Fight | Nguyễn Văn Thiện

A short story in Vietnamese by Nguyễn Văn Thiện
Translator: Nguyễn Thị Phương Trâm 
Art: Đinh Trường Chinh

Truyện ngắn Nguyễn Văn Thiện

He and his friends swam across some nameless muddy river. They emerged stinking and covered in the river’s black silt. But they didn’t care. The stench has never been an issue! The game precedes their image!

They were a storm in the alley, raucous, always in one kind of scuffle or another. Fun! It was their preoccupation from dusk till dawn; they’re high on looking for blood, no different from professional wrestlers on the podium. Out of nowhere, one would punch the other in the jaw, another fight, the joy!

Sometimes he would find himself asking: What the hell is going on? When did violence become so addictive? Before the thought even took shape, he was already dodging a kick to his chest, the kick ended on another guy’s bloodied nose. They chase after each other all day all night from one day to the next, from one month to another.

He ran after one huge guy and tackled him to the ground before he proceeded to pound his face with a tirade of punches but his attention was caught by a flashing glimpse of his father, his father’s humpback was unmistakable. His father at the same time was being kicked in the ribs. The inward breath was an audible “uhh”, like an ox hit in the balls. His blood boiling with murder, he picked up a rock and aimed it straight for the perpetrator’s head. The blood-spattered spraying all over the sidewalk. The screams and shouting combined with rambunctious melodies. Maybe they were all mad. His mother chased after them shouting breathlessly, son, honey! Pitiful mothers running around chasing, stumbling through a bewildering wilderness of arms and legs. His mother called for them as she ran, fell over, and a sturdy obese woman kicked her on the side of her ribs as she went down, she fell down rolling over to the curb of the road. His little cousin, still a teenager, appeared out of nowhere, and dove head first into the fat woman’s groin. She fell backward kicking her legs in the air, the woman cried like a child throwing a tantrum. As he hugged his stomach after just receiving another hit, sending him flying, landing right on top of the fat woman. She screamed: “Rape, rape, get off me, rape!”.

While he and his gang assaulted each other during their galavanting, his kid brother was in a tiny locked room and he was receiving a thrashing of his own from a number of men. And of course, being so young, still soft, after the eleventh caning and twentieth kick while his hands were tied high up over his head, he died. By the time his gang turned up, the poor kid’s body was being kicked out the door, dumbed on the side of the road like some dead animal. Fired up by the pitiful tragedy, his gang jumped the mob in the tiny cell; the mob fought back without a hint of hesitation. Itching for activity, the other gangs in the vicinity joined in. Throwing punches, kicks, eyes poked, hair pulled, rocks thrown, no one could tell who was who after that!

Now and then he could hear his mother’s voice, son, where are you son, but in all that mess it was impossible for him to work out which direction his mother’s voice came from. Now and then there was also his father’s voice, son, where are you son, but it was too late. His gang was already deep in punches and kicks, consumed with slaps of sustenance, and their thirst was quenched with blood. Living was impossible without physical violence, the withdrawal resulted in seizures, and foaming at the mouth!

They gang up on a guy in a white suit, he was carrying a briefcase crossing the street one day on his way to the office. Why? In this world, there were plenty of reasons; it’s not a matter of belief. Dirty dishes and household chores were not done because of the fighting, the fighting could happen anywhere, say as they tripped in a puddle, they fought, getting muck on their clothes crossing the road, again they would fight, singing as they roamed the street, and why not, they fought as they stood there with nothing else to do, ah, and if it’s a matter of justice, they of course, had to fight!

A phenomenal life meant the making of a brutal phenomenal nation; his gang knows no fear! If there was no violence; it wouldn’t be very interesting. They poured from across the river, more people, like a carnival. Now they no longer needed an excuse to fight, they greeted each with punches, satisfied only when they were coughing up blood! As the days went on, his gang became leaner, withdrawing into their throats to avoid the thrashings, as their body grew healthier, firmer, and ripped with six packs. Eating, sleeping, and thinking became unnecessary. They communicate via their elbows, fist, or their feet.

Hey, his buddies would say, let’s go, there are plenty of people out there, more fun to be had, more exhilarating adventures!

That was how they egged each other on, like the rising tides, like the water in a waterfall, from one day to the next, ceaselessly from one year to the next!

Let’s go!

[July 2020]

Đánh

Tụi hắn vừa bơi qua sông, dòng sông tên gì không biết, nhưng nước đặc quánh. Người tụi hắn đen thui, hôi rình. Tụi hắn không lấy đó làm điều. Hôi hám ư, chuyện nhỏ! Quan trọng là bạn làm gì, còn bạn như thế nào không quan trọng bằng!

Tụi hắn vừa đi vừa hò hét, vừa đấm đá nhau ra trò. Vui lắm! Hầu như suốt ngày suốt đêm, tụi hắn đang say máu, không khác gì những đấu thủ thượng đài chuyên nghiệp. Đang đi cùng nhau, thỉnh thoảng ngứa tay, thằng nọ lại nhè mặt thằng kia thụi một phát, thế là quay ra thụi nhau, vui đáo để!

Thỉnh thoảng hắn cũng có chút suy tư: Cái chết mẹ gì đang xảy ra thế này? Sao bạo lực là trở thành trò chơi hấp dẫn cộng đồng đến vậy? Vừa nghĩ đến đó thì gã bên cạnh đã co chân đá bốp vào ngực hắn. Hắn nổ đom đóm mắt, quờ tay thụi ngay một phát, trúng mũi đứa khác, xịt máu. Tụi hắn đuổi nhau chạy, suốt ngày này qua ngày khác, tháng này qua tháng khác…

Hắn đang đuổi theo để đấm cho bằng được vào mặt một đứa cao lớn thì thoáng thấy cha hắn, với cái lưng gù không lẫn vào đâu được. Cha hắn cũng đang bị một gã mặt mũi băm trợn thọi vào mạng sườn. Hắn nghe tiếng cha hắn “hự” một cái, như con bò bị đá vào dái. Máu du côn bừng bừng, hắn lượm cục đá ném vào đầu gã kia. Máu lõa ra giữa đường. Tiếng hét hò chen lẫn tiếng hát, hình như điên hết cả rồi. Mẹ hắn chạy theo gọi, con ơi, anh ơi! Những bà mẹ tội nghiệp chạy mãi, gọi mãi trong rừng cánh tay cánh chân hỗn loạn. Mẹ hắn vừa chạy, vừa gọi nên vấp té. Gần như ngay lập tức, bị một mụ to béo đá văng ra lề đường. Đứa em họ, đang còn tuổi thiếu niên, không biết từ đầu xuất hiện, liền nhào vô húc mụ béo, ngay giữa háng. Mụ ta giãy đành đạch, định nằm ăn vạ. Hắn vừa ôm lấy bụng vì có cánh tay nào đó vừa thọi một phát rất mạnh, ngã úp lên bụng mụ béo. Mụ ta tru tréo: “Trời ơi, hiếp dâm, chúng nó hiếp dâm!”.

Trong khi bọn hắn vừa chạy vừa đấm vào mặt nhau thì em trai hắn đang bị một bọn bắt nhốt vào phòng kín và đánh bằng gậy. Đương nhiên em hắn còn nhỏ tuổi, da thịt còn non, nên sau khi lĩnh đủ mười một gậy cùng với hai mươi cú đá trong tư thế tay bị buộc cao quá đầu thì lăn ra tắt thở. Bọn hắn chạy đến thì thấy xác thằng bé tội nghiệp vừa bị đạp ra khỏi phòng, như một con chó chết. Bị kích động mạnh, bọn hắn lao vào bọn kia, bọn kia lao vào bọn hắn. Có một bọn vô công rồi nghề đang đứng bên vệ đường ngứa ngáy chân tay cũng nhảy vào đánh hôi. Thế là đấm, đạp, móc mắt, túm tóc, ném đá… chả còn phân biệt bọn nào với bọn nào!

Lâu lâu hắn có nghe tiếng mẹ gọi, con ời con hỡi, nhưng không xác định được phương hướng nữa. Lâu lâu nghe tiếng cha gọi, con ời con hỡi, nhưng không còn kịp nữa. Đời bọn hắn no nê những cú đấm cú đạp, ăn bạt tai thay cơm, nuốt máu mũi đỡ khát. Ngày nào không được ra tay ra chân là bứt rứt, sùi bọt mép như lên cơn nghiện!

Vừa thấy một gã áo trắng vác cặp băng qua đường là bọn hắn hè nhau vây lấy. Lý do ư? Đủ các loại lý do trên đời, tin thì tin không tin thì thôi. Rửa bát không sạch, đánh, đi qua vũng nước làm té bùn, đánh, đi qua đường khô làm bay bụi, cũng đánh, vừa đi vừa hát, đánh nốt, đứng im một chỗ, a, tụi mày thách thức công lý hả, vậy cũng nhào vô đánh!

Cuộc đời kỳ diệu đã tạo nên những con người kỳ diệu với bản năng bạo tàn, bọn hắn nào biết sợ là gì! Nếu không đánh nhau, buồn lắm lắm. Từ bên kia sông, dòng người tràn qua ngày càng đông, vui như đi xem hội chợ. Giờ thì không cần lý do nữa, hễ gặp nhau quả thụi thay lời chào, mồm miệng vã máu ra mới thấy khoan khoái! Càng ngày đầu bọn hắn càng bé lại, rụt vào trong cổ để tránh đòn, còn tay chân thì khỏe hẳn ra, chắc nịch. Việc ăn ngủ và suy tư không cần thiết nữa. Công cụ giao tiếp là nắm tay cùi chỏ hoặc cẳng chân…

Nào, lũ hắn nói với nhau, đi thôi nào, ngoài kia đông người vui lắm, sướng lắm!

Thế là lũ hắn lại kéo nhau đi, như triều dâng, thác đổ, ngày này qua ngày khác, tháng này qua tháng khác, năm này qua năm khác!

Đi thôi!


Nguyễn Văn Thiện
Born: 1975
Home town: Anh Sơn – Nghệ An
Master in Comparative Literature and Critical Theories
Currently a high school teacher, and a prolific writer.
Editor of Chư Yang Sin (Đắk Lắk) Art and Literary Journal.

Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.

fire | Nguyễn Văn Thiện

A short story in Vietnamese by Nguyễn Văn Thiện
Translator: Nguyễn Thị Phương Trâm 
Art: Đinh Trường Chinh

A fireball the shape of the moon had spread into the nearby field. We pretended to stamp out the fire shouting seemingly forever. Why do we cry out when there’s a fire? Something that could never be explained. What we do know is for a long time now, we’ve been playing with fire. Fire gives us warmth, fire gives us light, and now, it burns us, there’s nothing strange about it at all? Why can’t we shout and carry on? As though it is something we had to do, we’re now on fire, along with the wild grass and surrounding forest, and the poor critters big and small—naked figures, as black as the fate of a nation on the other side of the globe.

Everything will be ashes. Grappling hearts. Our hearts, in pieces after a catastrophe like fire, will see our black and blue selves damp with blood through the endless rising smoke. No longer human, but we will be finally free, and we will have new insight. We will be able to see deep into my own heart as outsiders.

But this time feels rather odd, I’ve never seen anything like it!

The first thing I saw inside my heart was an old man, his eyes were barely visible under, layers upon layers of wrinkly skin. His face was shaped like a box, square like a birthday present, the one we got when we turned 15. In the square box, where would the eyes be? Of course, the eyes were squares. In the square eyes were droplets of squared tears. Every drop glistened like tiny rubies, neatly piled next to each other, and for no reason at all they existed. Did the old man at some stage cry? Surely yes, people generally cry at least once or twice in their life. But crying blood was rare. I don’t know how and when I had come to collect such an image in my heart. It took up an entire corner of my heart, and hence, on hot days, my heart gets rather tired, it aches, and now I know why.

I looked into my heart like a child fascinated with his new toy, like an adult addicted to gaming. If you were to use a sharp knife, cut shy of the end downward, and then turn it upside down, the heart looks like a ridiculous, vicious scar. A scar the making of a lifetime. Like the wind, and the mist, the image of her materialized from that fateful scar. She and I had travelled shortly together? Then she was lost in a fog, or maybe smoke, whatever it was, I could never find her again? Why, I wonder, in the dying amber ashes did I find this scar, warped and distorted like faces of those who were long gone? Why? 

