tears are as old as the trees | Lê Vĩnh Tài

Nha Trang, Vietnam. Photography: Nguyễn Thi Phương Trâm

A poem in Vietnamese by Lê Vĩnh Tài
Translator: Nguyễn Thị Phương Trâm

You can’t order a poem
like you order groceries from Co-op Mart…

Don’t think leaving your address
Means someone might reply

Poetry is like something in your shoes
Like the ceiling fan
Blowing away all these viruses

You find yourself overwhelmed
Every morning
Hung over

What you must do
Is to understand why Poetry cries
Tears are as old as the trees
Because it comes from the husbands who loves their wives
But you had to hid in the poem
All these secrets

Seriousness is when
Tears sometimes wets the blanket
Truly needed
In the cold
Like those far from home
On a hunger strike…

July 2021

Bạn không thể đặt hàng một bài thơ
như bạn đặt hàng với siêu thị Co-op Mart…

Bạn đừng tưởng cứ để lại một địa chỉ
Là có người trả lời

Thơ bí ẩn trong đôi giày của bạn
Như cánh quạt tít mù trên trần nhà
Thổi con virus bay xa

Bạn thức dậy thấy mình choáng váng
Mỗi sáng
Còn say

Những gì bạn phải làm
Là phải hiểu vì sao Thơ khóc
Giọt nước mắt là hình ảnh cũ rích
Vì nó được phát minh từ những ông chồng yêu vợ
Nhưng bạn phải giấu trong bài thơ
Toàn điều bí ẩn

Nghiêm trọng
Vì nước mắt đôi khi ướt trong những tấm chăn
Rất cần
Cho băng giá
Như những người xa nhà
Đang tuyệt thực…


Lê Vĩnh Tài, the poet and translator born in 1966 in Buon Ma Thuot, Daklak, Vietnam. The retired doctor is still a resident of the Western Highlands and a businessman in Buon Ma Thuot.

Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.

burying nothing | Nguyễn Văn Thiện

A short story in Vietnamese by Nguyễn Văn Thiện
Translator: Nguyễn Thị Phương Trâm 
Photography: Nguyễn Thị Phương Trâm

BURYING THE NAUGHT  

I’m too scared to climb that mountain, I’ve even forgotten its name, those things up there, I’ve already forgotten their names, the words not worthy of mention. I returned home to amuse myself alone. I drew a huge zero on the wall, then 7 steps backward, pulled my gun aimed to shoot. Into the zero, I shot, in the middle of the bulls-eye. Before shooting, I read the order of execution. It nodded in acceptance of the crimes, a pitiful sight.

           In the judgment, I said: “You, you’re the numeral 0, correct, your crime is nothing at all, correct?”.

           It quietly sobbed. 

“I’ll allow you a last request, speak!”.

It remained silent.

Coldly I squeezed the trigger.

The bullet landed in the middle of its black heart, creating a hole. That’s the end of your life, the unjustified numeral 0.

From the hole, the wind rushed through from the outside. I turned white; maybe it’s been wronged?

The wind was black in a twister. It was a fit of nature, a tornado. It hissed up the cabin wall, ripped across the ceiling, digging into the floor, crazy. I cowered in a corner, eyes closed, ears covered, grinding my teeth. My life, though has been much, has never encountered such a terrifying storm, yet in this tiny room, next to the body of 0 on its last breath. Why?

I thought hard; mistakes began from when? And from where came the black wind? I asked the white mist: “ What can I do?”. The mist didn’t answer and continued to float around the room. I screamed amidst the gale and violent wind: “Just stop, stop moving!”. It kept its way, in a circle. I thought, in the wind, in the gale; one thing is definite, I must bury the body.

In the most confounding moment, my father appears. When my father came into the room was unclear. Father said: “This storm is the end of the world!”. I turned to look at my father, but it was now just a white skeleton?

Amongst the chaos, I kicked down the door to escape. Outside heaven and earth remain harmonious and peaceful like a hymn. Strange right?

           Immediately, I began to suspect heaven and earth. How could they remain peaceful, when in my home there was a violent storm? I also imagined the glorious hymn that had brought joy to that earth and sky, how could there be green trees and flowers, while bouts of the black wind invade my shelter?

I consoled myself: relax, calm down, it started from where? Right, it started at 0, an apparently dead body.

           The neighbours rushed over to watch like they were watching someone having a seizure. Sheepishly I laughed like I did something wrong: “I must bury this body!”. They broke out in laughter: “There’s nobody, what body?”. They couldn’t see the sizable dead body nor the white skeleton lying in the middle of the yard. My next-door neighbour looks at me full of compassion: “Yeah, quickly bury it, before it deteriorates!”. Then he scoffed loudly and left.

It turns out, what I could see, doesn’t necessarily mean all could, what most of those who stood for the truth, could see. Whether my next-door neighbour was sincere or joking, I started to smell the decay, and I had to bury the body.

I made up my mind to bury it.

A real burial.

I rolled up my sleeves, dug a grave in the middle of the yard, inside, the wind continued its turns. I spat into my hand like a professional grave digger and said: “Hey 0, I know you’ve been dead for a while, I’m going to bury you now so that you can be at peace!”.

           Now all is done, no dead body, no white skeleton. The house returns to its original tranquillity. Now in this calm, can we possibly acknowledge this folly, that a zero can cause so much anxiety? People can’t see it because it is the numeral 0. In reality, its presence – face, nothing – at all. When the truth is nothing – at all, it can still cause a storm. 

Now, I can indeed fall into a deep sleep. While on top of the grave is a baby cricket singing, an anthem amidst earth and sky, as though a disaster has never been.

January 2019

Chôn cất số không

       Bây giờ tôi không dám lên núi ấy nữa, tôi quên luôn tên núi rồi, trên ấy đầy các ấy, tôi cũng quên tên bọn ấy rồi, bọn ấy không đáng để ấy. Tôi về nhà, đóng cửa lại, chơi một mình.

       Tôi vẽ một số 0 to tướng lên vách, rồi lùi lại 7 bước, rút súng ra ngắm bắn. Tôi bắn vào số 0, chính giữa hồng tâm. Trước khi bắn, tôi có đọc lệnh tử hình. Nó cúi đầu nhận tội, thấy cũng thương thương…

       Tôi đanh thép kết án: “Mày, mày là số 0, đúng không, tội của mày là không có gì cả, đúng không?”.

       Nó im lặng thổn thức.

       “Cho mày một ân huệ cuối cùng, nói đi!”.

       Nó vẫn im lặng.

       Tôi lạnh lùng bóp cò.

       Một lỗ thủng ngay giữa tim đen của nó. Thế là hết đời mày, số 0 oan nghiệt.

Từ trong lỗ thủng viên đạn vừa xuyên qua, gió từ bên ngoài tràn về, cuồng nộ. Tôi xây xẩm mặt mày, hay là có oan sai?

       Gió, mà gió màu đen, ùn ùn kéo vào khuấy đảo. Đó thực sự là một trận cuồng phong, một cơn bão tố. Chúng rít lên trên vách gỗ, xé dọc trần nhà, cày nát sàn nhà, kinh hoàng. Tôi ngồi xuống một góc, nhắm mắt, bịt tai, cắn răng chịu đựng. Đời tôi, dầu dãi đã nhiều, song chưa khi nào gặp một trận bão khủng khiếp đến thế, mà ngay trong căn phòng nhỏ này, bên xác số 0 vừa tắt thở.

Sao thế nhỉ?

       Tôi vắt óc suy nghĩ, sai lầm bắt nguồn từ đâu? Và cơn bão đen ấy, từ đâu tới? Tôi hỏi bầy xương trắng: “Làm thế nào bây giờ?”. Lũ xương không trả lời, vẫn cặm cụi bước đi xung quanh căn phòng. Tôi hét giữa gió cuồng bão giật: “Thôi đứng lại xem nào, đừng đi nữa!”. Họ vẫn đi, theo một vòng tròn. 

       Tôi nghĩ, dù gió, dù bão, vẫn phải mai táng những bộ hài cốt này, may ra mới ổn…

       Đúng lúc hoang mang nhất thì cha ghé về thăm. Cha lẻn vào phòng lúc nào không rõ. Cha nói: “Gió bão chi mà như tận thế!”. Tôi quay sang nhìn cha, ô hay, sao lại là một bộ xương trắng? Hoá ra… Không thể chịu nổi nữa, tôi đạp cửa lao ra ngoài. Trời đất vẫn yên bình như một bài hát nâng bi. Lạ chưa?

       Ngay lập tức, tôi nghi ngờ bầu trời và mặt đất. Làm sao có chuyện chúng vẫn bình yên được, khi trong căn nhà tôi đang gió bão mịt mùng? Tôi nghi ngờ cả bài hát đang rạo rực đất trời, làm gì có chuyện toàn là hoa lá được, khi trong nhà tôi đầy những ngọn gió đen? 

       Tôi tự nhủ: Bình tĩnh lại nào, bắt đầu từ đâu nhỉ? Phải, đầu tiên là số 0, một cái xác chết to tướng. Vậy thì phải kết thúc ở đấy. Tôi vào nhà, khiêng xác số 0 ra ngoài, như người ta kéo một tên trộm chó vừa bị đánh hội đồng cho đến chết.

       Hàng xóm ùn ùn kéo đến xem, như xem một thằng động kinh lên cơn. Tôi cười bẽn lẽn như mình có lỗi: “Tôi phải mai táng cái xác này mới được!”. Mọi người cười ồ: “Xác nào, có xác nào đâu?”. Họ không nhìn thấy số 0 to tướng như một bộ xương trắng nằm ngửa giữa sân. Gã thợ hồ sát cạnh nhà nhìn tôi đầy thông cảm: “Ừ, thì chôn nhanh đi, kẻo nó phân hủy!”. Nói xong gã cười khà khà, quay đít ra về.

       Hóa ra, điều tôi thấy rõ ràng, chưa chắc mọi người, số đông, đại diện cho chân lý, đã thấy được.

       Không biết gã thợ hồ hàng xóm nói thật hay nói đểu, tôi thì thấy bốc mùi thật rồi, nếu không nhanh tay thì…

       Tôi quyết định chôn.

       Mà tôi chôn thật đấy.

       Tôi xắn tay lên, đào huyệt giữa sân, trong nhà, gió bão vẫn xoay vần. Tôi nhổ bãi nước bọt vào tay xoa xoa, đúng phong cách một anh phu đào huyệt sau khi xong việc. Nói: “Này số 0, dù sao thì ngươi cũng đã chết lâu rồi, bây giờ, ta chôn ngươi, để được mồ yên mả đẹp, nhé!”.

