Butterflies high in the mountain | Nguyễn Văn Thiện

2014 Spring in Seoul. Photography: Nguyễn Thị Phương Trâm

A short story in Vietnamese by Nguyễn Văn Thiện
Translator: Nguyễn Thị Phương Trâm 
Published first on litviet.net

The highland is entering the season of rain, beginning the season of rain also means the beginning of the butterfly season. So many untold numbers of butterflies and I am incredibly free. In the morning with nothing to do, I go to watch the butterflies, in the afternoon with nothing to do, I chase after the butterflies, in the evening with nothing to… Life is just an epic journey in play. But I’m a coward, going up the mountain I can’t go alone, I ask my whole childhood and senior years to come along.

In me are three of us: I am now an adult, and I am as before a child, and I am as will be geriatric. The three of us play together amicably, protecting, like father and sons, like three brothers or grandpa and grandsons. The child exclaimed happily: Oh, it’s so beautiful, they have both yellow and white! The adult with a smirk on his face looking at pearly colour petals, while the old man is sombre, staring at something far in the distance on the top of the mountain. The child was skipping along and whistling, the adult strolls, as the old man bent over meandering his way. The three of us decided to climb Mount Chư Mang together.

Halfway up the incline, the geriatric stays back to rest, massaging his knees cursing under his laborious wheeze. The child side step happily skipped away into the distance. Left is the adult, calmly continuing his way forward. On Mount Chư Mang there’s a fresh spring that runs the four seasons continuously, continually bubbling. I lifted my nostrils inhaling etching the direction. There are so many butterflies up there—the lazy wings brilliant butterflies all day sipping water singing and dancing. Life is full of joy. My head was hurrying my footsteps—the higher up the climb, my skin, a layer of cool goosebumps. At the start, there were three of us, now, no way near, I’m alone. Lonely, I called out: Child, where have you disappeared! Old man, hurry up I’m waiting! Only the moaning of the mountain returns in reply. Then there was a sound echoing from the top, some inviting laughter or challenge.

Dusk, the light roast gold the extending limbs of blooming crepe myrtle. The child lifted his eyes. A lounge of mountain lizards moving from branch to branch. Each lizard jaw held onto the other tail in a long line. The child, animated by it, stopped to watch, distracted. He forgets the road ahead is still very long, the water spring is still way ahead at the top of the mountain, very far away! But butterflies, to a child, it’s just another game, at the moment he likes this game of biting the tail in front of the mountain lizards. The mountain lizards invited the child to join, he enthusiastically joined in. He bites the tail of the one in front, holds out his hand to hold onto the head of the one from behind, jumping from branch to branch. In the meantime, the geriatric is tired, meandering the path, nearly there, nearly there, he audibly pushed himself in every step.

I came upon the spring of cold water at dusk. In a little bit, the shadow of night falls. Squatting by a boulder, scooping up the water washed my face. No butterflies. Perhaps, after a long day of frolicking those pretty butterflies have returned to reside on the spines of leaves for the night. I fished out many wings from the water, brought it to my nose; a bewildering fragrant. The scent of trees and grass, water, or is it of the wind, of the earth, of Mount Chư Mang? I carefully layered each pair of wings on a boulder, to make a mat, a blanket, and fell asleep. Have you ever fallen asleep in such a way? It’s amazing. A peaceful sleep, dreamless, no nightmares, no grinding teeth, no snoring nor mumbling. And in the morning, when the sunlight is bright on my face, I step down from the boulder by the spring, my body completely light.

I’m only but a – third left!

No head, no chest, no stomach, just legs stuck onto the crease of my loins, like a body ravaged by a wild cat, half-swallowed, left behind the bottom part. I walked away as light as though I’m flying. And at that moment, the butterflies appear. We danced, and we sang. In the end, to live is to play, the butterflies whispered into my ears.