I was the one who started the fire in my field, and I was also the one holding the heart that’s no longer beating, in my hands. Don’t be so quick to judge me. The truth is very different. It’s only a game, we set ourselves on fire for fun, pull out our gut, blood and bone, and heart, putting them on display for fun. Hence, what people see means we can also see, what people believe we also have to believe, and what people love means we also must love.

The amber fire was fizzling, filling the air with dusty smoke in the passing unexpecting drops of off-season rain. Materialised in front of my eyes was a red blanket wrapped around the heart in my hand. The blanket opened up like my mother’s hand, she was waving at me, the way she did from the rice field the day I turned 20, I was heading into town for a class. The rain stopped, the rain was barely there, and my hand was now purple and blue, like a bruise. Slowly it was bent out of shape, stretched out, to then rolled up, and twisted into something which looked like a rope.

Ox herding was a job with not much to do, like other children, we were creative, and we played all kinds of games, one of them was a game of suicide. The rope hung up, dangling a loop from a tree branch. I would stand on the back of the ox, pretending to cry, waving goodbye to my friend while the rope was wrapped around my neck, he with back leaning against a tree, out of the sunlight, an attendant at my execution. He laughed so hard, he ended up with hick-ups as he flicked a rock at the ox’s balls. The ox buckled in pain, and I almost became the victim of an execution in the middle of the deserted field if the rope didn’t break in time. I fell with a thump on top of a pile of warm ox dung and received a thrashing when I got home that night. The next day we were back at the same place, and my friend screamed, you’re so stupid, why would anyone want to kill themself! I screamed back, and you’re just as stupid. It was simple, we were both stupid.

The unjustifiable rope, after so many years, was now black and blue like blood, like my mother’s blanket. The silly incident during that day ox herding, now far gone, yet here, now, holding the heart in my hand, it showed up, like an uninvited warning. While I was deciding on the colour of the blanket, and the rope, the wind picked up. The heart began to dry up, shrivelled, and wrinkly like an aged wound, far beyond the moment it was burning. There appeared from deep within its core a flower petal, the shape of a sickle. What kind of flower has sickle-shaped petals, how would I know? For a long time now, I no longer name things by their conventional labels. But if I were to use their standard labels, then would I still be me? Don’t know why exactly, but the sickle petal was very sharp. Vertically it cuts the harvest, horizontally it cuts the throat, but when you stick it on a painting, it becomes a symbol of a glorious summer filled with sunlight and the sound of cicadas. The school courtyard, flowers, and cicadas, were also long gone, a sad reminder one generally ignores. Yet, evident was this ageing scar.

Now, I might as well have some fun. I’ll take the sickle-shaped petal and cut the box-shaped head with the square eyes and boxed-shaped droplets into two equal parts. One part, tying it to the rope, I hung it up. Re-enact the old hanging, in the middle of the burning field. The remaining half, I tied to my mother’s red blanket, the blanket now like a rising parachute, rising gloriously, heading for a place full of love. And when one half of the head was moaning, slowly choked to death by the rope, the other half will be high up, rising forever higher and higher in the air. My eyes tearing from the pain as I watched it slowly rise, and flew away until they were as small as a bird’s wing before it merged into nothingness with the endless horizon. I turned to look at the rope beside me, and everything had turned into a watery liquid as green as tears./

_____

May 2020

CHÁY

Đám cháy hình vầng trăng đã lan qua đám rẫy bên cạnh. Chúng tôi giả vờ dập lửa và reo hò không ngớt. Vì sao lại reo hò khi có lửa cháy ư? Không biết. Chỉ biết lâu rồi, từ lâu lắm, chúng tôi chơi với lửa. Lửa sưởi ấm bạn, lửa soi sáng cho bạn và bây giờ, lửa đốt cháy bạn, có gì lạ đâu? Tại sao lại không được reo hò. Và như một tất yếu, chúng tôi cháy lên cùng với cỏ dại với cây rừng, với muông thú. Những hình hài trần trụi, đen như số phận của dân tộc bên kia quả đất. 

Sau vụ cháy, chỉ còn lại tàn tro. Và những trái tim lăn lóc. Chúng tôi đó, những trái tim chúng tôi đó, vật còn lại sau vụ hỏa hoạn kinh hoàng đó, bạn thấy không, bốc khói ngùn ngụt và bầm đen máu ướt. Giờ đây, khi đã không còn tồn tại như một con người, tôi mới chính thức được tự do, được nhìn sâu vào trong trái tim mình bằng cặp mắt của một kẻ đứng ngoài lề. 

Những hình ảnh vô cùng quái dị chưa từng thấy bao giờ!

Đầu tiên là gương mặt của một cụ già với những nếp nhăn xô nhau chạy vào mắt. Đó là một gương mặt hình hộp, vuông vức như một gói quà sinh nhật khi bạn 15 tuổi. Trong hộp vuông, đôi mắt sẽ như thế nào? Dĩ nhiên, nó hình vuông. Trong đôi mắt hình vuông là những giọt nước mắt hình vuông. Những giọt long lanh như hồng ngọc, vuông vức xếp cạnh nhau, chẳng biết vì lí do gì tồn tại. Cụ già ấy đã từng khóc ư? Có thể lắm, ai trong đời không khóc ít nhất một vài lần. Nhưng khóc ra máu thì hiếm. Tôi không biết hình ảnh này đã được tim mình lưu giữ từ lúc nào ở đâu. Nó choán hết một góc không nhỏ của tim, vì thế, vào những ngày nắng oi, tim rất mệt, hơi nhức, giờ tôi mới hiểu…

Tôi nhìn vào trái tim mình, như trẻ thơ mân mê đồ chơi, như người lớn mân mê đồ chơi. Nếu lấy con dao sắc, cắt vạt một nhát lẹm từ cuống xuống, rồi đặt lộn ngược, quả tim trông tương tự một vết sẹo để đời, nham nhở. Từ vết sẹo định mệnh ấy, hình ảnh em hiện về, như gió, như sương. Em và tôi đã từng đi chung một đoạn đường, đúng không? Rồi em tan vào sương, vào khói, vào bất cứ chỗ nào có thể tan được, đúng không? Sao bây giờ trong tro tàn lửa cạn, lại thấy một vết thương, méo mó như những mặt người trong quá khứ? Tại sao?

Chính tôi đã đốt lửa lên trên vạt rẫy của mình, rồi cũng chính tôi ôm lấy trái tim khi nó không còn đập nữa, trên tay. Đừng vội kết tội chúng tôi nổi loạn. Sự thực khác hơn nhiều. Đây là một cuộc chơi, chúng tôi đốt mình lên để chơi, lấy xương máu tim gan của mình bày ra để chơi. Vì thế, điều mọi người thấy không có nghĩa là tôi phải thấy, điều mọi người tin là tôi phải tin, điều mọi người yêu là tôi phải yêu. 

Khi những giọt mưa trái mùa tình cờ đi qua đám cháy, lửa than xèo xèo và khói bụi bốc lên. Tôi thấy trong tim có một tấm khăn choàng màu đỏ. Tấm khăn mở ra như bàn tay mẹ vẫy vẫy bên cạnh ruộng lúa ngày tôi 20 tuổi lên đường ra thành phố nhập học. Hết mưa, mà mưa nhanh hết lắm, bàn tay ấy chuyển sang màu tím bầm. Rồi nó từ từ dài ngoẵng ra, xoắn lại, không khác gì một chiếc dây thừng…

Thuở nhỏ, đi chăn trâu, có những khi rảnh quá, chúng tôi chơi trò tự vẫn. Chiếc dây thừng buộc lên cành cây, thắt thòng lọng buông xuống. Tôi đứng trên lưng trâu, giả vờ kêu khóc, vừa thò cổ vào thòng lọng vừa vẫy tay thằng bạn ngồi dưới gốc như người ta từ biệt nhau trước khi bị hành hình. Thằng bạn cười hấc hấc rồi lượm cục đất ném vào dái trâu. Trâu ta đau quá lồng lên, tôi suýt thành một tử thi giữa đồng hoang nếu như dây thòng lọng không đứt kịp. Tôi rơi huỵch giữa bãi phân trâu còn nóng, tối về bị một trận no đòn. Ngày mai gặp lại nhau chỗ cũ, thằng bạn bảo, mày chơi ngu quá, tự dưng tự tử chi! Tôi nói, mày cũng ngu. Nó dễ dãi, ừ, chúng mình ngu bằng nhau!

Chiếc dây thừng oan khiên ấy, qua bao nhiêu năm tháng nhọc nhằn giờ có màu tím bầm như máu, lại phấp phới bay như tấm khăn choàng của mẹ. Chuyện chăn trâu nghịch dại ấy, đã xa lắm rồi, vậy mà giờ đây, khi nâng niu trái tim mình trong tay, bỗng lại hiện về, như một lời cảnh báo vu vơ. Và khi tôi đang băn khoăn về màu sắc của tấm khăn choàng, của sợi dây thừng thì trời bắt đầu nổi gió. Trái tim co mình lại, rúm ró, nhăn nheo như một vết thương già, qua hẳn thời oanh liệt. Từ trong thẳm sâu cốt nhục, hình như có một cánh hoa hình lưỡi liềm. Hoa hình lưỡi liềm là hoa gì, tôi làm sao biết được? Từ lâu tôi đã quên, không biết gọi tên sự vật theo cách thông thường. Nhưng nếu gọi theo cách thông thường, tôi có còn phải là tôi không? Không biết đích xác, nhưng cánh hoa lưỡi liềm ấy rất sắc. Khi nằm dọc, nó gặt lúa, khi nằm ngang, nó cắt cổ, khi dán lên một bức tranh, nó thành một biểu tượng huy hoàng của mùa hè có nắng và ve. Mà sân trường ấy, hoa ấy, ve ấy, cũng đã xa lắm rồi, như một hoài niệm buồn không bao giờ nhắc nhớ. Có điều, bây giờ, nó lại ở đây, trong vết thương già này.

Bây giờ, tôi mới bắt đầu chơi. Tôi lấy cánh hoa hình lưỡi liềm cắt cái đầu hình hộp có đôi mắt hình hộp và giọt nước mắt hình hộp ra làm hai phần bằng nhau. Một phần, buộc vào sợi dây thừng và treo lên. Tôi sẽ diễn lại cái trò treo cổ ngày xưa ngay tại đây, trên đám cháy này. Nửa còn lại, buộc vào tấm khăn màu đỏ của mẹ, tấm khăn sẽ làm dù, chúng sẽ bay đi, rất đẹp, đến một nơi nào đó thùy thích. Và khi nửa đầu đang rên xiết dưới sợi dây thừng thì nửa kia đã bắt đầu bay lên cao, cao mãi. Tôi mỏi mắt nhìn theo cho đến khi chúng nhỏ bằng một cánh chim rồi mất hút trong bầu trời thăm thẳm. Ngoảnh nhìn bên cạnh, nửa đầu còn lại cùng với chiếc dây thừng, tất cả đã biến thành nước. Nước xanh như là nước mắt, trôi xuôi./ 


Nguyễn Văn Thiện
Born: 1975
Home town: Anh Sơn – Nghệ An
Master in Comparative Literature and Critical Theories
Currently a high school teacher, and a prolific writer.
Editor of Chư Yang Sin (Đắk Lắk) Art and Literary Journal.

Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.

Farce | Nguyễn Văn Thiện

Art by Đinh Trường Chinh

A short story in Vietnamese by Nguyễn Văn Thiện
Translator: Nguyễn Thị Phương Trâm 

The days ran into each other as I sat there and listened to the beating of my heart, steadfast, unchanging, monotonous, thumping thumping tediously away, to the point of madness.

Why would something like that drive you mad, you might ask? Why should the heart-beat at all, why must blood course through my veins, and my hair continue to grow when I’m bound by silence? Was I born into this world to witness all the madness? We come in all kinds of sizes, big and small, fast and slow, unique, united followers of an outdated ideology. Beyond the madness are the lies. A chain of tragedies unfolding in silence.

Concurrent there within each second of my heartbeat, minute, day.