       Giờ thì mọi việc đã xong, không còn tử thi, không còn xương trắng. Căn nhà trở lại bình yên. Giờ thì bạn thấy vô lý không, chỉ một số 0 mà làm khổ người ta biết bao nhiêu? Mà vì nó là số 0 nên nhiều người không nhìn thấy. Thực tế, nó có – mặt, dù nó không – có – gì. Vì vậy, dù sự thực là không – có – gì, nó vẫn có thể gây ra bão bùng giông tố…

       Giờ thì, tôi ngủ giấc ngủ rất sâu. Chú dế con trên mộ cất lên tiếng hát ri ri, một bài hoan ca giữa trời đất thanh bình như là chưa hề có chuyện ghê gớm mới xảy ra.


Nguyễn Văn Thiện
Born: 1975
Home town: Anh Sơn – Nghệ An
Master in Comparative Literature and Critical Theories
Currently a high school teacher, and a prolific writer.
Editor of Chư Yang Sin (Đắk Lắk) Art and Literary Journal.

Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.

dementia | Nguyễn Văn Thiện

A short story in Vietnamese by Nguyễn Văn Thiện
Translator: Nguyễn Thị Phương Trâm 
Art: Đinh Trường Chinh

 DEMENTIA

You wake up one day, with a broken mind. You read about such things but never believed it. You’re full of doubts, you know after every cloud there’s another, and each gust of wind swallows the other. When you discover that you no longer know our place, because you found after forty years in the same skin covering the same meat and bone, vaguely that, when the mind is gone, you are gone!

Momentarily, a thunder of dragons is raiding your mind like a string of wild horses, with absolutely no image of a past. A hurtful past, you could barely remember, could such sadness leave no mark?

You saw yourself walking on snow in a Cossack. The mead had turned cold, but a flame ignited within you? In revenge, you cut your stomach open, exposing all that gut-wrenching longing and heartbreak. But now, senile, no way of determining the reason for such vile, vicious intent. You’re just a joke with some need to open your stomach, like a samurai, what for, and for what!

When the mind is gone, your shadow is long and stretched out.

When the mind is gone, it is directionless.

When the mind is gone, the four corners of your world is a thick grey fog.

Time on the side of a dark alley, awaiting spring is like a foggy reflection in your eyes.

When the mind is broken, your recall is exiled, the images of your memory frozen, square, confused, like those (1)coffins in a row waiting in protest for a fight to move. From inside them, crawled a hardened solid sound. You recognised it, a familiar song, exceedingly unbending like the copper arrow from (2) u Lạc; a nation embittered in sufferance.

Have you heard of such, or seen?

When the mind is broken, you don’t have friends. On this earthly maze, left are writhing lonely souls crying out for restitution. The statues by the side of the road abandon their solemn faces, standing there laughing as though possessed. A row of busy footsteps creeps up from behind unbeknownst, whom.

Who wants to reclaim their land, who wants to reclaim their sea, who wants to reclaim their peace, who wants to reclaim their choice to live?

You don’t know.

You’re like a quiet puddle by the road, reflecting the shadows of clouds, the wind, birds flying in the sky. But, without eddies nor waves, even with the passing wind!

You’re not alone. There’s an entire generation, forgotten or not, frivolous, oblivious. An age of living a life skin deep, knowing not your place amongst the pits and potholes. Do you know why? Who’s to blame? Perhaps you already know, acknowledged, that evil. But now you don’t seem to recall. The row of rushing degenerates beneath your feet, a busy horde of crows at an open grave, fighting to talk, eat, shred and tear at dead flesh. Do you know who they are? You couldn’t recall either. It’s an inhabitable age when worms and maggots want to grasp the idea of becoming human.

Now, silently from the hollow of your eyes, your nose, your ears arise a mass of thousand threads of root fibres, like the roots of a banyan tree by the riverside in your village. Each time spring is around the corner, the roots twist and turn penetrating, causing pain. You sat listening to the ox tapping their hooves chewing over and over again age-old blood-soaked memories. You can’t remember which Lunar New Year it was, you can’t remember turning how old, that night so cold when we harangued each other into going to the festival. Now since the mind broke, you can certainly vaguely smell the tiết canh (3) like a verse in a song you heard at the side of the road in passing. Going but nowhere to go, coming but nowhere to go to, in the hollows of your eyes your ears the roots continue to grow thick twisting turning ancient, the body of the words disintegrated in pieces fell. You cried, hey self! 

Everyone wants an anchor of love to endure a hazy one hundred years. The mind has frozen shut, and your soul is like a graveyard full of tombstones, so you quietly wait for self to step forward, then together hand in hand you can leave this maze called life.

I reside here self waiting for me here yeah! 

October 2018

(1) Empty coffins were bought and placed at the front of homes in protest, due to lack of compensation from authorities for land taken.

(2) U Lạc was a Vietnamese state from 257 BCE to 179 BCE/AD, northernmost of Vietnam. Ruled over by An Dương Vương after King Hùng Vương was defeated. Ref: Wikipedia. 

(3) Tiết canh: a delicacy made of freshly congealed duck blood garnished with duck’s liver, heart etc. and herbs.

Trí não suy tàn

Một sáng nào thức dậy, ta thấy hình như trí nhớ lụi tàn. Ta từng đọc ở đâu đó về căn bệnh này nhưng chưa bao giờ tin nó có thật. Ta vốn nhiều hoài nghi, mà mây thì hết lớp này đến lớp nọ trôi qua, mà gió thì hết lớp này đến lớp nọ tràn qua. Khi ta không còn định vị được mình đang ở đâu, vì lẽ gì lại tồn tại thịt xương đến bốn mươi năm trần thế thì ta lờ mờ nhận thấy, khi trí nhớ lụi tàn, ta thực sự chênh vênh!

Bây giờ, hàng đàn hàng lũ rồng rắn kéo qua trong đầu ta như xe ngựa đèn cù, mà tuyệt nhiên không có hình ảnh nào của thời quá khứ. Quá khứ buồn đau, ta chỉ mang máng thế, nhưng không lẽ đau buồn cũng kéo nhau đi ra khỏi vùng kí ức mà không để lại dấu vết hay sao?

Ta thấy mình đội mũ lông cáo trắng tinh bước đi trên tuyết. Thảo nguyên mùa này đã trở lạnh, mà sao mình không còn thắp lửa trong tim? Ta từng thèm mổ bụng moi gan ai đó để trả thù những năm tháng đau thương chất chồng nhung nhớ. Nhưng bây giờ, khi trí nhớ lụi tàn, ta không còn xác định được nguyên nhân vì sao ta lại có ý tưởng điên rồ độc ác đến vậy. Giờ ta chỉ muốn mổ bụng moi gan mình, như một hiệp sĩ phương Đông trông chết cười ngạo nghễ, để làm gì, không biết!

Khi trí nhớ lụi tàn, hình bóng mình xa lắm.

Khi trí nhớ lụi tàn, ta không biết sẽ đi đâu.

Khi trí nhớ lụi tàn, bốn phía đều mênh mông sương trắng.

Thời gian dừng lại bên đường, giương cặp mắt hành khất mù lòa đón đợi mùa xuân…

Khi trí nhớ suy tàn, trí não lưu vong, mọi khái niệm hình ảnh đều bất ngờ đông cứng lại, vuông vức, ngồn ngộn, như những cỗ quan tài xếp hàng chờ cưỡng chế di quan. Từ trong đó, những âm thanh đặc cứng bò ra, thẳng hàng thẳng lối. Ta nhận ra, đó là một câu hát rất quen, thẳng tăm tắp như mũi tên đồng Âu Lạc: Dân tộc này đã quá nhiều đắng cay…

Mình có nghe thấy không, mình có nhìn thấy không?

Khi trí não suy tàn, ta không còn có ai bè bạn nữa. Trên mê lộ trần gian, chỉ thấy vất vưởng những oan hồn quằn quại khóc than đòi trả nợ. Những pho tượng bên đường bỏ quên gương mặt nghiêm trang vốn có, đứng cười nhăn nhở như trúng bùa phép. Nghe văng vẳng sau lưng tiếng bước chân rầm rập mà không biết là đi đâu, không biết là bước chân ai.

Ai mà đi đòi đất đai, ai mà đi đòi biển cả, ai đang đòi yên ả, ai đang đòi áo cơm?

Ta không biết.

Ta bây giờ như vũng nước bên đường, soi bóng gió mây soi bóng chim trời nhưng tuyệt nhiên không hề gợn sóng, kể cả khi giông gió cuốn ngang qua!

Mà không phải riêng mình ta đâu, cả một thế hệ giống ta, quên quên nhớ nhớ, lãng đãng ma hời. Cả một thế hệ áo cơm bện chặt hình người, không định vị được mình đang ở đâu giữa vũng lầy quằn quại. Mình biết vì sao không? Mình biết tại ai không? Hình như ta từng nhận thấy, ta từng biết, ai là kẻ thủ ác. Nhưng bây giờ thì ta không còn nhớ nữa. Những gương mặt già nua đểu cáng xếp hàng chạy dưới chân ta, chen chúc như lũ quạ ngày mở cửa mả, vừa giành ăn giành nói giành cắn xé lẫn nhau. Mình biết họ là ai không? Ta cũng không nhớ nữa. Thời đại hoang vu sâu bọ học làm người.

Bây giờ, trong hốc mắt hốc mũi hốc tai ta có muôn ngàn chiếc rễ đang len lỏi bò qua, như rễ cây đa đầu bến nước nơi quê mình. Những chùm rễ xỏ xiên giáo điều thường làm cho ta đau đớn mỗi khi mùa xuân về ngoài ngõ. Ta ngồi nghe bầy trâu gõ móng liên hồi và nhai lại những khái niệm cũ mèm máu me bê bết. Không còn nhớ là tết năm nào, không còn nhớ ngày ta lên mấy, rét căm căm xô nhau chạy xem chợ tết. Bây giờ khi trí não suy tàn, lại nghe thoang thoảng mùi vị tiết canh trong câu hát bên đường. Đi mà không biết đi đâu, về mà không biết về đâu, trong hốc mắt hốc tai vẫn rễ cọc rễ chùm xỏ xiên cổ thụ, những xác chữ vỡ vụn rơi xuống lả tả. Ta gọi, mình ơi!

Ai cũng cần một tình yêu để tồn tại qua khoảng đất trời trăm năm mờ mịt. Trí não đóng băng rồi, tâm hồn ta như một nghĩa trang bừng bừng mộ chí, đành phải ngồi im để chờ mình bước đến, chìa bàn tay dắt ta ra khỏi mê lộ trần ai.

Ta ngồi ta đây mình chờ ta nhé!


Nguyễn Văn Thiện
Born: 1975
Home town: Anh Sơn – Nghệ An
Master in Comparative Literature and Critical Theories
Currently a high school teacher, and a prolific writer.
Editor of Chư Yang Sin (Đắk Lắk) Art and Literary Journal.

Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.

those who do not know how to laugh | Nguyễn Văn Thiện

A short story in Vietnamese by Nguyễn Văn Thiện
Translator: Nguyễn Thị Phương Trâm 
Art: Đinh Trường Chinh

There is nothing beyond the capacity of being human! I thought confidently, after swallowing three cans of 333 beer. This extremely grovelling lost hope that humanity could also be glorious. Evident in the blind man walking around selling broomsticks in the streets, he doesn’t need to see where he’s going! My eyes are like blaring stadium lights, but after just a few drinks I manage to lunge into a man coming from the opposite direction. I grunted: “Are you blind?”. His eyes wide, angry: “Are you blind?”. I’m scratching my head and burst out laughing as though someone was tickling my armpits. He simply glared, he was as cold as ice: “Drunk after a few 333, forget it!”. I laughed even louder. He snapped: “I told you, laugh all you want. Only fools like you laugh!”. His insult was a little excessive, but I let it go, his eyes were sharp like daggers, flaring fire.

Life is a series of serendipitous events. If not then how could two random blokes bump into each other like that? We’re accidental traveller companions on a boat or train or some kind of journey like that. And surprisingly most of my traveller companions do not know how to laugh. A sense of humour is no different to foreplay, it’s not fun at all without a companion, and there’s no joy in laughing alone.

On a serendipitous boat trip, I was introduced to a bunch of characters, there was a man who introduced himself as Friends Of Kings, an attractive young woman with a twisted leg, her name was Princess Reminiscent, a middle-aged man driving the boat, his name was Professor Of Professors, and about a dozen other nameless people. Their faces were as serious as though their faces were directly lit up by moonlight, I thought they were a row of marble statues straight from the Pyramids in Egypt, or faces of docile faithful slaves from an Eastern era long gone.

I thought to myself, it’s a long trip, the landscape often monotonous, sometimes a little choppy, and they’re this serious, how were they going to survive the entire trip? So I shouted: “The King and a blind man got lost and ended up catching some contagious rash! Haha…”. Immediately Friends Of Kings pulled out his sword, and aimed it at my throat: “How dare you defame the king, do you want to die!”. I argued:” I was just joking, plus, there’s no King here?”. “You tried to defame the King in front of me, Friends Of Kings, how dare you deny it?”.

I was quiet, even though I was annoyed. Perhaps Friends Of Kings is also blind lost and delirious.

I thought: The sword is aimed at my throat, there’s no escaping it? When it comes to death if there was a choice, would you choose to die in the most interesting way or just simply sadly disappear? Interesting should be the better choice! I took off all my clothes and ran around the boat in the moonlight. I lent my voice to a folk classic, adding dramatic gestures: “Princess Reminiscent twisted her ankle running away from the Professor Of Professors because he tried to fondle her breast. A humble farmer with sagging breasts, not even 20 but had already loved 5 burly blokes aah ahh… Friends Of Kings has horns on his head, each time he walks you’re not sure if he’s an ox or a cow…”.

All three of them chased after me, as I ran around and around the boat, the lyrics playfully rolled off my tongue, and I was smiling from ear to ear.

Princess Reminiscent was so angry she was baring her teeth, frothing at the mouth like a pig. One of the Princess’ legs was shorter than the other, and after two rounds around the boat, she tripped and fell. Professor Of Professors right behind did not stop in time, and fell straight on top of her. An unexpected timely comedic event. The Professor’s pants were ripped almost to the groin, a huge commotion, hilarious! Friends Of Kings has since not stopped cursing and his military precision on character assassination of me. I said: “stop going after me, Princess has bled for two days already…”. Immediately Professor Of Professor and Friends Of Kings stopped, covering their faces with both of their hands, as though they didn’t want to see, they were visibly disgusted.

They stopped going after me as they stopped to help each other get up. They proceeded to cry, loudly, audibly! Oh dear god, the poor thing! I tried to add in a panic: “Oh oh sorry, I was just joking!”. Professor Of Professors angry: “Joking, you’re joking, you made me rip my pants, you’re going to have to pay for this!”. I consoled him: “Why don’t you wear my pants for the time being!”. “What are you going to wear?”. “I don’t have to wear pants, it’s hot!”. Princess Reminiscent screamed: “No, you can’t be pantless in front of the King!”. Friends Of Kings dropped to his knees, mumbling: “Long live the king, long live the king!”. I looked around and there was no king to be found. Professor Of Professors announced: “The King is with us at all times, anywhere and everywhere, long live the king!”.

I sneered: “Long live whatever the heck…”.

Friends Of Kings announced solemnly: “We must accept this holy war, we must destroy those who blaspheme against the saints!”. The dozen all so statues shouted in unison: “Holy war!”. I believe: In life, everything ends with death, the difference here is either fast or slow, that is all. I stood in the middle of the boat: “If you all laugh now together, I will surrender, and die immediately without further argument!”.

No one laughed. On this boat, no one smiled. How strange, right? They relished the weightiness, and solemnity, why? Maybe it was a secret they share?

Laughter can diffuse a tense situation, and avoid bloodshed, then why would they refuse to laugh? No one would be so quick to judge other people if they were having fun, right? I’m finding it really hard to understand! Resigned, I said: “Fine, enough jokes,  I don’t want to be around you guys anymore. This is a boat full of ghosts, you guys are embalmed corpses ready for burial!”.

I jumped straight off the boat into the river, I didn’t care if it was dirty and full of leeches or what. I floated face up, drifting alongside the boat. Now, I’m an outsider, abandoned by the world for my placeless humour, and my desire for joy.

With no one to play with, I turned my attention to the fish. They followed me picking at my hair, waving their tails, and snuck into my armpits, circling each leg. The school of fish, compared to the people on the boat, they were more entertaining. I asked the school of fish: “do you guys know why…?”. The fish shook their heads.

On the boat, the embalmed corpses continued to address each other solemnly.

“Have you ever seen a king?”.

“No”.

“Then, how come you’re Friends Of Kings?”.

“My mother named me that”.

“Your mother is of royal blood?”.

“My mother is a rice farmer”.

“A farmer?”.

“Exactly”.

“Me too, my mother is an expert when it comes to ploughing and collecting duckweed to feed the pigs”.

“Then, how come your name is Princess Reminiscent?”.

“My mother said, with a name like that I can hold my head up high when it comes to other people, I was born with this bad leg”. 

Ah, as it turns out. There has never been a king, queen or any kind of important entity travelling with me at all. A bunch of con artists, a bunch of farmers with fancy names trying to deceive other people, so they can have the boat for themselves, and have it their way. They don’t like games, they don’t like laughter, and they prefer to be serious because they’re worried about making mistakes, dropping their hats, their tops, and their slippers. They were worried about me seeing their true face. No wonder Professor Of Professors jumped on top of Princess Reminiscent when she fell and Friends Of Kings used his jacket to cover her up. I screamed: “What a bunch of liars and swindlers, haha…”.

Startled, they turned and looked at me solemnly, calmly and coldly as the boat veered away. All I wanted to say to them was: Your boat has nowhere good to land, because out there, the is nothing but a deep dark hole, but it was too late.

They were already gone.

_____

Những kẻ không thích đùa

Truyện ngắn  Nguyễn Văn Thiện

Không có gì ngoài khả năng của con người! Sau khi uống hết ba lon bia 333, tôi cao hứng nghĩ. Con người rúm ró vô cùng nhưng cũng vĩ đại vô cùng. Bằng chứng là những người mù đi bán chổi tấp nập trên đường phố, họ có thèm nhìn đâu mà vẫn thấy đường đi! Trong khi, mắt tôi như đèn cao áp trong công viên thành phố, thế mà hôm qua đi nhậu về lại đâm sầm vào gã đi bộ ngược chiều. Tôi hỏi: “Mày mù à?”. Gã cũng bặm trợn trừng mắt: “Mày mù à?”. Tôi đưa tay xoa xoa vầng trán u rộng rãi và cười như bị thọc nách. Gã vẫn không cười, gã nói lạnh băng: “Loại mày, uống 333 mà cũng say, tao không chấp!”. Tôi càng cười to hơn. Gã gắt: “Đã bảo tao không biết cười. Cười như trâu hít bẹn!”. Lão chửi hơi ác, nhưng tôi không dám chửi lại, nhìn mắt gã như dao, tôi biết, tôi nhịn.

  Cuộc đời này là tổ hợp một chuỗi tình cờ. Không tình cờ thì làm sao mà hai thằng đi bộ trên vỉa hè lại đâm sầm vào nhau được? Chúng tôi tình cờ đi với nhau trên một chuyến xe hoặc một con tàu hoặc một hành trình đại loại thế. Cũng tình cờ mà tôi biết, hầu hết những người đi cùng tôi không biết đùa và không thích đùa. Đùa, cũng như yêu đương vậy, phải có đối tác mới vui, đùa một mình chán chết…

  Trên chuyến tàu tình cờ ấy, ngoài tôi ra, có một người tên là Bạn Của Vua, một cô gái xinh đẹp nhưng bị trẹo chân, tên là Hoài Niệm Công Chúa, một gã trung niên cầm lái, tên là Thầy Của Thầy, và hơn chục nhân mạng vô danh khác. Mặt họ nghiêm trang đến mức, khi mặt trăng soi vào, tôi tưởng đó là dãy tượng cẩm thạch đâu tận bên các Kim Tự Tháp hiện về, hoặc là gương mặt của dãy bề tôi trung thành tin cẩn túc trực bên giường bệnh của các bạo chúa phương Đông thuở trước chưa xa.

Tôi nghĩ, đường thì xa hun hút, có khi trời yên biển lặng, có khi bão tố phong ba, mặt cứ lạnh băng như đá thế này, làm sao chịu nổi? Tôi hét to: “Vua là một thằng mù lạc đường bị da liễu nhiễm trùng! Ha ha…”. Ngay lập tức Bạn Của Vua tuốt gươm ra kề vào cổ tôi: “Mày dám mạo phạm vua, tội chết!”. Tôi cãi: “Tôi chỉ nói vui thôi, với lại, ở đây có ai tên là Vua đâu?”. “Mày dám đặt điều bôi bác Vua trước mặt tao, Bạn Của Vua, mày còn dám cãi?”.

  Tôi im lặng, nhưng bụng vẫn ấm ức. Có khi Bạn Của Vua cũng là một thằng mù lạc lối nhiễm trùng…

  Tôi nghĩ: Gươm đã kề bên cổ, chạy đâu cho khỏi chết. Nếu phải chết, bạn sẽ chọn cho mình cái chết thật vui hay thật buồn? Đương nhiên rồi, vui vẫn hơn! Tôi cởi quần áo ra chạy vòng quanh trên boong tàu đầy ánh trăng. Tôi hát vọng cổ, tôi múa nghê thường: “Con Hoài Niệm Công Chúa bị trẹo chân vì bị Thầy Của Thầy rượt theo bóp vú. Đó là một cô gái bần nông vú sệ, chưa đủ tuổi 20 mà yêu tới 5 thằng ằng ằng… Còn Bạn Của Vua trên đầu có sừng, mỗi lần bước đi thì không biết là trâu hay nghé…”.