While I slept beneath the infinite wings, the old man crawled into a hollow of a tree. He’s all scrunched up waiting for nightfall. He couldn’t sleep, he complains as he tucked into a meal of fat gold ants to tame the hunger, like a Komodo dragon feasting on a mountain of termites. Those cheeky ants played death so they can slide smoothly into the stomach of the man, and build a nest. Then in a frenzy, the ants gnawed the geriatric from the inside out. By the morning, nothing was left of the old man’s body, but his hairy head.

The geriatric also only has a – third left!

The lounge of lizards played non-stop without ever a sign of tiring, moving from branch to branch all night, laughing all night. The child was never bored. He laid the length of the tree branch, the lizards crowding him, bit off his hands, his head, his butt and dragged it away, biting and laughing merrily. When morning came, the lizards left. The child’s head has been bitten off together with his legs.

The child, in the same scenario, now also has only a – third left!

At the top of the mountain, when it rains, it’s unbelievably cold — especially if you’re no longer whole, as the three of us. Hence, we looked for each other amidst the vast emptiness. Child, which direction are you lost? Hey adult, where are you having fun? Old man, hurry up I’m waiting? Our voices were echoing, like butterflies in song, like the weeping of a mountain. In the end, we found each other, out of breath, tattered, exhausted, unfished.

The old man whining censures:

“You guys, now I’m only this much left!”

The child all confused:

“They, they bit everything off, there’s only this much left!”

The adult conceptualise: 

“Heck what has happened to us, life is now only a third.”

Three times one part three shall become a whole, I decided. That’s it, and we decided to unite as one. The body of the child with the head of the geriatric and the pair of my present legs, buckling, distorted, hard to look at, but what could we do! As long as we’re whole, to continue on our way.

In the morning with nothing to do, I go to watch the butterflies, in the afternoon with nothing to do, I chase after the butterflies, in the evening with nothing to…

It’s a mere epic search for play./

[May 2019]

Bướm trên núi cao

Tây nguyên chớm vào mùa mưa, chớm mùa mưa cũng là bắt đầu mùa bướm. Bướm nhiều vô kể, mà tôi thì rảnh vô cùng. Buổi sáng, không biết làm gì, tôi đi xem bướm, buổi chiều, không biết làm gì, tôi đuổi theo bướm, buổi tối cũng không biết làm gì… Đời chỉ là một cuộc rong chơi. Nhưng tôi vốn nhát, khi lên núi không dám đi một mình, tôi rủ cả tuổi thơ và tuổi già của tôi cùng đi luôn thể.

Trong tôi có ba đứa: Tôi hiện tại tráng niên và tôi ngày xưa tuổi nhỏ và tôi ngày sau tuổi già. Ba đứa chơi với nhau hòa thuận, đùm bọc, yêu thương như ba cha con, ba anh em hoặc ba ông cháu. Tôi tuổi thơ reo vui: Ồ, đẹp quá đi, lũ chúng nó đều có màu vàng và màu trắng! Tôi tráng niên nhếch mép nhìn theo những cánh hoa màu ngọc, trong khi tuổi già trầm ngâm nhìn cái gì xa xôi trên đỉnh núi. Tuổi thơ vừa đi vừa nhảy vừa huýt sáo, tráng niên bước chậm rãi, tuổi già lọ mọ dò đường. Ba đứa chúng tôi rủ nhau lên núi Chư Mang…

Lên đến nửa dốc, tuổi già ngồi nghỉ lại, vừa đấm vào gối vừa lầm bầm than thở hoặc chửi rủa. Tuổi thơ tung tăng rẽ dọc rẽ ngang rồi mất hút. Chỉ còn lại tráng niên điềm tĩnh bước. Trên núi Chư Mang có một khe nước mát lạnh, nước chảy bốn mùa, dầm dề phồn thực. Tôi ngửa mũi khịt khịt đánh hơi tìm hướng để đi. Trên ấy tha hồ bướm. Những cánh bướm sặc sỡ lười biếng suốt ngày uống nước và múa hát. Đời vui biết mấy. Đầu giục chân bước nhanh. Càng lên cao càng lạnh đến sởn da gà. Khi đi có ba người, bây giờ, nơi lưng chừng dốc, chỉ còn lại một tôi. Cô đơn quá, tôi gọi: Tuổi thơ ơi, mày lạc đâu rồi! Tuổi già ơi, nhanh lên tôi đợi! Chỉ có tiếng núi hú hét đáp trả, chỉ có tiếng lá rì rào đáp trả. Có tiếng gì từ trên đỉnh cao xanh vọng xuống, như một tiếng cười mời mọc hoặc thách đố.