I did suspect, maybe; in a moment due to carelessness, someone has implanted a remote pacemaker? Because there are days, my heart is out of control, beating out of place. It doesn’t just beat for me, mad right? I’m a regular healthy 70 beats per minute; yet, there are times, my heart beats rapidly, doubling, sometimes tripling the usual rate!

Is there anyone out there out of their mind, crazy enough to sit and count their heartbeats?

I am, because I believe there is a larger transient madness out there, beyond me, ready to tear down everything that is today and tomorrow.

My heart doubling and tripling its heart rate and I’m still alive? Seems unreal and unsafe, but it’s not the biggest farce. I have a friend who writes poetry. In the middle of drinking, he would whisper quietly so only I could hear: “It’s true, in my heart there’s a fortified prison!” stunned, and a bit frightened I would stare at him, knowing he was serious, knowing he was completely sober, with not the hint of a smile on his face!

Who’s brave enough to build a fortified prison in their heart? Absurdities are always followed by other absurdities. But I’ll abide, I shall reveal to you, my readers, all these compounding absurdities.

You called me for a drink, but I won’t accept. Because I know, after finishing half a packet of 333, you will whisper into my ear:” In my heart, there’s a…”

At this point in time, I don’t have the courage to reveal the biggest, mother of all absurdities, but for the moment: Some people are still alive when their heart has stopped, yes!

They live in the mind of other people.

They have the right to live in the mind of other people.

They are obligated to live in the mind of other people.

And they have given birth to a mountain of adoration, wilderness of indignation, savage, vile pit, and divide.

Their hearts no longer beat yet they’re still able to wreak havoc, inciting storms and heavy floods and rain. The mass is inspired by them, worshipping them as immortal saints. And I’m a witness, I’ve never seen their hearts throb, let alone with a heartbeat!

I’m burdened by a recent death, a murder, and a young boy beaten to death in detention. On this windy afternoon, my erratic heart thumps faster. I suspected for a while that every time someone passes away, my heart automatically weeps, especially when those close to me do not speak, and the senseless death is inevitable.

What’s more senseless is everybody, including those with beating hearts or not claiming they sacrificed all their life to fight against senselessness, in the end, all of them, including me, have to accept all these senseless deaths in silent pain and impotence!

Life’s multitudes of senseless fracases, piled up, overtaking my place in society! From where I stand, every which way I turn, it’s all lopsided, lacking harmony, off-kilter, rough, grotesque, exposed, and ill-fitted.

So much so, that to this day, people believe that this civilised life is built on absurdities. The living, laughing freely; overflowing with faith and love with truncated diminished vigour. Yes, on the other hand, all that makes sense most is considered a farce. If you’re still wary, then be the hero, be a volunteer, deliver a traffic victim to the hospital and see?

Then you’ll know!

No one for the moment has faith in reason. My fellow living and I trudge through pointless junctures, bound by aimlessness, scrambling not once did a vow escape. Each day, I hear people mourn to celebrate, not laugh nor cry; silently, I watch this senseless life slowly ebbing, flow by.

Phi lý

Mỗi ngày, tôi lắng nghe nhịp đập trái tim mình, nhưng hoàn toàn không cảm nhận được điều gì mới mẻ ngoài nhịp đập thong thả đến nhàm chán và thậm chí có phần phi lý.

Sao lại không phi lý? Sao tim vẫn đập, máu vẫn lưu thông và tóc vẫn dài ra trong khi tôi lại ngồi bó gối trong im lặng? Tôi sinh ra trên cuộc đời này, để minh chứng cho một sự phi lý đến khó tin của kiếp người trên trần thế. Chúng tôi, lớn bé khôn dại khác nhau tùy từng đứa, nhưng đều răm rắp tuân theo những mệnh lệnh cứng nhắc lỗi thời của người khác. Sự phi lý này kéo theo sự phi lý kia, kết thành một chuỗi thảm kịch diễn ra trong lặng lẽ.

Trong khi đó, tim tôi vẫn đập mỗi giây, mỗi phút, mỗi ngày…

Tôi từng nghi ngờ, không lẽ, vào một lúc lơ đãng nào đó, đã bị ai đó cấy vào tim một thiết bị tinh vi để điều khiển? Bởi có những ngày, tim tôi loạn nhịp. Nó không chỉ đập cho riêng mình, phi lý quá không? Chỉ khoảng 70 lần trên một phút là đủ để tôi tồn tại, đằng này, nhiều khi, tim đập gấp đôi, thậm chí gấp ba!

Có ai lẩn thẩn ngồi đếm nhịp tim mình không?

Tôi thì có, bởi vì tôi luôn tin rằng, có sự phi lý lớn lao đang lẩn quất đâu đây và sẵn sàng làm đổ ụp mọi thứ trong nay mai.

Tim đập gấp đôi, gấp ba mà vẫn sống? Phi lý quá, nhưng vẫn chưa phải là điều phi lý nhất. Tôi có anh bạn làm thơ, trong một lần liêu xiêu bia rượu, anh ghé tai tôi nói nhỏ: “Trong tim tao còn có một nhà tù kiên cố, thật đấy?”. Tôi kinh hoàng nhìn vào mặt bạn, biết rằng bạn không hề say, cũng không hề cười!

Ai dám cả gan xây một nhà tù kiên cố trong tim bạn? Hết phi lý này đến phi lý khác, phải không? Tôi sẽ ngồi đây, kể cho bạn nghe những phi lý chất chồng. 

Bạn vừa gọi đi nhậu, nhưng tôi chối từ. Tôi biết, thế nào sau khi hết nửa thùng 333, bạn lại ghé tai tôi thầm thì: “Trong tim tao có một…”.

Tôi vẫn chưa dám nói ra điều phi lý nhất, giờ nói luôn: Có những người tim không còn đập nhưng vẫn sống, tin hay không thì tùy!

Họ sống trong tâm trí người khác.

Họ có quyền sống trong tâm trí người khác.

Họ bắt buộc phải sống trong tâm trí người khác.

Và họ đẻ ra cả một núi tin yêu, cả một rừng phiền toái, cả một hố hằn học hoặc một vực cách chia.

Tim không còn đập nhưng họ tha hồ làm mưa làm gió bất cứ nơi nào. Đám đông ngưỡng vọng họ, tôn sùng họ là những thánh nhân bất tử. Còn tôi, tôi chưa bao giờ tận mắt thấy tim họ đập thế nào!

Tôi đang nghĩ về một câu chuyện vừa xảy ra, một cái chết vừa xảy ra, một án mạng vừa xảy ra, một cậu bé vừa bị đánh đến chết trong trại giam. Câu chuyện đó làm tim tôi bất ngờ tăng tốc loạn xạ trong một buổi chiều giông gió. Tôi đã thấy nghi hoặc từ lâu, rằng mỗi khi có ai đó qua đời là tim tôi phi nước đại, nhất là những người thân sơ bất kể, nhưng phải chịu cái chết phi lý.

Điều phi lý hơn cả là hầu như tất cả mọi người, kể cả những người tim đang đập hoặc tim không đập nữa đều nói rằng họ hi sinh cả cuộc đời để chống lại những điều phi lý, nhưng cuối cùng, tất cả trong bọn họ, kể cả tôi nữa, phải chấp nhận những cái chết phi lý này trong đau đớn và bất lực!

Hình như trên đời này, có bao nhiêu chuyện phi lý đều đổ dồn về quanh chỗ tôi ngồi! Nhìn chỗ nào cũng thấy mất cân đối, thiếu hài hoà, không bằng phẳng, gập ghềnh, kệch cỡm, vênh váo, không phù hợp. Đến nỗi, bây giờ, mọi người xung quanh đã tuyệt đối tin rằng, cuộc sống văn minh này đang được xây dựng bằng tất cả những điều phi lý. Mọi người sống, vui cười hớn hở, tràn ngập tin yêu trên những dở dang mất trớn. Đương nhiên rồi, ở chiều ngược lại, những điều hợp lý nhất sẽ bị coi là phi lý. Nếu bạn còn nghi hoặc điều này, hãy ra tay nghĩa hiệp chở một nạn nhân tai nạn giao thông vào bệnh viện mà xem? Biết liền!

Giờ thì không còn ai còn tin vào điều hợp lý nữa. Tôi và bạn sống quằn quại trong mớ dây chạc linh tinh, rường cột lung tung, bất nháo chí thiên, không hề có một hứa hẹn nào sẽ được thoát ra. Mỗi ngày, tôi vẫn mang trái tim cằn cỗi với những nhịp đập phi lý của mình đi làm, kiếm sống. Mỗi ngày, tôi vẫn nghe thiên hạ vui cười hoặc khóc lóc, hoặc không cười không khóc, lặng lẽ nhìn dòng đời phi lý cuồn cuộn trôi qua.

Nguyễn Văn Thiện
Born: 1975
Home town: Anh Sơn – Nghệ An
Master in Comparative Literature and Critical Theories
Currently a high school teacher, and a prolific writer.
Editor of Chư Yang Sin (Đắk Lắk) Art and Literary Journal.

Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.

Empty | Nguyễn Văn Thiện

A short story in Vietnamese by Nguyễn Văn Thiện
Translator: Nguyễn Thị Phương Trâm 
Art: Đinh Trường Chinh

Empty

We’re consuming words at empty parties with empty plates. After wiping our mouths with bare napkins licking our lips as though we’re satisfied. They stripped us of everything, including the fish at the bottom of the sea. Saying it aloud, who would believe it; we’re being denied even our dreams at night, when it is the most beautiful, at their height. This afternoon, on an empty stomach without a cloud, void of even familiar birds in the sky. At the foot of the horizon, the sea void of waves, not a single sail, not even a hint, to evoke a sense of loneliness, what a loss! You and I, victims of a conspired appropriation, like someone with an addiction to gambling, awoken after a useless night, found ourselves with nothing. 

Back and forth the useless trips shipping empty coconut shells. There in the hollows of our eyes, the recesses of our ears, our nostrils, no evidence of any storm, existing inspiration worth mentioning. It seems even the heartless pathways have swallowed whole seas of people without a brain or a heart. I came to look for you in the middle of the country one bright, scorching morning. You smiled awkwardly, pointing at a screen, I’m composing a piece of literature! An uninhabited poem. We went for a stroll on the beach, on the dunes, guns propped up pointing out to sea, with a careful look, they were empty of bullets. Scattered sea vessels on the dunes on their last breaths, baring their stinky empty bellies, waiting for their burial.

I’m describing an empty world, perhaps you do not want to believe me, but I did see it with my eyes. I’m standing at the edge of the Pacific Ocean, at my feet, the empty waves are tirelessly rushing ashore. High in the sky, by chance, the arrival of a moon, like an old friend meeting for the first time, the clear soulless face of the moon looked down at the water. The moon saw me, even so far away, but now my abdomen is vacant of its entrails, in my chest, sections of my legs were not hollow or filled.

Arrived the distant waves, constant like an embittered destiny, silvery hair! I asked, hey, out there in the ocean, is it really empty, is this true? An old fisherman docking, pulling his basket vessel up the beach, brusquely snapped incoherently in an indigenous dialect of the Nẫu, quickly passed a sack of fish to his wife, before heading back out on his basket vessel. I was determined to follow but waving his arm pushing me away shouting: I’ll be home tomorrow! I stopped, his wife’s eyes were distant, empty of the foaming waves, were coloured with the moonlight, there, and not there at all, they were spine tinklingly eerie.

I realised, tonight on the beach, our sleep will be empty, inviting not one worthy dream. The salvage shell washes up the coast will tell me tonight about the daily empty lives of the corals at the bottom of the sea, where a ton of poison swept through it, they spoke about the dead crustaceans and fishes at the bottom of the sea, dead but their eyes were wide open, empty, see-through to their skull. Dinner, in truth, what we ate was unrecallable, maybe just empty plates. Still carefully, I dapped my lips like an esteemed food connoisseur, an influencer in the middle of a devout crowd. Or has my mouth turned into a well, deep like the water well of Mỵ Châu from long long ago?

Death was sinking into the dark void of injustice, for reasons unclear. Hence, the tears rolling down the face of the wives sending their loved ones away were shimmering in emptiness beneath the glaring equatorial sunlight. Everything has been taken, ripped out, guts and all, hence left is an impossible fearful vacuum. People continued to make love, burdening each other through the hollow bottomless emptiness, with eyes dazed like familiar spirits in the pitch-black darkness. If the light filters through; you could quickly possibly go blind. Try reading the nation’s book of history in sunlight and see, the letters will disappear. The remains will be nothing but blank white pages: An entire hundred years under the French, a thousand years under the Chinese, and a million years as apes in a Stoney bronze age.