  Cả ba đứa rượt theo, tôi vẫn chạy vòng tròn, có khi lượn chữ “chi” ngoắt ngoéo, miệng cười vui vẻ.

Hoài Niệm Công Chúa tức đến nỗi miệng méo xệch, nước bọt tràn ra hai bên mép như mép lợn lòi. Chân của Công Chúa bị thọt, nên chạy được hai vòng thì vấp ngã. Thầy Của Thầy chạy sát sau, dừng không kịp, ngã đè lên. Một vụ tai nạn khôi hài ngoài dự tính. Quần của thầy bị toạc gần đến háng, lôi thôi củ quả, vui ghê! Bạn Của Vua không ngớt lời nguyền rủa tội khi quân phạm thượng của tôi. Tôi nói: “Đừng đuổi nữa, Công Chúa bị chảy máu hai ngày rồi…”. Lập tức Thầy Của Thầy và Bạn Của Vua dừng lại, hai tay ôm lấy mặt, không dám nhìn, tỏ ý kinh tởm.

  Họ dừng lại, không đuổi nữa, giúp nhau đứng dậy. Rồi họ khóc, khóc rõ to! Trời ơi, nhìn thương quá! Tôi nói lí nhí: “Tôi xin lỗi, tôi chỉ đùa thôi!”. Thầy Của Thầy chửi: “Đùa mả mẹ mày, làm tao rách quần, đền đi!”. Tôi đề nghị: “Thầy lấy quần tôi mặc tạm vậy!”. “Thế mày mặc bằng gì?”. “Tôi cởi truồng cũng được, trời đang nóng!”. Hoài Niệm Công Chúa hét to: “Không được, cởi truồng trước mặt Vua là khi quân!”. Bạn Của Vua quỳ xuống, lẩm nhẩm: “Hoàng Thượng vạn tuế, vạn tuế!”. Tôi nhìn quanh vẫn không thấy vua đâu hết. Thầy Của Thầy nói: “Vua ở bên cạnh chúng ta mọi lúc mọi nơi, vua muôn năm!”.

  Tôi nói: “Muôn năm con kẹc í à…”.

Bạn Của Vua nói: “Phải chấp nhận một cuộc thánh chiến, tiêu diệt kẻ dám phỉ báng thánh nhân!”. Mấy chục nhân mạng đồng thanh hô to: “Thánh chiến!”.
Tôi nghĩ: Cuộc đời, cuối cùng sẽ kết thúc bằng cái chết mà thôi, vấn đề là nhanh hay chậm. Tôi đứng giữa boong tàu nói: “Nếu tất cả các ngươi cười lên một phát, tôi xin đầu hàng, xin chết ngay miễn bàn!”.

  Không ai cười hết. Trên chuyến tàu này, không có nụ cười nào hết. Quái gở nhỉ? Họ thích trang nghiêm, trầm trọng để làm gì nhỉ? Phải có một bí mật nào đó mà tôi chưa biết?

  Nếu cười lên một tiếng mà tránh được can qua, tránh được đổ máu, tại sao họ lại không cười? Tại sao họ lại hung hăng kết tội người khác chỉ vì họ muốn đùa cợt vui vẻ? Khó hiểu quá! Tôi nói: “Thôi, đùa vậy đủ rồi, tôi không thèm đi chung với các ngươi nữa. Con tàu này là một con tàu ma, các người là những xác ướp chưa chôn!”.

  Tôi nhảy ùm xuống sông, mặc cho nước trôi cá rỉa đỉa leo. Tôi nằm ngửa, trôi song song cạnh con tàu. Bây giờ, tôi là kẻ ngoài lề, kẻ bị thế nhân ruồng bỏ chỉ vì tội ham vui không đúng lúc đúng nơi.

  Không có ai chơi cùng, tôi đùa với lũ cá. Chúng bơi theo rỉa lông, xôn xao quẫy đuôi, cù vào nách, lách qua háng. Lũ cá này, so với lũ người kia, vui tính hơn nhiều.  Tôi hỏi lũ cá: “Tụi bây có biết vì sao…?”. Lũ cá lắc đầu.

Trên tàu, những xác ướp vẫn chuyện trò một cách nghiêm trang.

  “Ông thấy vua bao giờ chưa?”.

  “Chưa”.

  “Sao tên của ông lại là Bạn Của Vua?”.

  “Mẹ tôi đặt thế”.

  “Mẹ ông là quý tộc?”.

  “Mẹ tôi làm nghề trồng lúa nước ven sông”.

  “Nông dân à?”.

  “Chính xác”.

  “Tôi cũng vậy, mẹ tôi biết cày bừa và vớt bèo nuôi lợn”.

  “Vậy sao tên của ngươi là Hoài Niệm Công Chúa?”.

  “Mẹ tôi nói, đặt tên như vậy để tôi mở mày mở mặt với thiên hạ, chân tôi bị tật bẩm sinh”.

A, thì ra là thế. Không hề có vua chúa hoàng hậu với thầy bà gì ở đây hết. Một bọn lừa đảo, một bọn nông dân chính hiệu mượn tên mượn áo để lòe bịp, để giành lấy con tàu và lái đi theo ý chúng. Chúng không dám đùa, ghét cười cợt, thích trang nghiêm vì sợ vấp té, sợ rơi áo rơi mũ, tuột giày. Chúng sợ tôi nhìn thấy gương mặt thật. Hèn gì khi Công Chúa ngã xuống thì Thầy Của Thầy ngã nhào lên và Bạn Của Vua thì lấy áo che. Tôi hét lớn: “Bọn lừa đảo không biết cười, lêu lêu…”.

Chúng giật mình, ngoảnh lại nhìn, sau đó thì vẫn trang nghiêm, điềm tĩnh, lạnh lùng lái con tàu đi mất. Tôi chỉ muốn nói với chúng rằng: Con tàu ấy, sẽ không có một bến bờ tốt đẹp, vì phía trước là vực thẳm, sâu hun hút, nhưng mà không kịp nữa. 

Chúng đã đi rồi.


Nguyễn Văn Thiện
Born: 1975
Home town: Anh Sơn – Nghệ An
Master in Comparative Literature and Critical Theories
Currently a high school teacher, and a prolific writer.
Editor of Chư Yang Sin (Đắk Lắk) Art and Literary Journal.

Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.

Long crazy days | Nguyễn Văn Thiện

A short story in Vietnamese by Nguyễn Văn Thiện
Translator: Nguyễn Thị Phương Trâm 
Art: Đinh Trường Chinh

I would pick a leaf, wedging it on my earlobe, flat on my back listening to the wind sing. Would you like to try it sometime? Amid the troublesome racket, spare an afternoon to lie on the lawn, all ears to the wind in a melody, what’s more desirable, more desirable than that! Forget the hairy hands, the compassionate faces, forget those who steal identities and ransack your memories.

This afternoon, on mount Chư Mang I lay listening, fell asleep unsure when. When I woke, the leaves had stopped singing, so did the wind — the sweet melodic sound hid. The Sun has gone to a far off place. The clouds directionless, no longer trouble-free, chaotic, random, a hindrance!

I sang like a bird stretching its neck in song: “It’s deadly quiet, where’s everyone?”.

There are those leaders partial to being at the top. The mention of the summit, humanity, the world etc. and they jump up and down applauding unknowingly, that the peak is a reflection imprinted at the bottom of a lake. Like this afternoon, for instance, wind and the Sun absent, Mount Chư Mang shadow fell deep beneath the river Năng. A still image without sound, tight lip inaudible, more preferable than applauds of lies and delusions, correct?

I discovered: between me, and everybody else is a pitiful dark divide, and there’s no way ever to fill it. I’m like a bat upside down choosing to hang bums up, peering into the blackness looking for the heart of the planet. As for up there, I’ll leave it for them, I already know.

A madman frequently passes the corner where I get my coffee. His hands were covering his ears, in a hurry. He heads towards Sixth Avenue; there’s a tank, its cannon pointing towards the sky. He always walks with purpose; thirty minutes later’ he turns up at my corner, having circled the city. I called out to him, but he was unbothered, both hands still covering his ears, and continued to walk.

Can there be anything crazier? Was he avoiding chaos by taking to the streets? More running than walking, both hands on his ears. I ran after him, tugged him on the sleeve, shouted:” Hey, where are you going?”. Startled awake, dazed, broke out in laughter:” higher, higher, nearly there…” After answering, he covered his ears again, then ran. 

He was not alone; his madness infected the city! They lined up snaking behind him, half walking half running, not just covering their ears, but nose eyes as well, very funny! I shouted, “Hey, what’s happening?”. This time no one answered. I was officially outlawed. Again I picked a leaf, wedging it on my earlobe. From inside echoed eerie laughter. Why is that?

This morning there was a strange light, gold like the faces of natives from the land of fire, parting the clouds unforeseen peered down. Covering their eyes, ears, nose, the people kept walking. The cannon still pointing skyward like some heroic promise, the protagonist in a piece of chaotic literature about life forcefully moving forward.

My letters entertained the idea of a handstand. But I know, their bones are brittle, fragile, if not careful, they’ll be a day. I thought, but there’s no way of stopping them. Since I’m upside down, how can I ban them from doing handstands? Hence, whatever will be will be. They walk with their hands like circus performers, following the people in a rush. The words were crowding together at the foot of the cannon, looking for something, deliberate, and careful, like a psychic paid to look for remains. They excitedly boast, deep beneath the fountain, deep in the earth, there’re people, not sure if they’re dead or alive. I laughed but said nothing. It was an inside joke. In that river of people in the street, some refuse to die, though they should have long ago. Hence in the depths, there are those who are no longer alive, when they are supposed to be living. What a bewildering predicament, right? But life, when is it easy to grasp, to belong, to remember like a spelling test! Conceptualised antagonistic ideas, morphing in such a chaotic manner full of improbabilities?

One day, those manic letters agreed on a mass suicide! They were shot from the cannonball, exploding; their bodies bloated floating on the surface of the lake!  The cannon is still pointing skyward, like some long lost anthem.

The blind madman suddenly stopped: “Hey, any news? They’re all dead…”. Then, continuing on his way, the people followed him. I came out to watch and saw the swollen bloated letters. I climbed, wedged a leaf on the lobe of the tank.

It’s not the songs of the wind, not a single soothing cloud, the strange sound reaching for the sky, no different to the sound of a cannon.

I asked: “Hey, who created this incredulous monstrosity?”. No answer, just a sharp explosion of cannonballs up high spitting shrapnel hitherto. In a corner, blood-soaked wounded bodies pulled each other to safety, like the shadows of ghouls.