Xế chiều, nắng vàng rộm trên vạt bằng lăng trổ bông. Tuổi thơ ngước mắt lên nhìn. Nó thấy một bầy thằn lằn núi đang chuyền cành. Con nọ cắn vào đuôi con kia thành một hàng dài. Tuổi thơ thích quá đứng hẳn lại xem và cổ vũ. Nó quên rằng, đoạn đường phía trước còn rất dài, khe nước ở tít mãi trên đỉnh núi cơ, xa lắm! Với lại, bướm, đối với tuổi thơ, chỉ là một trò chơi xa lạ, nó thích trò cắn đuôi của bọn thằn lằn núi. Bọn thằn lằn mời tuổi thơ chơi, nó nhiệt tình tham gia ngay. Nó cắn miệng vào đuôi một con phía trước, tay đưa ra sau nắm đầu một con khác, rồi chuyền cành. Trong khi đó, tuổi già mỏi mệt dò đường, sắp đến rồi, sắp đến rồi, ông ta vừa bước vừa tự động viên…

Tôi bước đến gần khe nước lạnh vào cuối chiều. Chỉ một chút nữa thôi là bóng đêm sẽ đổ xuống. Ngồi bên tảng đá, vục nước rửa mặt. Không có bướm. Có lẽ, những bạn bướm xinh đẹp sau một ngày múa hát mệt mỏi đã tìm về ngủ sau vòm lá. Tôi vớt được từ dưới suối rất nhiều đôi cánh, đưa lên mũi ngửi, rất thơm. Hương thơm của cỏ cây, của nước, hay của gió, của đất trời, của núi Chư Mang? Tôi tỉ mẩn xếp những đôi cánh lại trên tảng đá, làm chiếu, làm chăn, và ngả lưng nằm ngủ. Bạn đã bao giờ ngủ như thế này chưa? Tuyệt lắm. Giấc ngủ bình yên, không hề chiêm bao, không hề mộng mị, không nghiến răng, kéo gỗ hay chép miệng. Và sáng ra, trở dậy khi nắng bừng trước mặt, tôi bước xuống khỏi tảng đá bên suối, thấy mình nhẹ bẫng.

Tôi chỉ còn lại một – phần – ba!

Không còn đầu, không còn ngực, không còn bụng, chỉ còn đôi chân dính vào khớp háng, như một xác người bị hổ vồ, nuốt dở, còn sót lại phần dưới. Tôi bước đi nhẹ bẫng như bay. Và khi đó, các bạn bướm bắt đầu xuất hiện. Chúng tôi nhảy múa và hát tưng bừng. Cuối cùng, sống cũng chỉ để chơi thôi, các bạn bướm thơm lừng ghé vào tôi nói nhỏ.

Khi tôi ngủ trong vô vàn cánh bướm thì tuổi già chui vào một hốc cây. Ông ta ngồi thu lu trong đó đợi đêm tàn. Tuổi già thật khó ngủ, ông ta than thở như vậy và thò tay nhặt những con kiến vàng béo ngậy bỏ vào miệng cho đỡ đói. Ông nguyền rủa đứa nào rủ rê ông đi chơi xa rồi bỏ ông lại một mình. Suốt đêm như thế, tuổi già ăn hết nguyên một tổ kiến vàng, như một con kỳ đà ăn tổ mối… Những chú kiến vàng láu lỉnh không kém, chúng giả vờ chết để trôi tuột vào miệng tuổi già, rồi làm tổ trong đó. Rồi chúng hè nhau gặm ngược trở ra. Cho đến sáng, tuổi già đã bị kiến gặm gần hết, chỉ còn lại cái đầu hoa râm.