Whatever the status quo, anywhere you look, there is nothing. It has nothing to do with intolerance, or actual skepticism, in fact, maybe you or I, have run out entirely of faith in this life. No more is the virtuous new world, stuffed with deceitful ethical principles. The face of dishonesty presents itself immediately as the epitome of emptiness, so it’s easier for you to understand like this huge sky is swarmed with hateful screaming black ravens, and once they’re gone, leaving behind them will be a frightful slaughter, an apocalypse in some thrilling sci-fi.

The entire world is empty.

_____

Trống không

Truyện ngắn Nguyễn Văn Thiện

Chúng ta đang ăn những bữa tiệc trống không bằng những bát đĩa trống không. Sau đó thì trịnh trọng lau miệng bằng những tờ giấy trống không chép chép miệng ra vẻ no nê. Chúng ta đã bị tước đoạt không còn một thứ gì, kể cả đàn cá dưới đáy đại dương. Nói, bạn có thể không tin, đến cả giấc mơ êm đềm mỗi đêm của tôi cũng bị ai đó tước đoạt, ngay ở lúc đẹp đẽ nhất, cao trào nhất. Chiều nay, một buổi chiều bụng rỗng không mây, trống không cả những đường bay cánh chim quen thuộc. Phía xa tít tắp chân trời, biển cả mênh mông trống không sóng vỗ, không hề có một cánh buồm nào, dù chỉ một chút thôi, để gợi nỗi cô đơn, mất mát!
Bạn và tôi, những nạn nhân của âm mưu chiếm đoạt, như một kẻ nghiện bài bạc hay cá độ, tỉnh dậy sau một đêm trống không, bỗng thấy mình tay trắng.

Những chuyến xe trống rỗng đi ngược về xuôi chở những chiếc sọ dừa trống rỗng. Nhìn từ bên hốc mắt sang hốc tai xuống hốc mũi cũng không hề thấy dấu vết của hoài bão hay lý tưởng nào đáng kể đã từng tồn tại. Hình như con đường trống rỗng đã nhẫn tâm nuốt luôn cả biển người không não không tim. Tôi tìm thăm bạn vào một buổi sáng miền trung nắng nôi cháy khét. Bạn ngượng nghịu cười, chỉ vào màn hình trước mặt nói, mình đang sáng tác văn chương! Trời ơi, cả màn hình trống rỗng như khói sương bao phủ, không hề có dòng chữ nào! Bài thơ trống rỗng. Chúng tôi dắt nhau đi dọc biển, trên những cồn cát, có những khẩu súng nghiêm trang chĩa ra khơi xa, nhưng nhìn kỹ, nòng súng toang hoác không hề có đạn. Những con thuyền chuồi lên bờ cát nằm hấp hối, ngửa những cái bụng trống không hôi hám, chờ đến lúc đem chôn.

Tôi đang kể về một thế giới rỗng không, có thể bạn không tin, nhưng rõ ràng là tôi vừa nhìn thấy. Tôi đang đứng ngay mép nước Thái Bình Dương, dưới chân, những con sóng rỗng không mệt mỏi xô bờ. Trên cao, trăng tình cờ ghé đến, như một cố nhân chưa hề gặp mặt, giương ánh mắt trong suốt vô hồn nhìn xuống đại dương. Trăng có nhìn thấy tôi, dù là ở rất xa, nhưng tôi bây giờ ruột gan trống rỗng, trong ngực một khoảng chân không hun hút, không thể lấp đầy.

Sóng ở xa về, miệt mài như định mệnh đắng cay, đầu bạc trắng! Tôi hỏi, này, ngoài khơi kia, trống trải lắm phải không? Một lão ngư vừa kịp cập thúng vào bờ, nói với tôi câu gì đó nằng nặng thổ âm xứ Nẫu nghe không rõ, rồi tất tả trao cho vợ giỏ cá, rồi quẫy thúng đi. Tôi cả quyết đòi đi nhưng bác xua tay hét lớn: Mai mới dzìa! Tôi đứng lại, ánh mắt người vợ dõi xa xăm, trống trải màu hoa sóng, nhuộm đầy ánh trăng, như có, như không, ma quái đến rợn người.

Tôi biết, đêm nay bên bờ cát, giấc ngủ cũng sẽ trống không, không rủ về giấc mơ nào đáng kể. Chiếc vỏ ốc lượm bên chân sóng, đêm nay sẽ kể cho tôi nghe về sự trống trải của rặng san hô đáy biển, nơi hàng tấn chất độc vừa tràn qua, về xác tôm xác cá dưới đáy đại dương, chết rồi mà mắt vẫn mở trừng trừng, rỗng không, nhìn thấu sọ. Bữa cơm hồi chiều, thú thực đến giờ mình không còn nhớ đã ăn những gì, hình như là bát đĩa rỗng không. Tôi vẫn cẩn thận lấy giấy lau miệng như một thực khách quý tộc kiểu cách làm sang chỗ đông người… Hay là miệng tôi đã hóa thành một cái giếng, sâu hun hút như giếng nước Mỵ Châu từ thuở nảo thuở nào?

Có những cái chết rỗng không oan khuất và chìm nghỉm vào hư vô đen tối, không rõ nguyên nhân. Vì thế, giọt nước mắt sáng nay tôi thấy lăn trên má người đưa tiễn, cũng long lanh trống rỗng dưới ánh mặt trời nhiệt đới chói chang. Tất cả mọi thứ đã bị đánh cắp, đánh tráo, bị moi lấy ruột gan, trở nên trống rỗng một cách đáng sợ. Thậm chí người ta còn mải miết làm tình làm tội nhau bằng con đường hun hút không đáy, mịt mù như mắt linh miêu trong đêm tối bịt bùng. Ánh sáng, nếu vượt ngưỡng, mắt bạn cũng dễ bị mù lòa, không tin, ngay bây giờ bạn thử mở quyển sách lịch sử của dân tộc ra dưới nắng xem sao, chữ nghĩa sẽ biến mất, còn lại giấy trắng tinh khôi, cả trăm năm giặc Tây, ngàn năm gặc Tàu, triệu năm vượn người, đồ đồng đồ đá.

Đứng ở vị trí nào, nhìn vào đâu cũng chỉ thấy rỗng không. Đó không phải là thái độ cố chấp, hoài nghi hiện thực, mà đúng ra, là tôi hoặc bạn, đã cạn kiệt niềm tin vào cuộc sống. Thế giới tinh khiết ban đầu không còn nữa, đã bị nhồi nhét bởi những luân lý giáo điều giả dối gian manh. Và khi dối trá hiện hình, trống rỗng lập tức có mặt, nói cho bạn dễ hiểu, như một bầu trời rộng rãi tràn ngập bầy quạ đen đáng ghét, và khi chúng bay đi rồi, để lại khoảng trống kinh hoàng chết chóc, là ngày tận thế trong phim viễn tưởng.

Trống không, cả thế giới này.


Nguyễn Văn Thiện
Born: 1975
Home town: Anh Sơn – Nghệ An
Master in Comparative Literature and Critical Theories
Currently a high school teacher, and a prolific writer.
Editor of Chư Yang Sin (Đắk Lắk) Art and Literary Journal.

Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.

Chư Mang to the market | Nguyễn Văn Thiện

A short story in Vietnamese by Nguyễn Văn Thiện
Translator: Nguyễn Thị Phương Trâm 

Since it’s a lovely day, he took his letters down Mount Chư mang to sell at the market, like a mother selling their children, like the poor sell their dogs, like lovers selling each other out. Now the dejected letters followed him, mirrors of blue eyes watching the passing strangers stepping on top of each other trying to move ahead. Stay in line, no running, or you’ll get lost! He reminded them before choosing a spot to display them. People came from all directions and flooded the market, their faces covered as though they were at a masquerade ball. The sun glared at the tall, boxy residential buildings, and a breeze shifted the fluffy clouds over our head. The buildings disappeared completely behind clouds of dust; he felt sorry for his soft and weak letters. He’s also hungry, since this morning till now after lunch nothing was in his stomach, his eyes blurred from hunger, the Sun was glaring from all direction.

The letters all bent out of shape after a few days wandering the dirt-covered streets. No one was interested in buying the letters. He announced after a last look around the market, up you go, sing and dance all of you, just this once, then we’ll go home, or die here. The characters grabbing onto each other for support stood up, wobbly and shaking; they enacted a tragedy about the grim reaper reclaiming death. The hectic eyes of the city paused to watch the odd street performance. He felt heartless. He said, stop, enough, let’s go home! A bird call came from the river Năng upstream, from the ninth level of heaven resounding, full of love, urged for  their return home. They quickened their pace, headed for the anxious bird call, the songs of endearment aided them in surpassing the hills and valleys, they were on their way home! Home, to the proud, tall and formidable mountains, to the long resounding rivers, to the ancient hundred-year-old trees, to the thousand-year-old highland.

Half the way up an incline the letters began to shake and broke out in a dance. He was suddenly powerless; stood there and watched them like some talentless director as his performers ran amuck, there was no way to control or direct them. He shouted: “Hey, how do a bunch of crazy blokes dance compared to other dancers, who looks better?”. The randy letters refused the indignation of reply. He shouted again: “Now I know why no one wants to spare a dollar for you guys!”. The letters egged on, began to sing and shimmied up and around the incline. Singing louder and rowdier: “You’re so blind, yesterday at the market some gangster bribed the letter S to go with him, asked L to work in a brothel, as for the letter Đ, it ran away to the market to find money, the letter T has snuck away to the department stores to pick people’s pockets…”.

He was mortified, counting over and over again, it was true the familiar letters S, L, Đ, T… they were gone, lost somewhere in the street far away in the city!

He took the letters to the market to sell, they went feral, breaking the pack, hence it was inevitable that there were such break-ups and goodbyes. He dropped to the ground halfway up the incline, sweaty, stared intently at the city, the busy crowd pushing and shoving each other down some pit of devastating civility. Not sure where he could find S in this chaotic crowd of swords and blades. He called out: “Hey S, shooting sad satire success sure self silver linings, hey springs… come back to the mountain, don’t hang around in the streets learning bad habits bloody stabbings… Hey L, long lanky lovely lively lovable lot… come back to the mountain!”.

There was no answer!

On his butt, he called out to the lost letters, like a mage reciting a mantra calling upon the return of the dead. A fleet of birds flew by shook their heads with disbelief, the wind teased him in passing, the clouds stared… He screamed, leave me alone! At that very moment, in the distance appeared clearer the forms of the damaged letters, they were tripping, falling over each other, crying as they approached him. His heart cracked open, his vision blurred with tears: The letter L was in front, Đ right behind, both naked with flesh wounds seeping blood. Both letters fell into his arms, like daughters diving into their father’s unconditional loving arms. The letter Đ’s eyes were black and blue, lips were swollen, Đ must have received a bashing at the market. The letter L’s lower abdomen was bleeding, the wound still open and weeping, bright red… Both choking on their words reported they witnessed S getting shot, ran as she held onto her chest before collapsing at the intersection outside the market. He hugged both of his naive children, and cried. Mount Chư Mang somberly stood there firmly looking down at them, its green leafy eyes were on the verge of tears.

He grabbed a handful of leaves and started to chew it finely before placing it on L’s wound to stop the bleeding, and applied ointment on Đ’s bruises. The other letters gathered around them, they were like apes, and he was the leader of the troop. He began to lull them beyond his hurtful spirit, his voice was husky: đờ cờ lờ tờ mờ hờ hờ… Those who don’t want to die, those who brutally tried to sow evil, by this sunset let it go via the cool wind, let it go now đờ cờ lờ sờ mờ tờ… The letters relaxed, fell asleep, there was a hiccup here and there now and then in their deep slumber, like children who were falsely punished!