Like a dream – you said. Like a nightmare – I admitted. The fact of these ludicrous laws of humanity; in the right to exist, you end up fighting with yourself, you die! Correct? In the end, the letters will perish as they always do, people will die, and the guns will never stop.

The long crazy days will adamantly follow.

[February 2019]

Những ngày dài điên loạn

Tôi ngắt một chiếc lá, giắt lên vành tai, và nằm nghe gió hát. Bạn có muốn thử không? Giữa bao nhiêu âm thanh nhộn nhạo phiền phức này, dành một buổi chiều nằm ngang sườn cỏ, vểnh tai lên mà nghe gió lá hát với nhau, còn gì thú vị hơn thế nữa! Quên các bàn tay lông lá, quên các gương mặt nhân từ, quên nốt những bọn đánh cắp tên người và bọn lục tung ký ức, nghe thôi…

Chiều nay, tôi nằm nghe trên núi Chư Mang, rồi ngủ luôn lúc nào không biết. Khi tỉnh dậy, thì lá không hát, gió cũng không hát nữa. Tiếng véo von ngọt ngào trốn biệt đi đâu mất. Mặt trời đã đi về tận đâu xa lắm lắm. Những đám mây hành hương đi lạc, không còn thành hàng thành lối, lộn xộn, vô minh, nhìn mà tội!

Tôi cất tiếng, như con chim ngửa cổ hót chơi: “Đi đâu cả rồi mà lặng im thăm thẳm?”

Có những cái đầu, rất thích đỉnh cao. Hễ nói đến đỉnh cao, nhân loại, thế giới, kỷ lục vân vân là y như rằng họ nhảy cỡn lên vỗ tay mà không hề biết rằng, ngọn núi cao ấy thực ra là bóng in sâu nơi đáy nước. Như chiều nay chẳng hạn, khi gió và mặt trời đi vắng, thì núi Chư Mang đổ bóng sâu thăm thẳm dưới sông Năng. Thôi thì chằng thà là còn hình mất tiếng, có miệng như câm, còn hơn là ngồi vỗ tay hát ca những lọc lừa dối trá, phải không?

Khi tôi phát hiện ra điều này thì tôi biết: Giữa tôi và số đông cuồng tín đã có một vực thẳm ngăn cách, không thể nào san lấp được. Tôi bây giờ như một con dơi ngạo ngược chọn cách treo mình lộn ngược hoặc chổng mông lên trời, để nhìn sâu xuống dưới chân, xem lòng đất dày đến cỡ nào, xem đáy nước sâu đến chừng nào. Còn phía trên cao ấy, để dành cho mọi người khám phá, tôi thì tôi biết rõ rồi…

Chỗ góc đường nơi tôi vẫn thường ngồi uống cà phê, có một gã khùng thường đi qua. Gã đưa tay bịt lấy hai lỗ tai, mải miết đi, làm như đang vội lắm. Gã đi ra hướng ngã Sáu, nơi có chiếc xe tăng nòng đang chĩa lên trời. Tưởng gã đi công chuyện gì, nhưng không phải, chừng ba mươi phút sau lại thấy gã, hoá ra, gã đi vòng quanh thành phố. Tôi gọi nhưng gã không thèm nghe, hai tay vẫn bịt lấy hai tai, đi tiếp…

Có ai khùng hơn vậy không? Đã không muốn nghe những cuồng loạn sấp ngửa thì ra đường làm gì? Đi như chạy, hai tay bịt hai tai. Tôi chạy theo, níu áo, hét: “Này, đi đâu đấy?”. Gã bừng tỉnh, mắt ngơ ngác, mở miệng ra cười: “Lên cao, lên đỉnh cao, sắp lên rồi…” Nói xong, lại tất tả bịt tai lại, đi như chạy…

Không phải chỉ có một mình gã ấy khùng đâu, hình như cả thành phố này cũng lây khùng từ gã! Họ sắp hàng rồng rắn phía sau, vừa đi vừa chạy, không chỉ bịt tai, mà còn bịt mũi bịt mắt nữa, vui lắm! Tôi hét: “Này, làm trò gì thế?”. Lần này thì không ai trả lời nữa. Tôi chính thức bị tẩy chay. Tôi lại ngắt một chiếc lá, giắt vào vành tai. Từ trong ấy vọng ra tiếng cười ma quái rờn rợn.

Sao thế nhỉ?

Màu nắng sáng nay lạ lắm, vàng như mặt người xứ lửa, bất ngờ rẽ mây nhìn xuống. Đoàn người vẫn bịt mắt bịt mũi bịt tai đi. Nòng pháo vẫn lạnh lùng chĩa thẳng lên trời như một lời khẳng định hùng hồn, rằng, nó mới đúng là nhân vật chính trong một áng văn điên loạn về cuộc sống đang cuồn cuộn lao tới…

Những con chữ của tôi, chúng thích chơi trò trồng cây chuối. Nhưng tôi biết, xương chúng giòn, dễ gãy, không cẩn thận, rồi cũng có ngày… Nghĩ thế, nhưng không làm sao mà can ngăn được. Trong khi tôi chơi trò lộn ngược hàng ngày, làm sao cấm chúng trồng cây chuối? Thôi thì, đến đâu hay đó. 

Chúng đi bằng hai tay, như diễn viên xiếc, theo đoàn người hối hả trên đường. Rồi chúng túm tụm dưới nòng pháo, tìm thứ gì đó, nhẹ nhàng, tí mẩn, như một nhà ngoại cảm tìm hài cốt lấy tiền…

Rồi chúng hớt hả về khoe với tôi rằng, sâu dưới bể phun nước, sâu dưới đất ấy, có người, không biết là còn sống hay đã chết. Tôi cười cười, không nói gì. Tôi biết trước rồi. Trong dòng người cuồn cuộn trên đường kia, có những người không chịu chết, đáng ra họ đã chết rồi. Thì dưới sâu kia, có những người không sống nữa, trong khi đáng ra họ đang sống. Tù mù rối rắm lắm phải không? Thì cuộc sống, có khi nào dễ hiểu dễ thuộc dễ nhớ như một bài tập đánh vần đâu! Những khái niệm tưởng chừng đối lập nhau, lại chuyển hóa một cách hết sức lộn xộn và đầy ngẫu hứng…

Rồi một ngày kia, những thằng chữ hiếu động đồng loạt tự sát, một cuộc tự sát tập thể! Chúng trèo lên nòng pháo và đâm đầu xuống bể nước, xác nổi lềnh bềnh! Nòng pháo vẫn chĩa lên trời cao, như một bài hát trong quá khứ…

Gã khùng đang bịt mắt đi vòng quanh chợt dừng lại hỏi: “Này, biết tin gì chưa? Chúng nó chết hết rồi…”. Nói xong, gã đi tiếp, đoàn người phía sau cũng đi tiếp. Tôi chạy ra xem, thấy xác chữ đã trương phình. Tôi trèo lên, cài một chiếc lá vào vành tai chiếc xe tăng…

Không phải gió hát, không phải mây ru, những âm thanh kỳ lạ vút lên cao, không khác gì tiếng súng…

Tôi hỏi: “Này, ai đã tạo ra sự quái gở vĩ đại này!”. Không có tiếng trả lời, chỉ có tiếng súng hỗn hào sủa váng động. Tôi nhìn xuống hồ nước, thấy hàng trăm nòng pháo đang dốc ngược và say sưa nhả đạn. Theo một góc chiếu thẳng đứng, những xác người máu me bê bết đang dắt nhau chạy trốn, như những bóng ma…

Như một giấc mơ – bạn nói thế. Như một ác mộng – tôi xác nhận. Cái quy luật quái gở của nhân loại: Đánh nhau với đối thủ để tồn tại, sau đó, tiếp tục đánh nhau với đồng bọn để tồn tại, và cuối cùng là đánh nhau với chính mình, để chết! Đúng không? Vì vậy, cuối cùng thì những thằng chữ huênh hoang đã chết, người cũng sẽ chết, và súng thì không ngớt hỗn hào…

Những tháng ngày điên loạn cuốn nhau đi. 

Nguyễn Văn Thiện
Born: 1975
Home town: Anh Sơn – Nghệ An
Master in Comparative Literature and Critical Theories
Currently a high school teacher, and a prolific writer.
Editor of Chư Yang Sin (Đắk Lắk) Art and Literary Journal.

Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.

HORSES, PEOPLE, WHITE CLOUDS | Nguyễn Văn Thiện

A short story in Vietnamese by Nguyễn Văn Thiện
Translator: Nguyễn Thị Phương Trâm 
Art: Đinh Trường Chinh


I fell asleep on the patio dreaming of people on white horses riding through the trees, atop the canopy. They hovered for a bit before they quietly left, the jittery horses stayed behind, cantering, and dug their hooves into the top of the trees. The horses also never wanted to stay for longer than a moment, since staying, meant they had to put up with the unbearable coolness of the spring breeze. In the morning their hoofprints would stay as fresh as those footprints left behind in the alleyway at the back of the house. But once the horses were gone, in the canopy, where the horses used to be was a grumpy gecko, mumbling, oh for heaven’s sake. Grinding teeth, just a tad upset: “Why didn’t you wake me? Which direction did the horses go?”. The gecko continued grumpily, mumbling, “It’s your fault for sleeping faced down!”. I wanted to throw a rock at it but I stopped myself. I slept with my face in the pillow; I was annoyed, but I must admit I can’t blame anyone else but myself!

I picked out seven seed-bearing fruits and conscientiously planted them in each human and hoof print, covering the holes with dirt and dust, then I waited.

I thought once the seedlings began to show, I would then go home. Those seven seeds, couldn’t all be duds, couldn’t possibly, my life, can’t be that unlucky! I chased the gecko away: “Go! I don’t want to listen to your pathetic whining”. Determined, I grabbed the tail of a silver cloud and begged: “Hey, please rain for me, right over here!”. The cloud left leaving behind its disdain. Recklessly, I took a hold of an amber ray of sunlight: “Hey, bless us with your light over here, please!”. The vain, lazy beam of light just shrugged itself from my grasp, got up, and left.

It didn’t stop me. Alone, I will make it rain, and alone I will make my light. My sweat will be the rain, my eyes the source of light, my breath the wind. The seedlings will germinate.

It felt as though the laden tiresome dreams came nearly every night, it would begin with the sound of footsteps and then the clatter of beating hoofs. And then unexpectedly, I can’t remember exactly when the green leaves broke through, they popped their heads through the earthy soil cap, and they were greener than hope. I fell back, right onto my backside, laughing out loud, I proceeded to sing a glorious melody of love.

But, the taller the tree grew, the more gangly it became, and towards the end, it was more like a bunch of knotted vines stretching for the sky.

