những tác phẩm của họ, mình nghe thấy có cả một cánh rừng trôi nổi giữa biển khơi, nên mình đi kiếm cho bằng được.

Mà cánh rừng khi mắt mình tận thấy nó làm sao nhỉ. Cánh rừng của nó lưa thưa nhỏ xíu chưa đủ lông lá để che cho chị E Và ngày nàng bị đuổi ra địa đàng vì cái tội dụ dỗ anh khờ A Đam ăn trái táo cấm.

Nhưng mình vẫn thấy sướng dù rằng chân tay mình rã rời mồ hôi ướt át đỏ cả mặt như mấy anh say rượu cuối tuần không muốn đi về nghe vợ(chồng) giảng.

– tại sao anh cần phải uống nhiều như vậy.

À, hình như mình bị lạc đề rồi. Mình không phải là nhà văn.

Mình xin lỗi nha.

SS Ayrfield, Sydney Olympic Park. Nguyễn Thị Phương Trâm chụp
Nguyễn Thị Phương Trâm & Son in Boun Ma Thuot

Con trai dỗ dành mẹ hơn mấy tuần lễ.

Mẹ bị mất trí(Transient Global Amnesia) hết 24 tiếng, mẹ nhõng nhẽo, con ngồi kiên trì lau từng dòng nước mắt cho mẹ.

Mẹ thích cà phê, con đã gọi cho mẹ hai ly cà phê hạt vừa rang vừa mới xay ra thơm phức, ngon nhất Sài Gòn.

Mẹ bị ám ảnh uống cocktail dở, con rủ mẹ đến góc phố pha cho mẹ ly cocktail ngon hơn tưởng tượng để chữa lành.

Bạn của mẹ cho mẹ leo cây, con chạy đến uống phụ mẹ hết chai rượu lạ rồi đưa mẹ về phòng.

Con trai và một người mẹ hạnh phúc.

“I don’t speak Vietnamese, I did when I was very young. Until I was 3 years old. You can’t push all the blame on, uhm, I don’t even want to use the word blame. Because it has a negative connotation if you know what I mean. My parents want the best for me in a land that is foreign to them”

Keshi

Không dịch thơ. Không làm dược sĩ nữa.

Không biết mai mốt mình sẽ làm cái gì? Thơ của mình thì chán chết. Viết thì khó.

Chó cũng không có. Sức khỏe thì như trâu, ngồi đợi chết cũng không được.

Không lẽ cứ kiếm chuyện với Trump mãi.

Đừng cãi nữa. Làm thơ là hay nhất.

Văn Chương như “một cuộc diễu hành” của Nguyễn Hưng Quốc, là the collective memory của một cộng đồng vượt biên giới. Mỏng manh như tháng tư?

Tiền như rác như vị trí của bạn trong xã hội. Bạn là hai bàn tay trắng trong nước của người ta.

Ở ngoài khơi bạn bay như con cá chim với con thuyền tỵ nạn. Chết sống là những đứa con gái mà những người ân nhân của bạn đã bắt cóc đem về làm điếm là còn may.

Thống nhất là sự hy sinh của ba má tôi.

Nên tôi xin bạn đừng có hoang phí quá với những con chữ của bạn. Đừng để tôi pity sự hời hợt của bạn.

Sự múa máy của hai ngón tay phải của bạn đang chỉ vào mặt tôi hay đang tự sướng? Cái đỉnh của sự nhục nhã tủi nhục đen như bóng tối trong hộp sọ của bạn.

Rơi hoài rơi mãi là mưa của tháng tư, khi tôi nằm xuống thành bữa cơm cho loài giòi thơm phức mùi vĩ đại một mùi thúi của một số phận vất đi.

Nguyễn Thị Phương Trâm
Nguyễn Thị Phương Trâm
Nguyễn Thị Phương Trâm

Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.