He sat weaving the reeds together, they needed a firm rope to cross the valley. Beyond the canyon was their home. He sang as he worked on the rope, like a poor mother in the mountains carrying her child on her back singing a lullaby as she worked in the cornfield. Ầu ơ… Đờ cờ lờ sờ hờ cờ mờ… đờ mờ cờ sờ ờ ờ lờ mờ mờ ầu ờ ờ ờ ầu ầu ơ ơ…

The long shadow of the afternoon fell as he woke up, the letters, they helped each other across the valley. The fragile rope was at breaking point. The mountain mist rolled out just in time to catch them. He guided the letters through the mist at the end of autumn. He sang as he walked as though he was a mage reciting mantras, cờ lờ đờ mờ cờ sờ… It’s very possible the string was already broken, but it didn’t matter. He announced aloud, let us be on our way, the entire earth swayed, the whole of humanity lopsided, not just us. The letters stopped crying, they held onto each other, and onward they went beneath the moonlight. The shadows of the man and letters falling longer, stretching from where they were to the other side of the valley, like ghosts appearing from the last century. Past midnight the man and letters were at the summit, to disappear completely inside the sound blinding fog.

At the foot of Mount Chư Mang, now and then people could still witness the cries and singing resounded in the mist, the eerie haunting devilish sounds stretching from the market across to the highland to then wrapped around the summit. On clear nights, on both sides of the path up the mountain were stains of dried blood the scent of wild grass.

Đờ mờ cờ sờ vờ cờ lờ let us go back to the mountain yeah… Weepy songs of lullabies, lullabies of lulling mournful sadness.

Chư Mang xuống chợ

Nhân buổi đẹp trời, hắn dắt díu bồng bế bầy chữ rời núi Chư Mang xuống kẻ chợ bán, như mẹ bán con, như nhà nghèo bán chó, như tình nhân lừa bán tình nhân. Bầy chữ cui cút đi theo, gương những con mắt màu xanh lên nhìn dòng người lạ lẫm đang cố giày xéo dẫm đạp lên nhau để về đích trước. Hắn dặn, đi đúng đường thẳng lối, không được chạy lung tung kẻo lạc! Rồi hắn chọn một khoảng vỉa hè bày chữ ra bán. Người kẻ chợ đi về như thác lũ, mặt mũi ai cũng trùm kín như thể đang tham gia lễ hội hóa trang. Gió thổi mây bay và nắng chứa chan trên những hộp nhà cao vút. Bầu trời thực sự biến mất sau làn khói bụi. Hắn chợt nhói thương những con chữ yếu mềm. Hắn cũng đói, sáng đến chiều chưa có gì vào bụng, mắt hoa lên, nhìn phía nào cũng thấy mặt trời chói gắt. 

Bầy chữ sau mấy ngày lê lết ngoài vỉa hè khói bụi đã trở nên méo mó hình hài. Hắn trừng mắt nhìn ngược nhìn xuôi chờ đợi nhưng tuyệt nhiên không hề có ai mua. Hắn nói, thôi, đứng dậy múa hát đi, một lần này nữa, rồi quay về, hoặc là chết ở đây. Lũ ký tự ngả nghiêng vịn nhau đứng dậy, vừa run cầm cập vừa trình diễn vũ điệu tử thần chết chóc. Những con mắt phố thị sấp ngửa dừng lại đứng nhìn, như nhìn đám hát rong xa lạ. Hắn thấy mình quá nhẫn tâm. Hắn nói, đủ rồi, quay về lại thôi! Tiếng chim gì đó từ thượng nguồn sông Năng chợt từ chín tầng trời vọng lại nghe từa tựa một lời yêu thương mời gọi quay về. Lũ hắn rảo bước, nhằm hướng tiếng chim khắc khoải, nhằm hướng câu hát yêu thương mà băng đèo vượt núi, về thôi! Về thôi, về núi sừng sững, về sông ngân dài, về cổ thụ vạn năm, về thảo nguyên triệu tuổi.

Về đến lưng chừng dốc thì lũ chữ lên cơn co giật và bắt đầu nhảy múa. Hắn bất lực đứng nhìn, như một gã đạo diễn bất tài nhìn dàn diễn viên làm loạn, không cách gì điều khiển nổi. Hắn hét: “Này, những gã điên nhảy múa với những vũ công nhảy múa, bên nào đẹp hơn?”. Lũ chữ bất kham không thèm trả lời. Hắn lại hét: “Hèn gì không có thằng con bố khỉ nào chịu bỏ tiền lẻ ra mua tụi mày!”. Lũ chữ càng hưng phấn, chúng vừa múa vừa hát. Hát to lên rằng: “Nhà ngươi quả thực mù lòa, hôm qua ở kẻ chợ có gã du côn đã rủ rê chữ S đi bụi đời, rủ chữ L vào động đĩ, rủ chữ Đ ra chợ kiếm ăn, chữ T đã trốn khỏi bầy vào siêu thị hành nghề móc túi…”.

Hắn kinh hoàng, đếm đi đếm lại, quả nhiên mấy chữ thân quen S, L, Đ, T… đã trốn đi hoặc lạc lối ngoài phố phường xa lạ!

Hắn dắt chữ ra chợ bán, kết quả lũ chữ bỏ đi hoang, tan đàn xẻ nghé, tử biệt sinh ly. Hắn ngồi giữa dốc quệt mồ hôi, nhìn về phố thị, thấy cả một đám đông đang đuổi nhau xuống hố thẳm văn minh điêu tàn. Chữ S bây giờ không biết ở đâu trong đám đông cuồng loạn gươm dao. Hắn gọi: “Ơ này chữ S, ơ này súng ơ này sân si ơ này sung sướng ơ này soán đoạt sờ soạng sống, ơ này sông… Về lại núi thôi về lại núi, đừng lê la phố chợ học thói lưu manh chém giết máu me… Ơ này L lờ lững lộn làng lành lặn lênh láng lung linh lóng lánh lập lòe… về núi thôi!”. 

Không có tiếng trả lời!

Hắn ngồi gọi chữ, như pháp sư ngồi niệm chú gọi hồn người chết quay về. Bầy chim bay qua nhìn hắn lắc đầu ngao ngán, bầy gió bay qua nhìn hắn cười châm chọc, bầy mây bay qua nhìn… Hắn hét toáng lên, kệ tao! Vừa lúc đó, từ xa thấp thoáng bóng hình vừa chạy vừa vấp ngã, vừa chạy vừa khóc than. Tim hắn đau nhói, mắt hắn mờ đi vì nước: Chữ L chạy trước, chữ Đ chạy sau, cả hai đứa trần truồng, thịt da gai cào tứa máu. Hai con chữ ngã nhào vào lòng hắn, như con gái đâm bổ vào lòng cha già sau cuộc tình thất bát. Chữ Đ mắt thâm tím, môi sưng vù, chắc bị ăn đòn hội chợ. Chữ L chảy máu ngay bụng dưới, vết thương hở ra lở loét, đỏ lòm… Hai đứa nghẹn ngào thông báo rằng, có thấy chữ S bị trúng đạn, vừa chạy vừa ôm ngực rồi ngã sấp mặt dưới chân cột đèn nơi ngã tư phố chợ. Hắn ôm hai đứa con nông nổi dại khờ, ngồi khóc. Núi Chư Mang trầm mặc đứng nhìn, mắt lá cũng rưng rưng.

Hắn thò tay bứt một nắm lá nhai nhuyễn rồi đắp vào vết thương cầm máu cho chữ L, lấy dầu xoa vết bầm tím cho chữ Đ. Lũ chữ phủ phục vây quanh, như bầy khỉ vây quanh gã khỉ đột đầu đàn. Hắn cất tiếng ru bằng giọng khàn khàn thống khổ điêu linh: đờ cờ lờ tờ mờ hờ hờ… Kẻ nào không muốn chết kẻ nào hung bạo lọc lừa gieo mầm ác, nào hãy buông tay trong buổi hoàng hôn gió mát, thôi, thôi nào đờ cờ lờ sờ mờ tờ… Bọn chữ gục xuống ngủ, thỉnh thoảng nấc lên trong mê man, như những đứa trẻ vừa bị đòn oan!

Hắn lặng lẽ bứt cỏ ngồi đan bện lại, cần một sợi dây chắc chắn bắc qua thung lũng. Qua hẻm núi này là về đến quê nhà. Hắn vừa miệt mài đan vừa hát, như một bà mẹ nghèo trên núi vừa địu con hai bên nách vừa trỉa bắp vừa hát ru. Ầu ơ… Đờ cờ lờ sờ hờ cờ mờ… đờ mờ cờ sờ ờ ờ lờ mờ mờ ầu ờ ờ ờ ầu ầu ơ ơ…

Bóng chiều đổ xuống, hắn xốc lũ chữ dậy, dắt díu nhau qua thung lũng. Sợi dây cỏ mỏng manh chòng chành như sắp đứt. Sương núi ùn ùn cuồn cuộn lao ra đỡ lấy. Hắn dắt bầy chữ đi trong sương núi cuối thu. Hắn vừa đi vừa hát ru như đạo sĩ niệm chú, cờ lờ đờ mờ cờ sờ… Hình như sợi dây đã đứt, nhưng có hề gì. Hắn nói to, chúng ta đi thôi, cả trái đất chòng chành, cả nhân loại ngả nghiêng chứ riêng gì chúng ta đâu. Bầy chữ thôi không kêu khóc nữa, chúng vịn tay nhau bước đi dưới trăng. Bóng chữ bóng người gầy guộc đổ dài, kéo từ bên này qua bên kia thung lũng, như những bóng ma hời từ thế kỷ trước hiện về. Quá nửa đêm thì chữ và người lên đỉnh núi rồi mất hút trong thăm thẳm mù sương.

Ở dưới chân núi Chư Mang, lâu lâu người ta vẫn nghe tiếng ai đó ca hát và khóc than trong sương, những âm thanh quỷ quyệt kéo dài từ phía kẻ chợ rồi lướt qua thảo nguyên hoang vắt rủ nhau chạy vòng quanh đỉnh núi. Những buổi trời trong, thấy rõ ràng hai bên lối đi lên núi còn vương vãi những vệt máu khô thơm mùi có dại.

Đờ mờ cờ sờ vờ cờ lờ về thôi về với núi thôi… Khóc mà như ru, ru mà như hát, hát mà như than.

Nguyễn Văn Thiện
Born: 1975
Home town: Anh Sơn – Nghệ An
Master in Comparative Literature and Critical Theories
Currently a high school teacher, and a prolific writer.
Editor of Chư Yang Sin (Đắk Lắk) Art and Literary Journal.

Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.

Chư Mang in the fall | Nguyễn Văn Thiện

Vườn mùa thu by Đinh Trường Chinh

A short story in Vietnamese by Nguyễn Văn Thiện
Translator: Nguyễn Thị Phương Trâm 
Published first on litviet.net

He embarked on an expedition solely to confirm the true meaning of life, and its nature, to try and find the source of inspiration. And he has witnessed an endless stream absent of any border confined by humanity, especially since the angels have been vacuous for a long time.

Across the row of mountains, he has surpassed, left behind are threadbare wings of celestial beings, gone, never to return. Including those clouds themselves carried the mere images of the past. He didn’t want to mention the faces of men, because there’s no elegant way to portray it! When what is pure is tainted with the smell of treachery void of thought, where be the face that has once haunted us in dreams?

On the cusp of these windy, cloudy paths, his feet trampled upon shards of meteorite a million years old. Poise, confident in completely grasping the way of life, pure and unembellished or complacent and arrogant like the dust in the imperial city, just falling apart beneath the feet of people who have once ridiculously thought they would live forever.

He carefully noted in his memory, like a diligent surveyor.  He made an act of comparison to draw out a conclusion about his own life. There are days he thought he was those clouds, chasing vows and broken promises, unattached by struggles, a face of a child.

There were anxious afternoons in passing he entertained himself by trying to step on his shadow in the vastness of nowhere. He yearns for Mount Chư Mang, where there were intoxicating beautiful familiars drawing him into games of hiding and seeking searching for butterflies. In the end, he’s always alone, alone to chase and capture without rest. Sometimes his heart aches, arms heavy, opening his fist to ten weightless fingers, flying away in swirls of smoke.

Further his travels, he held firm one certainty, not all dare to reveal the truth of their thoughts, even though they know it’s a hundred percent fact. The tragedy, even those careful with their words, believes silence is wise, or then to cover their silence with hollow jarring laughter.