I persisted. Even when the tree began to show no promise, alone I toiled to make it rain and light. When it comes to love and devotion I would wait another year, I could wait till next January!

The very first petals finally bloomed, they were white with hints of pink, and they were in the shape of a horse’s shoe, like the shape of perfumed lips, remnants of laughter.

I was wandering around the house, idled, dying for a drink, but I was too afraid to leave the house, I get to be a happy drunk but I might miss the people and their horses — the hoofs were like stilettos dancing on the tin roof.

Waking up day after day as though I was sleepwalking, I would automatically look for those hoofed petals. The flowers were always there, perched like they have just fallen from the sky, delicate new blooms full of anxiety.

As spring passed us by, the wind rolled across the meadow, chafing our lips. One morning after the Sun was finally awake, I stepped outside, as usual looking for my flowers, to find them gone. I suspect the wind had whisked them away like an accidental appropriation or collusion flipped over, deliberately abandoned me. 

It was evident! But there was nothing I could do, the flowers were gone. I was again left alone to make rain and light, but this time, I refused to stay and wait alone. This time I wanted another person to keep me company, another person to wait with me.

But there was no one, it made sense since I am a loner, I am unsociable! Solus, me, myself, and I was playing a dangerous game of hiding and seeking. Through the passing comments – I laughed, insults – I smiled, what kind of flower is a hoofed-shaped flower, you’re a fool – as though in a state of incapacitated childishness I laughed. I will never disclose my secrets to anyone. As the hoofprints and footprints of those visitors, they were still fresh, in my foggy web of memory.

In the middle of the night, night after night I found myself waiting for the neighing of those horses in the trees, I waited for some shadowy mirage to attend to my grave, buried dreams, anxiously I pondered if there was anyone out there like me? Carefully, I packed my bag and waited for spring, then I will head for the road, I will leave. The gecko was outside in the alley, as though he was waiting for me the whole time, its eyes followed my every step. I said, stop, stop with your cranky mumbling, especially in the middle of such lonely nights, it’s done, the horses are gone, and they will never come back. The gecko was motionless, but its eyes followed me as though it was trying to tell me something. Then there it was, the strangest thing, on the mouldy skin of the reptile, there were these white petals with hints of pink, they looked exactly like those hoofed flowers, evidence of some kind of celebration!

But what of it, the world is a big place, the sky is high, and the horizon is wide, so forget it I must, I must move on. There was something odd in the air, the wind was pungent with the scent of new grass. Hello, spring!

Ngựa, người, mây trắng

Chiều qua ngủ quên mơ thấy có người cưỡi ngựa trắng về đậu trên tán cây rộp rộp ngoài hiên rồi lại lặng lẽ đi. Người đi rồi, còn ngựa trắng thì ở lại bồn chồn gõ móng. Rồi ngựa cũng không chịu đợi lâu, vì đợi lâu, chắc là không chịu nổi gió xuân mơn mởn nên đã đủng đỉnh đi rồi. Sáng ra thấy vết chân còn mới như in ngoài ngõ. Trên vòm cây rộp rộp, chỗ đêm qua người ngựa đứng chờ, bây giờ đã có một con thằn lằn nằm im chép miệng, trời ơi…

Tôi đay nghiến: “Sao không đánh thức tao? Ngựa đi về phương nào?”. Thằn lằn chép chép chẹp chẹp mãi không thôi: “Ai bảo mày ngủ sấp!”. Tôi nhặt một hòn đá toan ném nhưng rồi lại thôi. Thì tại tôi ngủ úp mặt vào gối, đúng rồi, còn trách ai được nữa! Nhưng mà ấm ức, nhưng mà xót xa.

Tần ngần, tôi nhặt bảy hạt quả rộp rộp bỏ vào dấu chân người, dấu chân ngựa rồi lấy đất bụi lấp lại, ngồi chờ…

Tôi nghĩ, khi nào hạt nở xanh cây thì về. Những bảy hạt, không lẽ toàn là hạt lép, không lẽ, đời mình, chỉ toàn xui xẻo không thôi! Tôi đuổi thằn lằn: “Thôi mày đi chỗ khác dùm!”. Tại vì tôi không thích thở than ẽo uột. Tôi cả quyết quờ tay bắt một đám mây màu bạc: “Này, làm ơn mưa dùm vào chỗ này với!”. Đám mây khinh khỉnh bỏ đi. Tôi liều lĩnh quờ tay bắt một tia nắng mặt trời màu đỏ: “Này, làm ơn rọi dùm vào chỗ này với!”. Tia nắng kiêu kỳ lúng liếng bỏ đi…

Đã vậy, tôi cũng không cần. Tôi một mình làm mưa làm nắng, kệ tôi. Thì mồ hôi sẽ là mưa này, thì mắt nhìn sẽ là nắng này, thì hơi thở sẽ là gió này… Nào, hãy nảy mầm đi, đâm cành xanh lá đi…

Hình như đêm nào, trong những giấc mơ nặng nhọc, tôi cũng nghe thấy tiếng bước chân và tiếng gõ móng bồp bộp bên thềm. Sáng ra, thấy hạt đã nảy mầm, lòng hân hoan rạng rỡ. Rồi một ngày, không còn nhớ rõ ngày nào, những chiếc lá xanh đội đất nhú lên, xanh hơn cả niềm hi vọng. Tôi ngồi bệt xuống, vừa cười vừa hát, một bài hát yêu thương.

Nhưng không hiểu làm sao, cây càng lớn thì càng khẳng khiu, và cuối cùng thì hoá thành chùm dây leo rối rắm vươn thẳng lên trời…

Không dễ gì tôi bỏ cuộc đâu, tôi bướng lắm mà kiên trì lắm lắm. Nếu đã tin yêu rồi sẽ chờ cho đến ra giêng! Dù cây khẳng khiu, dù một mình phải làm mưa làm nắng.

Thế rồi những cánh hoa đầu tiên cũng nở, trắng phơn phớt hồng, nhưng hình móng ngựa, như hình môi thơm, như dấu vết của tiếng cười…

Những ngày qua, tôi thơ thẩn trước nhà, dù rất thèm rượu nhưng không dám đi, sợ khi mình say rồi thì người ngựa lại về đứng đợi bên hiên vắng. Đến cả trong mơ cũng còn nghe tiếng móng gõ như tiếng guốc khua giòn, náo động.

Mỗi lần tỉnh giấc, tôi lại một mình mở cửa ra nhìn những cánh hoa rộp rộp, như người mộng du. Hoa vẫn đó, như từ trời cao đậu xuống, mong manh như vừa mới lột, đầy lo âu…

Thế rồi sắp sửa sang xuân, gió cuộn mình lăn tròn qua trảng cỏ, rát mặt. Buổi sáng khi mặt trời thức giấc, tôi bước ra nhìn thì hoa không còn nữa. Tôi nghi, gió đã cuốn đi rồi, như một sự tình cờ chiếm đoạt hoặc thông đồng lật lọng bỏ tôi đi.

Dấu vết còn rành rành ra đấy! Mà thôi, dù sao cũng đã đi rồi. Giờ thì vẫn còn lại một tôi, tiếp tục làm mưa làm nắng, nhưng tôi sẽ không ngồi chờ nữa. Tôi sẽ kéo theo một ai đó, cùng chờ…

Nhưng không hề có ai cả, phải rồi, xưa nay tôi có chơi với ai đâu! Tôi một mình một cõi, tôi một mình với một trò chơi trốn tìm mạo hiểm. Ai đó đi qua, khen, tôi cười cười, ai đó đi qua, chê, tôi cũng chỉ cười, ai đó hét vào mặt, hoa rộp rộp là hoa gì, đồ ngớ ngẩn, tôi cũng chỉ biết cười, như bọn trẻ thiểu năng. Tôi không nói ra đâu, bí mật của đời tôi đó, dấu chân ngựa và người đến thăm tôi bữa nọ, vẫn còn mới nguyên trong kí ức mịt mùng…

Chỉ một tiếng ngựa hí trong đêm thôi mà chờ đợi, chỉ một bóng hình về thăm thẳm trong mơ thôi, mà nôn nao thương nhớ, có ai như mình không nhỉ? Chắc là không, vậy thì mình giống ai? Chắc chắn cũng không. Tôi xếp hành lí xong rồi, chỉ chờ gió xuân cất cánh, là đi. Vừa ra khỏi ngõ thì thấy thằn lằn nằm đợi, nhìn theo. Tôi nói, thôi, mày đừng chép miệng trong đêm vắng, dù sao thì ngựa cũng không về. Thằn lằn vẫn nhìn theo. Mà lạ chưa, trên da thịt mốc meo của loài bò sát, thấy còn in rõ ràng sắc trắng phơn phớt hồng của cánh hoa rộp rộp hôm nào, như dấu vết một cuộc giao hoan! Không lẽ là…?

Nhưng mà thôi, trời cao lồng lộng, mà thôi, gió lạ thơm mùi cỏ đã nôn nao. Chào nhé, mùa xuân!


Nguyễn Văn Thiện
Born: 1975
Home town: Anh Sơn – Nghệ An
Master in Comparative Literature and Critical Theories
Currently a high school teacher, and a prolific writer.
Editor of Chư Yang Sin (Đắk Lắk) Art and Literary Journal.

Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.

The letter “T” in the word “Time” | Nguyễn Văn Thiện

A short story in Vietnamese by Nguyễn Văn Thiện
Translator: Nguyễn Thị Phương Trâm 

If time was a woman, then that woman must be extremely fickle and a player. When we want time to pass by anxiously faster, she prances around in her camisole; when we want time to pause for a second to catch our breath, rest, to absorb the sharpness and or nothing at all she seems to be in a rush tripping over her own feet. If we were to be a benevolent god, by default, time might be an older man, composed in his pace, steadily moving forward, contrary to humanity’s rush or calm. 

If time has a scent, it would be fragrant, often sweet. The fragile threads gently tug from morning to noon, day to night, the week of moonlight to a new season, generally changing a note in its scent. If you don’t believe me, try dangling your feet on a cliffside during the fall, close your eyes and stick out your tongue. Time will graze the tip of your tongue, dreamy-like the breeze, a long kiss, scented with the woodland. Indeed, there would be times when it’s mouldy with waiting, and as the sun sets as the moon rises, it’s salty and bitter with deceit. So what, if time possesses a scent, a frame, eyes and or limbs.

This afternoon, on a familiar path up an unplanned mountain or river, I caught a shirtless boy walking with the sunlight on his back, his dark tan skin was very familiar but the sparkle in his bright eyes were strangely unfamiliar. It made me wonder whether maybe his eyes were the eyes of time, restless, chasmic; distant, full of wistful dreams. I waved at him as though he was a friend, but once those eyes of time met the ancient eyes facing him, quickly he turned away, as though they were strangers, he continued on the spine of the mountain in the fading light. Time’s gaze was breaking, crumbling, covering the entire setting horizon.

If you’re happy, full of joy, affection will be time, it will play with you, embrace you. But if you’re sad or in despair, immediately she turns on you, she’s cold and distant, sometimes thug-like. You will get slaps on the face till you’re dizzy or she would be ripping at your hair while your face’s on the pavement. That’s time, if it has arms and legs. It was never colourless, unscented, desiccated, without a form as physicists have made you believe. Time is the manifestation of weak souls and human impulses amidst this big wide uncertain world.

You may ask yourself whether time is your kindest companion? In all separations and tragedy, we blame time, yet when it comes to our scars, we ask time to mend it? This morning, I asked Nietzche, hey, scholarly philosopher, if time is a fragrant piece of cake would you eat it, right here, right now? Nietzche, as usual, laughed with disdain, as he agitated a puddle on the side of the road. Carefully I would study it, in the muddy pool, reflections of drifting clouds, horses, vehicles, living, guns, knives, bullets, and her, most endearing! But suddenly, it would all fall apart, changed, no longer ever whole again.

It seems writing has not been excellent for the brain cells, affecting all the other major organs. Let me tell you, dear, talking to myself like a lonely madman in folklore: “Hey, so you live to acknowledge time or are you actually the victim, that time chews on and swallows, plays with like a tiger about to eat its prey?”. The brown little boy with bright eyes has moved on; the lonely elderly philosopher has cruelly stirred up and destroyed the reflection of the crumbling pieces of time. As for me, I’m still delving day and night into the desolate tales of Chư Mang.

The moonlight in pieces, pouring sunlight storms spitting, lips unknown and distant, the world’s a blur. Time losing its sweetness, now scented with bitterness, like seawater in the most glorious century of our people. I sat spelling out my name T-Thờ – i– ê- n – iên – nặng. My namesake has a body, a pair of legs, a pair of arms, ascending a period, laden in every step, no? My name and her name – Time, begins with the same letter, varied but accented!

Have you ever caught such a laden time in your hands? Time could be incredibly heavy. Nights in a flurry of gale and rain, I’m alone kicking in my bed, twisting and turning, arms and legs numb, burning, listening to the storm. That is time, and the longer I lay here, counting her withdrawing footsteps, the larger time becomes, as though the world is on top of me. 

Lucky, the fragile letters, they are full of life, dancing passionately as though ever tainted by time. I’m here spelling out the words with them like a teacher naturally absorbed in a classroom teaching. So, again children: T – i –me…

Time.

Chữ “Th” trong chữ “Thời gian”

Truyện ngắn Nguyễn Văn Thiện

Nếu thời gian là một cô gái thì cô gái ấy phải cực kỳ đỏng đảnh và trắc nết. Khi ta cần thời gian trôi mau thì nàng ấy thướt tha xiêm áo lượn vòng sốt ruột, khi ta muốn dừng lại một chút để thở, để nghỉ ngơi, để cảm nhận vẻ đẹp của cõi người sắc sắc không không thì nàng lại ra vẻ vội vàng cuống quýt chân nọ đá chân kia. Nếu ta là thượng đế hiền minh, ta sẽ mặc định, thời gian là một cụ già, điềm tĩnh bước đi, không nhanh, không chậm, mặc cho phàm trần vội vã hoặc khoan thai.

Nếu thời gian có mùi có vị thì chắc chắn thời gian rất thơm tho, đôi khi ngọt ngào. Những sợi tơ mong manh kéo nhẹ từ sáng qua chiều từ ngày qua đêm từ tuần trăng này sang mùa khác, thỉnh thoảng lại tỏa hương. Không tin bạn hãy ngồi im bên vách núi mùa thu tĩnh lặng, nhắm mắt lại và lè lưỡi ra xem. Thời gian sẽ đi qua đầu lưỡi, mơ hồ như cơn gió thoảng, như nụ hôn xa, thơm mùi thảo mộc. Cũng có khi tháng ngày ẩm mốc đợi chờ, mặt trời lặn rồi mặt trăng lên mặn chát dối gian. Biết làm sao được, khi thời gian cũng có mùi vị, có dáng hình, có cả đôi mắt hoặc chân tay.

Chiều nay, trên con đường quen thuộc núi nọ sông kia, mình bắt gặp một chú bé con cởi trần đi ngược nắng, làn da nâu quen thuộc nhưng đôi mắt sáng rực, long lanh lạ thường. Mình băn khoăn, không biết đó có phải là con mắt của thời gian không, sao mà bồn chồn, mà thăm thẳm xa mờ khát vọng. Mình đưa tay vẫy vẫy, như vẫy người thân, nhưng đôi mắt thời gian ấy, sau khi bắt gặp ánh mặt trời già nua chiếu ngược, đã vội vàng ngoảnh đi, ra vẻ chẳng hề quen, rồi tiếp tục di chuyển bên sườn đồi nhạt nắng. Những tia mắt gãy vụn ra phủ rợp trời chiều.

Nếu bạn đang vui, đang hạnh phúc, thời gian sẽ vuốt ve mơn trớn bạn, trước mặt bạn sẽ là một vũ điệu đáng yêu. Nhưng nếu bạn đang buồn đang thất vọng hoặc nhục nhã ê chề, thì ngay lập tức nàng ấy sẽ trở mặt, hành xử lạnh lùng, có khi hơi côn đồ nữa là khác. Bạn sẽ nhận được những cái tát nảy đom đóm mắt hoặc những cái giật tóc lệch đầu sấp mặt. Thời gian đấy, nếu thời gian cũng có tay chân. Nó không hề vô sắc vô hương vô thủy vô chung như các nhà vật lý khẳng định. Thời gian, chẳng qua là sự hóa thân của hồn người yếu đuối và manh động giữa cõi trần ai bất trắc rộng dài.

Bạn đã bao giờ tự hỏi, thời gian có phải là người bạn đồng hành tốt bụng nhất hay không? Khi tất cả những chia lìa đổ vỡ, ta đổ thừa cho thời gian, rồi những vết thương, cũng nhờ thời gian khâu vá? Sáng nay, ta hỏi Nietzsche, này, triết gia thông thái, nếu thời gian là một miếng bánh thơm tho, liệu người có ăn nó không, ngay ở đây, lúc này? Nietzsche, như thường lệ, vẫn cười khinh khỉnh, đưa tay khuấy vũng nước bên đường. Ta tò mò ghé mắt nhìn, trong vũng nước ấy, có bóng mây trời, có ngựa xe cơm áo, có súng đạn gươm đao, và có hình bóng một người, thương lắm! Rồi đột nhiên, tất cả vỡ tan, thay hình đổi dạng, không tài nào nguyên vẹn nữa.

Có vẻ như công việc viết lách đã có tác động không hay đến tế bào não bộ, ảnh hưởng trực tiếp đến các giác quan. Mình nói cho mình nghe, lẩn thẩn như gã khùng cô độc trong cổ tích: “Này, vậy thì mi sống đây để cảm nhận thời gian hay mi chính là miếng mồi để thời gian nhai và nuốt hoặc vuốt ve như con hổ sắp vồ mồi?”. Chú bé mắt sáng da nâu đã bước đi với con mắt thời gian rực sáng, gã triết gia cô độc đã nhẫn tâm khuấy nát tấm gương thời gian vỡ vụn. Ta thì vẫn chưa thôi lẩn thẩn đêm nọ ngày kia với câu chuyện bất tận của xứ Chư Mang hoang vắng.

Bóng trăng vỡ vụn, nắng đổ mưa chan, đôi môi xa ngái, không gian mịt mờ. Thời gian có mùi vị ngọt ngào bây giờ bỗng nhiên đổi ra vị đắng cay, như nước biển của thế kỷ rực rỡ nhất trong lịch sử dân tộc. Ta ngồi đánh vần tên của chính mình Thờ – i– ê- n – iên – nặng. Vậy tên ta có tấm thân này, có đôi chân này, bàn tay này, đi trên khoảng thời gian nặng trĩu, phải không? Tên ta và tên nàng ấy – Thời gian, bắt đầu bằng cùng một chữ cái, chỉ khác dấu thanh thôi!

Bạn đã khi nào hứng một vốc thời gian trĩu nặng trên tay chưa? Thời gian có sức nặng khủng khiếp. Có những buổi đêm mưa gió nhạt nhòa, ta trăn trở mãi trên chiếu giường đơn độc, nghiêng bên này chân tay tê buốt, nghiêng bên kia nghe lệch bão giông. Thời gian đấy, và càng nằm đếm bước đi của nàng, ta càng thấy nặng, tưởng cả thế giới xô nghiêng đè xuống thân mình.

Cũng may cho những con chữ yếu mềm, chúng tràn đầy sức sống, nhảy múa hào hứng say mê như chưa hề bị thời gian nhuộm kín. Ta ngồi đánh vần với chúng, như thầy giáo say mê tận tụy với nghề trong lớp học hồn nhiên. Nào, bắt đầu nhé: Thờ – ơ –i- ơi…huyền… 

Thời gian.


Nguyễn Văn Thiện
Born: 1975
Home town: Anh Sơn – Nghệ An
Master in Comparative Literature and Critical Theories
Currently a high school teacher, and a prolific writer.
Editor of Chư Yang Sin (Đắk Lắk) Art and Literary Journal.

Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.

the old retired whore plucking duck feathers | Nguyễn Văn Thiện

A short story in Vietnamese by Nguyễn Văn Thiện
Translator: Nguyễn Thị Phương Trâm 
Art: Đinh Trường Chinh

khuôn mặt chiều by Đinh Trường Chinh

“The old retired whore plucking duck feathers”. This morning, he began a story like that, but it wasn’t sound. Why does the protagonist have to be a whore, retired, an old hag plucking feathers off a duck? Why does it have to be a duck, not a chicken? Massaging his temples, he wrote:” a young woman plucking chicken feathers”. Nothing out of the ordinary, no more a standout than any other story? An unknown young woman, sitting plucking some strange chicken feathers sounds incredibly dull. 

He continued: “A duck retired, sat plucking the whore’s hair”. Sounds to the ear more exotic and creates interest, but only to such a point, the story couldn’t continue. How should the tale continue? He kept the original version in the end.

Now, for the reader to conveniently follow, he will depict the tale of the whore first. That is a whore, with all the various notoriety filled with disdain, a tail, a ho, a whore, etcetera and etcetera. All whores, usually, are pretty, or at least easy on the eye, otherwise, would never become a source of fear for wives who has any love for their husband. And that girl, not only will be a source of anxiety but much worse, a real source of danger, when their husbands are enthusiastic, in turn, attains such pretty indulgence day and night. They immediately formed a sodality and named it “Lady X obsessed association”, they even discussed the idea of renaming their town as X city. 

Up to here, are you more curious; the story a little more compelling? 