He couldn’t stand it sometimes, and he’s unhinged in the middle of all that open display of intellect. Then he thought, the truth is what right does he have in forcing a bird to speak, make the sunrise in the east and set in the west if they do not wish it?

Each new day, life displays multitudes of unexpected beauty. Hence, he’s never pessimistic, never bored. Even his sigh cultivates a rush into a new adventure. No morning is like another, and as the sun rises, each new day is the very first day. Sometimes, Mount Chư Mang unexpectedly appeared like a lover in an enchanted curtain of returning autumn mist. The mountain is like someone you endear, the well-loved instrument, waiting. He continues on his way whistling to some autumn melody.

There in the morning the sunlight was brilliant, bewildered he asked himself what The Creator was doing on the seventh level, is He happy or sad?

The Creator moulded the naked human form on earth and made them mingle with animals and plants. And many have been mistaken with the idea of living means existing. And find all sorts of ways to survive longer than other people though without any understanding at all. Baffled, he asked Nietzche: “Is The Creator truly dead?”.

The ascetic philosopher laughed contemptuously and then left for a path on the rib of the mountain, golden in garlands of wildflowers.

From the moment of birth, he’s been a warped spirit. Each day from the moment he was born, beneath the weight of life, the more morbidly it is bent out of shape. Now and then, he would try to affirm his position all around him. He comes to the same conclusion, he and all around him are all shrivelled up and are as crumbled and wrinkled as each other. But that’s not important. Everyone is as ugly, or everyone is together ugly, or no one is ugly at all. What is more important is whether or not our souls have remained intact. Through the messy mass of breathing human beings he met on the road,  each one had a deep scar. On his own body an injury that never stops bleeding. He grinds his teeth, forgetting the pain, the blood, the worries so he can stand tall, nothing fancy but solemn and glorious like a boulder on the side of one road or another.

He concludes the thousand-league expedition, returning to Mount Chư Mang on a glorious autumn morning. The children carefree waited for him at the foot of the mountain and welcomed him with their bright, innocent smiles. The children are free of life’s pressures; their brilliant smiles are always full of life without reservation. They’re oblivious to the scars, to the battered wings of celestial beings discarded on far away mountains. He will tell them many stories, including the story about the despairing friendly familiar spirits on the top of Mount Chư Mang then after that sit and wait quietly for the return of the echoes from the tip of those mountains far, far away.

Chư Mang, mùa thu!

Hắn đã làm một cuộc viễn du chỉ với mục đích xác định lại tính chân thực của cuộc sống, bản chất của nó, với tư cách là ngọn nguồn sáng tác. Và hắn đã chứng kiến dòng chảy mênh mang không bờ bến của cõi người trần tục, trong khi thánh thần vắng bóng từ lâu.

Trên những dãy núi cao hắn đặt chân qua, chỉ sót lại những đôi cánh xác xơ của thần tiên một đi không trở lại. Ngay cả đám mây cũng chỉ còn mang gương mặt của chính mình trong quá khứ mà thôi. Hắn không muốn nhắc đến những gương mặt người, bởi vì, không biết diễn đạt thế nào cho phải phép! Khi sơn khê cũng phảng phất hương vị gian manh vô thức thì phố thị dưới kia, tìm đâu ra một gương mặt người đã từng ám ảnh trong mơ…

Trên những nẻo đường mây gió, bàn chân hắn từng dẫm lên những mảnh thiên thạch hàng triệu tuổi. Đĩnh đạc, tự tin thấu hiểu lẽ đời, không hoa hòe hoa sói hay tự mãn kiêu căng như cát bụi kinh thành, vừa mới vỡ vụn dưới chân người đã nhăm nhe nghĩ rằng mình vạn tuế. 

Hắn tỉ mẩn ghi chép vào trí nhớ, như một công nhân trắc địa cần cù. Hắn đang thử làm phép so sánh để rút ra một kết luận riêng tư cho chính cuộc đời mình.

Có những ngày, hắn ngỡ mình là mây, đuổi theo những hẹn thề hư ảo, bằng gương mặt trẻ thơ chưa vướng bận ngược xuôi.

Có những buổi chiều thảng thốt đi qua, hắn một mình với trò chơi dẫm chân lên bóng mình giữa thênh thang vạn dặm. Hắn nhớ núi Chư Mang, nơi có những cô gái mang gương mặt linh miêu đẹp não nùng từng rủ hắn chơi trò trốn tìm hoa bướm. Cuối cùng thì hắn vẫn một mình, một mình với một cuộc đuổi bắt không ngừng nghỉ. Có khi tim đau, có khi tay nặng trĩu, rồi đến lúc xòe ra mười ngón nhẹ hều, tất cả vừa hóa thành ngọn khói, và bay…

Càng đi xa, hắn càng chắc chắn điều này, không phải ai cũng dám nói lên suy nghĩ thật của mình, dù biết rõ điều đó một trăm phần trăm là sự thật. Bi kịch là ở chỗ, ngay cả những người cận kề miệng lỗ, cũng tự cho rằng im lặng là khôn ngoan, hoặc ngụy trang sự lặng im bằng những cái cười đểu giả.

Có khi hắn không chịu được, hắn muốn nổi điên lên trước sự khôn khéo lõa lồ ấy. Nhưng rồi hắn nghĩ, thực ra hắn lấy quyền gì để bắt con chim phải hót, bắt mặt trời phải mọc ở đằng đông và lặn đằng tây nếu như chúng không muốn thế?

Mỗi ngày mới bắt đầu, cuộc sống lại trình diễn muôn vàn điều bất ngờ đẹp đẽ. Vì thế, hắn chưa bao giờ bi quan, chưa bao giờ chán nản. Kể cả tiếng thở dài cũng manh nha một giục giã lên đường. Không có buổi sáng nào giống buổi sáng nào, mặt trời lên, ngày nào cũng là lần thứ nhất. Có bữa, hắn bất ngờ nhìn thấy núi Chư Mang như một người tình trong màn khói sương huyền ảo độ thu về. Núi như người thương, còn người thương thì như một cây đàn, chờ đợi. Hắn huýt sáo một bài hát gì đó về mùa thu rồi tiếp tục bước đi.

Có những buổi chiều nắng rạng ngời ngoài cửa, hắn hoang mang tự hỏi không biết Thượng Đế đang làm gì trên tầng trời thứ bảy, ở đó đang vui hay đang buồn? 

Thượng Đế nhào nặn ra con người trên cõi đời trần trụi rồi bắt họ phải sống lẫn vào cỏ cây muông thú. Và rất nhiều người nhầm lẫn, sống là tồn tại. Và họ tìm đủ mọi cách để tồn tại lâu hơn người khác mà không cần biết ý nghĩa của nó. Hắn bâng khuâng hỏi Nietzsche: “Thượng Đế chết thật chưa?”.

Bậc triết gia khổ hạnh ấy cười khinh khỉnh rồi bỏ đi theo con đường ven sườn núi vàng rực màu hoa dại.

Ngay từ lúc ra đời, hắn đã là một sinh linh méo mó. Càng ngày, dưới sức nặng của cuộc đời, nó càng méo mó đến thảm hại. Thỉnh thoảng, hắn vẫn nhìn lại mình, rồi nhìn qua người khác. Tất cả đều vẹo vọ nhàu nhĩ như nhau cả. Nhưng điều đó không quan trọng. Ai cũng xấu như nhau thì hoặc là tất cả cùng xấu hoặc là không ai xấu cả. Quan trọng nhất là tâm hồn của mỗi người có còn nguyên vẹn hay không. Trong đám đông lộn xộn hắn gặp trên đường xa vạn dặm, mỗi người đều mang một vết thương sâu hoắm. Ngay trong mình hắn cũng có một vết thương không ngừng rỉ máu. Hắn nghiến răng quên đau quên máu quên hết mọi phiền muộn để đứng lên vững chãi, không hoa hòe hoa sói mà trầm tĩnh hân hoan như tảng đá bên đường.

Hắn kết thúc hành trình vạn dặm, trở về núi Chư Mang vào một buổi sáng mùa thu long lanh mặt cỏ. Bọn trẻ trâu đang đợi hắn dưới chân núi với những nụ cười hồn nhiên rạng rỡ. Bọn trẻ ấy chưa bị áp lực cuộc sống đè nặng nên nụ cười cũng tròn trĩnh dễ thương. Chúng cũng chưa biết về những vết thương rát bỏng, chưa biết về những đôi cánh xác xơ của thần tiên vứt bỏ trên ngọn núi xa xăm. Hắn sẽ nói với bọn trẻ rất nhiều chuyện, kể cả chuyện về những gương mặt linh miêu hư ảo xa vời trên đỉnh Chư Mang thân thuộc rồi sau đó ngồi im đợi nghe tiếng cười vọng về từ trên đỉnh núi xa xăm.


Nguyễn Văn Thiện
Born: 1975
Home town: Anh Sơn – Nghệ An
Master in Comparative Literature and Critical Theories
Currently a high school teacher, and a prolific writer.
Editor of Chư Yang Sin (Đắk Lắk) Art and Literary Journal.

Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.

cracks | Nguyễn Văn Thiện

A short story in Vietnamese by Nguyễn Văn Thiện
Translator: Nguyễn Thị Phương Trâm 

You’re cracking, I’m also cracking open, slowly every day, every hour, did you know that? A completed million-dollar highway, a metre thick, full of gravel and cement, but already cracking after one night. Let alone you and me, flesh and bone, fragile, full of dangerous openings, how would we not crack open?

I’m slowly cracking open, like flowers of the Queen of the Night, gently, virginal purity, miracle, if you don’t take note, you will miss its blossoming. This morning, on a familiar seat at a corner cafe, a ray of light by chance fell on me, like some wild lashing. Clearly showing up the cracks on my body, an odorous scar…

Long ago, when I was born, curled up in the hay on a December day, like a mouse, red and slimy. My mother often recalled: Your skin was really soft, like velvet. Your body was slippery like a watermelon! But the older I got, the more warped I became, and more dangerous, that is the pathetic cracks grew wider and wider.

I began to change after discovering the cracks on my body, like an autistic child. A poor student in a class full of well-to-do families, I sat quietly glancing from the mended stitches on my shirt to my friend’s uniform, head lowered, stared at my desk, tried to cover them up, but it was impossible. The cracks day after day grew bigger, they had a strange smell, how could I hide something like that! The patch of sunlight innocently aimed directly at them, like some awful joke of nature, they glistened…

I would wander in the grounds of the temple’s on my free days, collecting fallen leaves and piling them on the grass, I’m not sure why. Sometimes, a monk would pass by, chatting cheerfully, laughing. I was curious why they laugh at all, there’s nothing fun about being a monk. Their laughter crisp like pebbles splitting open at the bottom of a well, resounding, and a little creepy. After passing by, I sneaked a look at them from behind. Surprisingly, there was a long crack the length of the monks’ back, steeped in blood! It seems the monks were unaware of the cracks on their backs, if they had known, perhaps, they wouldn’t be laughing at all. I called out: “Reverend sir, your backs are also…”. But the monks didn’t hear me, the monks and their laughter disappeared forever down the dark long corridor of the temple. Leaving behind a metallic stench of blood, from the cracks, the smell overwhelmed the temple’s courtyard, like incense smoke during a commemoration…

Only my mother was aware of my crack. My mother was always the first to discover my wounds. My mother announced: “I’ll go up the mountain and pick herbs for the wound, about a month and it will be fine!”. My mother is a farmer, she has never stepped foot into a classroom, how was she so sure? She assured me, there are plenty of illiterate people who were medicine men! She would wait till I’m asleep, and chewed these leaves to cover up all the cracks. I would be dead asleep, the herbs were potent, I had nightmares from them,  there was a knife made of fire, it was cutting my flesh open, like the wind from Laos long ago turning up while I was ox herding on sunny afternoons…

My mother never gave up, she wanted to cure me. But, for all my mother’s effort, the cracks changed from red to green, they smelt like steamed sticky rice. I would always add an extra layer of clothes, I tried to ease the chafing with what I had to survive, I worked hard and played hard. The cracks turned into an internal eye, always anxious, always watching.