It’s a sad tale, the storyteller himself paused unknowingly before continuing. Ah, her name is now used to name the city where these men played. All the wives sulked, baring swollen lips in protest. But that’s okay; all the husbands still called their town X. Just that, with time, X’s beauty faded more and more, and no amount of makeup could counteract. All the other younger prettier working girls showed up, and they promptly attracted the customers away. X in a violent outrage changed her career to plucking duck feathers. 

However, out of habit, people still call their town X City. As an afterthought, the ducks’ part further developed. When they were born, they were already ducks; there was no possibility of change. In truth, they didn’t care what the city was called; it wasn’t a source of worry. They’re not dreary and full of raging envy like the wives of these husbands in the whorehouse. They’re flapping their wings and singing, they were oblivious, to the point, a director of a stage had produced a play about swans and invited the ducks to play the lead. This tale played out recently. Thus the ducks got a chance to be on stage, free to shout scream and flap their wings running about.

The ducks took the role of the swan on the stage, slowly, with misplaced egos as a bunch of ugly ducks. Every night these ducks glide beneath the bright colour lights, waiting for some prince to come and break the spell of the evil witch. Indeed, the role of the wicked witch played by Lady X. The stage lit brightly; everyone wanted to see it.

In the audience, of course, are all the wives of the playboy husbands. The play was amid a climax, and a woman called out: “There look that whore X it’s her, unmistakable, that ass, that face!”. The wives standing up, pointing at the stage, shouting, that’s her, the whore, the witch, kill her. Facing a wave of rising anger plus possible murder or at the least a failed performance, the director shoots clouds of blinding smoke onto the stage. The witch with a quick exit changed into the role of the queen, the bewitched mother of the princes. Beneath the light of the colour lamps, the graceful genteel queen embraces her daughter in the form of a swan, in a loving caress. The wave of anger died off, blank faces the wives having lost their prey, timidly followed each other out. 

The next day, at the smelly corner of the market, X, as usual, squatted, sticking out her perky rump as she set to her job at hand, plucking duck feathers, diligently, meticulously, and precisely. Till came night; the whore regains all her charm for the role of the witch or the queen on the shiny stage. And that miserable bunch of ducks, nightly in the part of the swan, a tiresome princess, by dawn were dragged to the market drowned de-feathered then butchered. There, the bunch of ducks again face the genteel queen from last night, squatting by the sewage drain, in turn dunking each duck in boiling water and plucking it completely clean.

There, the plot of the story is just that, not very exciting, but he has to tell it, because, though tedious, it’s still an accurate tale of X City. A city looking forward may have boundless beautiful women in the vocation of prostitution, but no one has the privilege of their namesake the title of a town. This lady/miss/woman X here continues each night in the role of the queen and by day squatting plucking ducks. Presently, though she is very old, she continues her work without rest. As for him – the nameless chap telling this tasteless story – had deliberately hidden a crucially important detail: He is a duck in that crowded quacky bunch of ducks condemned to be plucked by that whore X.

—-

[April 2018]

CÔ GÁI ĐIẾM VỀ GIÀ NGỒI VẶT LÔNG VỊT 

Truyện ngắn Nguyễn Văn Thiện 

“Cô gái điếm về già ngồi vặt lông vịt”. Sáng nay, hắn định bắt đầu truyện ngắn như thế, nhưng nghĩ một lúc, thấy không ổn tí nào. Tại sao nhân vật phải là một cô gái điếm, đã thế, lại về già, ế chỏng gọng, chổng mông lên vặt ông vịt? Tại sao lại vặt lông vịt chứ không phải lông gà hay lông lợn?

Bóp hai vầng thái dương, hắn sửa lại: “Cô gái trẻ ngồi vặt lông gà”. Nghe thì quá ổn, nhưng như vậy thì có gì đặc biệt, có gì khác với những câu chuyện khác? Một cô gái vô danh nào đó ngồi vặt lông một con gà vô danh nào đó, chưa viết ra đã biết nhàm chán đến cỡ nào rồi!

Hắn đổi lại tiếp: “Một con vịt về già, ngồi vặt lông cô gái điếm”. Nghe khá lạ tai và gây tò mò, nhưng chỉ được đến đó thôi, là hết chuyện để kể. Làm sao để kể tiếp đây nhỉ? Sửa đi sửa lại, cuối cùng, hắn giữ nguyên ý tưởng ban đầu.

Bây giờ, để bạn đọc tiện theo dõi, hắn sẽ kể về cô gái điếm trước. Đó là một cô gái điếm, với hàng loạt tên gọi đầy tính miệt thị, là con phò, con phạch, con đĩ, con vân vân và vân vân. Các cô gái điếm, thoạt đầu, thường xinh đẹp, ít ra cũng dễ nhìn, nếu không, sẽ không bao giờ trở thành mối lo ngại cho các bà vợ yêu chồng. Và cô gái ấy, không chỉ đã là một mối lo ngại mà tệ hơn, còn trở thành một mối nguy thực sự, khi các ông chồng ăn chơi đã thay nhau lùng sục tìm cho bằng được người đẹp trong mỗi đêm rộng ngày dài rong chơi đàn đúm. Họ lập hẳn thành một hội, và đặt tên là “Hội cuồng si nàng X”, thậm chí, họ còn bàn nhau đặt tên cho thành phố mà họ đang sống là thành phố X.

Đến đây thì bạn đọc đã bắt đầu thấy tò mò chưa? Chuyện đã hấp dẫn chút nào chưa?

Câu chuyện buồn tẻ đến nỗi, chính người kể cũng không nhớ mình đang dừng ở đoạn nào để kể tiếp. À, tên cô ấy, bây giờ được dùng để đặt tên cho thành phố sầm uất lắm gã ăn chơi. Các bà vợ bĩu môi, trề miệng và kịch liệt phản đối. Nhưng không sao, các ông chồng vẫn gọi tên thành phố ấy là X. Chỉ có điều, theo thời gian, nhan sắc X càng tàn tạ, không son phấn nào chống lại nổi. Những nàng điếm khác trẻ đẹp hơn xuất hiện, lập tức kéo khách hàng về phía mình. X vật vã đau buồn. X đổi nghề. X đi nhổ lông vịt thuê.

Tuy nhiên, theo thói quen, người ta vẫn gọi thành phố ấy là thành phố X.

Thiết nghĩ, cũng cần kể rõ thêm về bầy vịt. Chúng sinh ra đã là vịt rồi, không thể có cơ may nào thay đổi. Thậm chí, chúng cũng không thèm quan tâm thành phố mà mình đang sống có tên gì, đó không phải là mối bận tâm của những con vịt. Chúng cũng không buồn bã hay ghen hờn ghẻ lở như các bà vợ có chồng đi động đĩ. Chúng vô tư hát hò vỗ cánh, đến nỗi, một đạo diễn sân khấu đã dựng hẳn một vở kịch về bầy thiên nga và mời lũ vịt đóng vai chính. Chuyện này đã từng diễn ra đâu đó, không có gì lạ, vậy là lũ vịt được lên sân khấu, tha hồ hò hét và vẫy cánh chạy vòng quanh…

Bầy vịt vào vai thiên nga trên sân khấu, lâu dần, quên hẳn thân phận mình là lũ vịt xấu xí. Đêm nào các nàng vịt cũng bay lượn dưới ánh đèn màu rực rỡ, đợi chàng hoàng tử nào đó tình cờ đi qua hóa giải lời nguyền của mụ phù thủy độc ác. Dĩ nhiên, không ai khác, mụ phù thủy độc ác sẽ do nàng X thủ vai. Sân khấu đêm nào cũng sáng đèn, mọi người nô nức kéo nhau đi xem.

Trong đám khán giả, dĩ nhiên là có mặt các bà vợ của các ông chồng ăn chơi phóng đãng. Vở kịch đang hồi cao trào thì một mụ ré lên: “Xem kìa, con đĩ X, chính là nó, không sai được, cái mông ấy, cái mặt ấy!”. Các bà vợ ồ lên, đúng nó rồi, con đĩ rạc, con phù thủy, phải giết nó… Nhận thấy làn sóng căm phẫn dâng cao có thể gây án mạng hoặc chí ít cũng làm cho vở diễn thất bại, đạo diễn nhanh trí xịt khói trắng mờ mịt sân khấu. Mụ phù thủy nhanh chân chạy vào thay váy áo, vào ngay vai hoàng hậu, mẹ của công chúa bị phù phép. Dưới ánh sáng đèn màu, hoàng hậu nhân từ và xinh đẹp ôm lấy con gái trong hình hài thiên nga, âu yếm vuốt ve. Làn sóng căm phẫn hạ xuống, các bà vợ bị sổng mất con mồi ngay trước mặt, tẽn tò kéo nhau ra về.

Ngày hôm sau, nơi góc chợ hôi hám, X vẫn ngồi chổng mông vặt lông vịt, cần mẫn, tỉ mỉ, nhẫn nại. Để rồi đêm đến, cô gái điếm hết duyên lại vào vai phù thủy hoặc hoàng hậu trên sân khấu sáng đèn. Và bầy vịt tội nghiệp ấy, hàng đêm vào vai thiên nga, công chúa mệt nhoài, sáng ra lại được đưa ra chợ nhúng nước vặt lông và mổ bụng. Ở đó, bầy vịt gặp lại bà hoàng hậu nhân từ đêm qua, đang ngồi xổm bên rãnh nước, nhận đầu từng con vào vạc nước sôi và vặt cho kỳ sạch mới thôi.

Đấy, nội dung câu chuyện chỉ có vậy, không mấy hay ho, nhưng hắn vẫn phải kể lại, bởi vì, dù tẻ nhạt, thì đây vẫn là một đoạn không thể thiếu trong lịch sử của thành phố X. Thành phố ấy sau này dù có rất nhiều cô gái xinh đẹp hành nghề mại dâm nhưng không ai có được vinh hạnh lấy tên của mình đặt tên cho thành phố. Còn nàng/cô/bà X ấy, vẫn hàng đêm vào vai hoàng hậu và hàng ngày ngồi vặt lông vịt. Bây giờ, bà ấy già lắm rồi, nhưng vì cuộc mưu sinh, vẫn chưa thôi công việc của mình. Còn hắn – kẻ vô tích sự ngồi kể lể dông dài câu chuyện tẻ nhạt này – đã cố ý giấu nhẹm đi một chi tiết hết sức quan trọng: Hắn cũng chính là một con vịt trong bầy vịt đông đúc quàng quạc bị bà đĩ X vặt lông!


Nguyễn Văn Thiện
Born: 1975
Home town: Anh Sơn – Nghệ An
Master in Comparative Literature and Critical Theories
Currently a high school teacher, and a prolific writer.
Editor of Chư Yang Sin (Đắk Lắk) Art and Literary Journal.

Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.