The third eye could see the entire crack, in all the various crevices. At school every Monday morning for the National anthem, in the middle of the song when everyone was concentrating on singing, I saw our language professor’s chest cracked into halves, as though it was sliced open with a knife. And of course, he was not aware of the crack. His lips were still mumbling something as his eyes soberly followed the rising flag…

During the entire class, I couldn’t concentrate on a single word. The professor was discussing one poem or another, he complemented its rhymes, and absorbed power.  He spoke passionately, now and then would place a hand on his chest, as though he was also in pain, hurting but couldn’t admit it aloud, worried his students might laugh at him.

I left the class, went wandering. That night, I slept on the side of the road, beneath a bridge, with a bunch of homeless kids. I told them about the cracks, they all laughed at me. One of them said: “I saw, on my mother’s body, a huge crack, as black as anything”. I knew they didn’t believe me, they were teasing me. I left them, went home. In the middle of the night, the golden glorious autumn moon was glowing like an ode over my shoulders. I looked up at the Moon and it too was cracked wide open…

I have always loved the Moon, even through the craziest nightmares, but I’ve never seen a crack in it, now… Can you imagine a day without the Moon, what’s going to happen? I closed my eyes, curled up by the side of the road, homeless in the dark of night. And slept through the exhaustion, disappointment, and worries of what to come.

I woke up and the Moon was gone. The leaves rustling above my head, my hair was damp with dew. The Sun was rising.

I was very afraid to look at anything, putting on another layer of clothes, to cover up my cracks, cover my eyes, cover…

But how would one hide from the Sun, you can do nothing but look directly at it. If you look long enough, you could go blind. The green eye from the cracks stared at the Sun. It turns out, the Sun, not sure when, also has been cracked wide open. Lava leaked and oozed out of the cracks, engulfing the floating pink clouds, also already cracked wide open, for a long time now maybe…

You may ask me: “How come anywhere you look, you see cracks!”. I don’t have an answer for you, like a child who is asked a difficult question by a teacher, I would lower my head and live with the fault. The truth is, that’s not something I want. I want to be whole, the Moon should be full, the Sun should be a light over all things. But still, these were just my dreams. A student busy staring at his feet to avoid the stern glare of his teacher, terrified as he faced another fact, the ground beneath his feet was also cracking wide open…

When the ground beneath your feet is cracking wide open, where can you hide? No, there’s nowhere. I was like a fish out of water, drowning, fidgeting, every was out of focus. Long ago, you crawled out from a crack, hence now, you’re afraid, dare not to face it one more time? That was how I had encouraged myself. Lifting my head, holding my chin high, I was a samurai ready for harakiri, planted my feet firmly on the ground, I was ready and prepared to enter the wide crack opening up in the ground.

It turned out, the earth within, was no longer whole, there were so many cracks the length and width of the core, like gaping mouths, like scars, like ridiculous gaping wounds that won’t heal. And all this time, I thought the earth, this life, was solid and whole! In amongst wide open crumbling cracks were love, anger, disgust. I began my journey.

Long ago, I crawled out from a crack, and that is a fact!

_____

May 2020

VẾT NỨT 

Bạn đang nứt toác ra, tôi cũng đang nứt toác ra, từng ngày, từng giờ, bạn có biết không? Một con đường ngàn tỉ đồng vừa làm xong, dày cỡ nửa mét, toàn đá với xi măng, mà chỉ sau một đêm đã nứt. Huống gì là bạn với tôi, bằng thịt bằng xương, mong manh, đầy những khe hở hiểm ác, làm sao lại không nứt được?.

Tôi từ từ nứt ra, như một bông hoa quỳnh đang nở, nhẹ lắm, tinh tế lắm, vi diệu lắm, nếu không để ý, bạn sẽ không thấy được đâu. Sáng nay, trên chiếc ghế quen thuộc ở quán cà phê cóc ven đường, một tia nắng vô tình chiếu thẳng vào tôi, như một làn roi man dại. Tôi nhìn rõ ràng khe nứt của mình, ngời ngợi, thơm tho như một vết thương…

  Ngày xưa, vừa mới sinh ra, tôi nằm cuộn tròn trong ổ rơm tháng Chạp, như một chú chuột con, đỏ hỏn. Mẹ vẫn thường hay kể: Da mày mịn lắm, như nhung. Người trơn tru như một quả dưa hấu! Vậy mà càng lớn lên, tôi càng méo mó dần đi, và nguy hiểm hơn, là nứt toác ra một cách thảm hại.

  Kể từ khi phát hiện ra vết nứt trên cơ thể mình, tôi trở nên khác tính, như một đứa trẻ tự kỉ. Một cậu học sinh nhà nghèo trong một lớp học toàn con nhà khá giả, cậu ta tự ngó vào mảnh vá trên thân áo mình, rồi lại nhìn sang quần là áo lượt của các bạn, và ngồi im lặng, cúi gằm mặt xuống bàn, cô giáo hỏi gì cũng không nói. Tôi đấy. Thỉnh thoảng tôi đặt bàn tay nhỏ nhắn lên vết nứt của mình, thử che lại, đậy lại, bịt lại, nhưng không được. Vết nứt ngày càng rộng ra, lại bốc lên một mùi hương quái dị, làm sao mà che nổi! Vệt nắng lại hồn nhiên rọi thẳng vào, như một câu đùa hồn nhiên đau đớn, long lanh…

Những ngày rảnh, tôi lang thang sân chùa, nhặt lá rơi rồi xếp lại trên cỏ, lẩn thẩn không biết là để làm gì. Thỉnh thoảng, có sư đi qua, nói cười hớn hở. Tôi băn khoăn không biết, làm sư thì có gì vui mà sư cười giòn đến thế. Tiếng cười như đá vỡ đáy giếng, vang vang, rờn rợn. Khi sư bước qua, tôi lén nhìn trộm từ phía sau. Thật kinh ngạc, lưng sư cũng nứt toác ra một vệt dài, đẫm máu! Hình như là sư không biết lưng mình bị nứt, nếu biết, có lẽ, sư sẽ không còn cười vui được nữa. Tôi gọi: “Sư ơi, lưng sư cũng…”.  Nhưng sư không nghe thấy, cả sư và tiếng cười mất hút trong dãy hành lang nhà chùa tăm tối. Chỉ còn phảng phất mùi tanh của máu, từ vết nứt ấy, tỏa khắp sân chùa, như khói hương ngày đại lễ…

Vết nứt của tôi, chỉ có mẹ biết thôi. Mẹ bao giờ cũng là người đầu tiên phát hiện ra vết thương của con mình. Mẹ nói: “Để mẹ lên núi hái lá thuốc đắp vào, chừng một tháng sau thì khỏi!”. Mẹ là nông dân, không đến trường ngày nào, sao mẹ dám chắc chắn thế? Mẹ nói, đầy người không biết chữ cũng làm thầy thuốc, lương y đó con! Rồi lừa lúc tôi ngủ, mẹ lấy lá gì đó nhai đắp vào vết nứt. Tôi ngủ mê man, hình như lá thuốc công phạt khá mạnh, nên tôi mơ thấy có lưỡi dao bằng lửa cứa vào da thịt, như ngọn gió Lào ngày còn thơ dại dong trâu về giữa đồng trưa đầy nắng…

  Bằng tất cả khả năng của mình, mẹ định chữa cho tôi hết bệnh. Nhưng, bù lại nỗ lực của mẹ, vết nứt chuyển từ màu hồng sang màu xanh lá cây, phảng phất mùi hương cơm nếp. Tôi khoác thêm một lần áo nữa, cho đỡ bỏng rát, rồi lại tiếp tục sống, tiếp tục vui đùa và làm việc. Vết nứt trở thành một con mắt bên trong, hàng ngày nhấp nháy nhìn ra, thao thức.

Con mắt thứ ba ấy nhìn ra, lại nhìn thấy toàn vết nứt, ở những chỗ khác nhau. Khi tôi lên trường học, vào buổi chào cờ sáng thứ hai, giữa lúc cả trường đang nghiêm trang, tôi thấy ngực thầy giáo dạy văn bị nứt đôi, như vừa bị một nhát dao sắc lẹm. Tất nhiên, thầy không biết mình đã, đang bị nứt. Miệng thầy vẫn lẩm nhẩm gì đó trong khi mắt thầy nghiêm trang nhìn lên…

  Suốt buổi học hôm đó, tôi không nạp được một chữ vào đầu. Thầy giảng về một bài thơ gì đó, thầy khen thơ rất là có vần, và thơ có sức mạnh siêu gì đó. Thầy nói say sưa, thỉnh thoảng lại đưa tay lên vuốt ngực, hình như thầy cũng đau, cũng xót mà không dám nói ra, sợ lũ học trò cười thì phải.

Tôi bỏ lớp, đi lang thang. Tối đến, tôi ngủ ngoài vỉa hè, dưới gầm cầu, với lũ trẻ bụi đời. Tôi kể chuyện nứt toác cho chúng nghe, chúng cười hô hố. Một đứa nói: “Tao cũng thấy rồi, trên người mẹ tao, nứt to lắm, đen thùi lùi”. Tôi biết bọn chúng không tin nên chế giễu tôi. Tôi bỏ chúng, đi về. Nửa đêm, trăng thu vành vạnh trên đầu, như một bài thơ. Mắt tôi ngước lên nhìn trăng và ngay lập tức phát hiện ra, trăng cũng đã bị nứt toác…

  Xưa giờ, tôi vẫn yêu trăng lắm, ngay cả trong những giấc mơ kỳ quái nhất, cũng chưa bao giờ thấy trăng nứt, vậy mà… Bạn tưởng tượng được không, nếu một ngày không còn trăng nữa, thì sao? Tôi nhắm nghiền mắt lại, ngồi co ro bên đường, như một gã hành khất giữa đêm khuya. Và tôi ngủ luôn trong mệt mỏi, trong thất vọng, trong những dự cảm không lành về tương lai. 

Khi tôi thức giấc thì vầng trăng đã không còn nữa. Lá xào xạc trên đầu, sương ướt nặng trĩu trên tóc. Rồi mặt trời lên.

Tôi sợ lắm, không dám nhìn mọi thứ, khoác thêm một tấm áo nữa, để che vết nứt, để che đôi mắt, để che…

  Nhưng với mặt trời, làm sao che nổi, chỉ là không đủ thị lực để nhìn thẳng vào nó thôi. Nếu nhìn lâu, mắt bạn sẽ bị mù. Con mắt xanh màu lá cây lại nhìn trân trối vào mặt trời. Hóa ra, mặt trời, không biết bao giờ, cũng đã bị nứt toác. Từ vết nứt vĩ đại xa xăm ấy, nham thạch rỉ ra, vương vãi khắp không trung, như máu. Nham thạch tràn xuống, phủ kín những đám mây màu hồng cũng đã bị nứt toác từ lâu…

Bạn hỏi tôi: “Tại sao nhìn vào đâu cũng thấy nứt!”. Tôi sẽ không trả lời được, như cậu bé học trò gặp câu hỏi quá khó từ thầy giáo, tôi sẽ im lặng cúi đầu biết lỗi. Thực ra, tôi nào đâu muốn thế. Tôi muốn tôi là tôi tròn trịa, trăng là trăng viên mãn, mặt trời là mặt trời chắc chắn soi lên vạn vật. Thế nhưng, đó chỉ là ước mơ thôi. Cậu học trò ấy loay hoay nhìn xuống chân mình để tránh ánh mắt nghiêm khắc của thầy giáo, và cậu kinh hoàng nhận ra rằng, đất dưới chân cũng đang nứt toác…

  Khi đất dưới chân nứt toác, bạn sẽ trốn vào đâu? Không, sẽ không còn chỗ nào nữa hết. Bây giờ, tôi như con cá nhìn đâu cũng thấy mắt lưới bủa vây. Ngày xưa, bạn từng chui ra từ một vết nứt, vậy tại sao bây giờ, bạn lại sợ hãi, không dám đối mặt với nó một lần nữa? Tôi tự động viên mình vậy đấy, và ngẩng cao đầu, thản nhiên như một samurai sắp sửa tự mổ bụng, dẫm chân lấy đà, bước thẳng vào vết nứt toác vừa xuất hiện trên mặt đất.

Hóa ra, trong lòng đất, cũng không hề lành lặn, bao nhiêu là vết nứt ngang, nứt dọc, như miệng, như sẹo, như vết thương không lành nham nhở. Vậy mà lâu nay tôi cứ tưởng, mặt đất này, cuộc sống này, vững chãi lắm, lành lặn lắm! Tôi bắt đầu hành trình của mình giữa những nứt toác dở dang vụn vặt đầy rẫy yêu thương và giận hờn, khinh ghét.

Ngày xưa, tôi cũng bắt đầu đi ra từ một vết nứt, thật đấy!


Nguyễn Văn Thiện
Born: 1975
Home town: Anh Sơn – Nghệ An
Master in Comparative Literature and Critical Theories
Currently a high school teacher, and a prolific writer.
Editor of Chư Yang Sin (Đắk Lắk) Art and Literary Journal.

Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.

beheaded | Nguyễn Văn Thiện

A short story in Vietnamese by Nguyễn Văn Thiện
Translator: Nguyễn Thị Phương Trâm 
Art: Đinh Trường Chinh

BEHEADED

If you or I lose our head, it’s simple, all the senses connected to the brain, is lost. You can no longer hear, would that be a problem? Each day, what do you hear? Sweet whispers or brooding complaints, moaning ecstasy or angry retorts? You listen to people’s voices dog bark cat meow cicadas cars backfiring, anything else? Do you listen to the very last song, the nauseating age-old slogans over the public loudspeaker, anything else? The sound of the river springs coughing up of phlegm, the sound of the neighbours’ lovemaking in the middle of the day and so on. Now, to hear nothing again. Morning, nothing’s heard, noon drinking, nothing’s heard, night sleeping, nothing is also heard. Are you sorry? Do you miss it? Are you annoyed at all?

Now you can no longer see, would that be a problem? Each day, what do you see? The congested vehicles covered in grime and dust rushing around, always in a hurry. The bold faces of people standing on a pedestal lecturing about life with deceiving gums lips the size of a horse and the poison of snakes, anything else? You saw the mountains meadows whitewash in the rain rolling with skulls of those who had starved to death, the rivers blue-black or red in a twist moving back and forth. You saw the holes and what is rudely exposed or coveted fresh and beautiful, the plump lips rosy cheeks or the scruffy 5 o’clock stubbles, anything else? A hoard of people chasing after a burglar beating him to death, a hoard of people on their heads adorns the pale mourning cloth in the middle of the field and village. Now, nothing will ever be seen again. Morning came, nothing is seen, noon out there nothing, dusk you went to look, nothing. Are you sorry? Do you miss it? Are you annoyed at all?

Now you can no longer chew, correct? Each day, what do you munch? The pieces of bread eaten in a hurry between shifts, a piece of sweet roll from your childhood or a banquet of delectable delicacies? Do you chew on the crumbs of your memory full of pride devastatingly through those traumatic life-changing experiences? You masticate faster when you’re hungry and slower when you’re full, and frown as you chew when you’re faced with treachery and betrayal? A mouth was full of sweetness, a mouth full of hate. Now, nothing will ever be chewed again. Morning came, nothing is chewed, noon sitting alone not chewing, at night asleep, nothing is also chewed. Are you sorry? Do you miss it? Are you annoyed at all?

Now you can no longer talk, correct? Each day, what is your usual topic of conversation? The useless words of no value of no consequence, the harmless sociable words. You voice the kind words your father had taught you or voice what is obnoxious and crude? You fiercely defend a body not yet in the ground without reserve or some dark muddy puddle of nothing? The sound of bronze and steel, like a knife cutting into rock or cutting board constant chipping burned down your neighbour’s home? You spoke as though you’ve returned from nirvana or just crawled up from the nine realms of hell? Firm words, thoughtless words, abandoned to fate the feeble words. Now, nothing will ever be spoken of again. Morning came without a word, noon sitting under the eaves looking out, not a word, at night asleep, also not a word. Are you sorry? Do you miss it? Are you annoyed at all?

Now you have no feeling left, correct? Each day, what do you feel? You, blushing with the very first declaration of love, or the numbing embarrassment of when you’re caught secretly doing adults stuff? Stinging like you’ve been rubbed with salt when your friends accused you of treachery, those who crave life fears death, sell out their fellow human beings? Or your whole being swelling up with the news of a prize or some badge and swollen to the max with pride when you step onto the podium to receive an award. The tingling sensation at the soft touch of someone’s lips on your eyelids, or blinding pain from an ire smack across the face. Now, nothing will ever be felt again. Morning came, no feeling, at night asleep without a touch. Are you sorry? Do you miss it? Are you annoyed at all?

Now you have lost your head, correct? Each day, how do you use your head? Use it for breathing, for eating to talk to listen, to feel and to touch, correct? But if you have genuinely lost your head, then will your existence, your life, will it be affected at all? In the end, you’re still there, like a wooden moulding stump on the side of the road, evidence of an era in the history of humanity, of nations. You do not eat breathe smell nor hear, do not feel, then in history, a page is flipped, and you continue to reside in the blackness of the dark?

Hence, you need a head on your shoulders, to do what?

I need a head on my shoulders, to do what?

Tonight, I will sharpen my knife and will depart early the day after tomorrow morning.

May 2019

Chặt đầu

Nếu bạn hoặc tôi bị mất đầu, điều đó cũng không có gì đáng kể, vấn đề là ở chỗ, tất cả mọi giác quan được gắn trên đầu, đều bị mất. Bạn không còn nghe được nữa, có sao không? Mỗi ngày, bạn nghe những gì? Những thủ thỉ yêu thương hay giận hờn trách móc, rên rỉ khoái lạc hay mạt sát chửi rủa? Bạn nghe tiếng người nói tiếng chó sủa mèo gào ve kêu xe nổ, còn gì nữa không? Bạn nghe nốt những bản nhạc, những khẩu hiệu cũ mèm trên loa phường buồn ói, còn gì nữa không? Tiếng sông tiếng suối tiếng ho tiếng khạc, tiếng hàng xóm làm tình giữa trưa… Vậy mà giờ đây, không hề nghe được gì nữa hết. Sáng trở dậy, không nghe, trưa ngồi nhậu, không nghe, tối nằm ngủ, cũng không nghe. Tiếc không? Thèm không? Buồn bực không?

Bây giờ bạn cũng không còn nhìn được nữa, có sao không? Mỗi ngày, bạn nhìn thấy gì? Những chuyến xe hối hả ngược xuôi nhọc nhằn bụi bặm. Những măt người trâng tráo đứng trên bục cao dạy đời bằng môi mép của ngựa của lừa và rắn độc, còn gì nữa không? Bạn thấy những núi đồi trắng xóa cơn mưa lăn lóc sọ người chết đói, những dòng sông màu xanh màu đen hoặc màu đỏ oằn mình đi ngược về xuôi. Bạn thấy những hở hang lỗ mãng hay những e ấp xinh tươi, những má thắm môi hồng hay bơ phờ râu tóc, còn gì nữa không? Cả đoàn người đèn đuốc sáng trưng đuổi theo đánh chết thằng kẻ trộm, cả đoàn người chít khăn trắng trên đầu đi giữ ruộng giữ làng… Vậy mà giờ, không thấy được gì nữa hết. Sáng trở dậy không thấy, trưa ngồi nhìn ra không thấy, chiều đi tìm, không thấy. Tiếc không? Thèm không? Buồn bực không?

Bây giờ bạn cũng không còn ngửi được, phải không? Mỗi ngày, bạn ngửi thấy gì? Một mùi hương trên tóc trên môi trên hoa trên lá, nhẹ nhàng, dìu dịu, hay một mùi khét bốc lên từ bãi rác nghĩa địa đang giải tỏa dở dang? Bạn ngửi thấy mùi rượu mùi bia tràn trề sau những cuộc say, hay mùi thịt mùi da, mùi lông lá, mùi của những mưu toan đánh đổi hoặc chiếm đoạt, còn gì nữa không? Mùi của sắn khoai đói khát tóc cháy râu ngô trưa hè đổ lửa, hay mùi của trụy lạc xa hoa ba vạn chín nghìn… Vậy mà giờ, không ngửi gì được nữa. Sáng trở dậy không ngửi, trưa không ngửi, chiều đi tìm, không ngửi. Tiếc không? Thèm không? Buồn bực không?

Bây giờ, bạn cũng không còn nhai được nữa, phải không? Mỗi ngày, bạn thường nhai gì? Những miếng bánh mì vội vã lúc thay ca, một miếng bánh tuổi thơ đói khát hay một mâm sơn hào hải vị? Bạn nhai những ký ức vụn vặt đầy hãnh diện một cách thảm hại khi thời cuộc đã mấy lần dâu bể? Bạn ngấu nghiến khi đói và chậm rãi khi no, và vừa nhai vừa nhăn mặt khi bị phụ bạc hay phản trắc? Những miếng ngọt ngon, những miếng căm thù… Vậy mà bây giờ không nhai gì được nữa. Sáng ngủ dậy không nhai, trưa ngồi một mình không nhai, tối nằm ngủ, cũng không nhai. Tiếc không? Thèm không? Buồn bực không?

Bây giờ, bạn cũng không còn nói được nữa, phải không? Mỗi ngày, bạn thường nói gì? Những lời đãi bôi vô thưởng vô phạt, những lời xã giao không mất lòng ai. Bạn nói những lời cha chú dạy dỗ xoa đầu hay những câu khẩu dâm thô bỉ? Bạn hùng hồn bênh vực một xác chết chưa chôn hay một vũng bùn lầy tăm tối. Những âm thanh như sắt như đồng, như dao chém đá rựa chém thớt hay rủ rỉ rù rì mà cháy nhà hàng xóm? Bạn nói như là bạn lên đến thiên đường rồi mới quay về lại hay là mới chui từ chín tầng địa ngục lên đây. Có lời cứng cỏi, có lời huênh hoang, có lời mềm nhũn buông xuôi số phận… Vậy mà giờ đây không còn nói được nữa. Sáng ngủ dậy không nói, trưa ngồi bên thềm nhìn ra, không nói, tối nằm ngủ, cũng không nói. Tiếc không? Thèm không? Buồn bực không?

Bây giờ, bạn cũng không có cảm giác nữa, phải không? Mỗi ngày, bạn thường có cảm giác gì? Da mặt bạn đỏ bừng khi nghe lời tỏ tình đầu tiên, và tê rần khi bị người lớn bắt gặp bạn làm chuyện người lớn một cách lén lút. Cảm giác như bị xát muối khi bị bạn bè gọi là đứa tạo phản, đứa tham sống sợ chết, bán rẻ đồng đội? Hay là cảm giác tế bào giãn nở khi nghe tin mình đoạt giải thưởng này huy chương nọ và giãn ra hết cỡ khi bước lên bục nhận giấy khen. Cảm giác tê tái khi có một bờ môi lướt nhẹ trên mí mắt, hay buốt giá khi nhận một cái tát hờn dỗi vào má… Vậy mà giờ đây không còn cảm giác nữa. Sáng ngủ dậy, không cảm giác, trưa ngồi bên thềm nhìn ra, không cảm giác, tối nằm ngủ cũng không cảm giác. Tiếc không? Thèm không? Buồn bực không?

Bây giờ, bạn đã bị mất đầu, phải không? Mỗi ngày, đầu của bạn dùng để làm gì? Dùng để hít thở, để ăn để nói để nghe, để cảm giác và tri giác, đúng không? Nhưng nếu bạn thực sự đã mất đầu, thì sự tồn tại, sự sống còn của bạn có bị ảnh hưởng chút nào không? Cuối cùng, bạn vẫn ngồi đấy, như một cột mốc bên đường, như một chứng nhân của một thời kỳ vật vã của loài người, của dân tộc. Bạn không ăn không hít không ngửi không nghe, không cảm giác, thì lịch sử có sang trang, hay vẫn tăm tối mịt mùng?

Vậy thì, bạn cần cái đầu trên cổ bạn, để làm gì?

Tôi cần cái đầu trên cổ tôi, để làm gì?

Đêm nay, tôi sẽ mài dao thật sắc, và sẽ ra đi vào sáng sớm hôm sau…


Nguyễn Văn Thiện
Born: 1975
Home town: Anh Sơn – Nghệ An
Master in Comparative Literature and Critical Theories
Currently a high school teacher, and a prolific writer.
Editor of Chư Yang Sin (Đắk Lắk) Art and Literary Journal.

Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.