Tuổi già cũng chỉ còn lại một – phần – ba!

Lũ thằn lằn núi chơi không biết mệt, chúng chuyền cành trong đêm khuya, cười đùa trong đêm khuya. Tuổi trẻ chơi không biết chán. Nó nằm dài trên cành cây, bọn thằn lằn bu quanh, cắn tay cắn chân cắn đầu cắn đít nó lôi đi, vừa cắn vừa cười nắc nẻ. Đến khi trời sáng rõ, lũ thằn lằn núi bỏ đi. Tuổi trẻ đã bị cắn đứt đầu và đứt hai chân.

Tuổi trẻ, thật trùng hợp, bây giờ cũng chỉ còn lại một – phần – ba!

Trên đỉnh núi cao, khi trời đổ mưa, lạnh không kể xiết. Nhất là khi chúng tôi không còn nguyên vẹn nữa. Vì vậy, chúng tôi gọi tìm nhau giữa muôn trùng hoang vắng. Tuổi trẻ ơi, mày đi lạc phương nào? Tráng niên ơi, mày chơi ở đâu? Tuổi già ơi, nhanh lên tôi đợi? Tiếng chúng tôi vang vọng, như tiếng bướm hát ca, như tiếng núi khóc than. Cuối cùng, chúng tôi cũng tìm thấy nhau, phờ phạc, rách nát, mệt nhoài, dang dở.

Tuổi già lên tiếng trách móc:

“Mả mẹ mày, giờ tao chỉ còn lại chừng này!”

Tuổi trẻ hoang mang:

“Mả mẹ nó, chúng cắn đứt hết, chỉ còn lại chừng này!”

Tuổi tráng niên bâng khuâng:

“Mả mẹ chúng mình, đời còn lại một phần ba”

Ba lần một phần ba sẽ là một nguyên, tôi khẳng định. Thế rồi, chúng tôi thống nhất ráp lại với nhau. Phần thân mình tuổi trẻ gắn với cái đầu tuổi già và đôi chân tôi hiện tại, cọc cạch lắm, vênh lắm, kệch cỡm lắm, khó coi lắm, nhưng biết làm sao được! Miễn là, tôi vẫn vẹn nguyên, tiếp tục lên đường.

Buổi sáng, không biết làm gì, tôi đi xem bướm, buổi chiều, không biết làm gì, tôi đuổi theo bướm, buổi tối cũng không biết làm gì…

Chẳng qua là một cuộc rong chơi./

Nguyễn Văn Thiện
Born: 1975
Home town: Anh Sơn – Nghệ An
Master in Comparative Literature and Critical Theories
Currently a high school teacher, and a prolific writer.
Editor of Chư Yang Sin (Đắk Lắk) Art and Literary Journal.

Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.

sips of blood | Nguyễn Văn Thiện

A short story in Vietnamese by Nguyễn Văn Thiện
Translator: Nguyễn Thị Phương Trâm 
Art: Đinh Trường Chinh

There was no story left to tell. A few days ago, a thief from my place stole all my stories; I lost sleep and I was exhausted. Without the stories, I was a person without a soul. You wouldn’t understand, it’s a long story about the mead, about a familiar mountain and river. The thieves dared took from me these stories. I don’t have a gun, a knife, or any bamboo spear. I was weak; I sat like a little girl wide-eyed as the bullies took her favourite doll. I sat there crying alone!

I resented them, swearing but not too loudly, mumbling quietly, and demolished. Truthfully, the thieves couldn’t care less about my stories,  but amongst the street rats, one of them turned around and challenged me: “What did you just say?”. Mustering up a bit of courage, I raised my voice: “Return my stories to me!”. He drew closer: “What stories? You want to tell us a story?”. Wiping off the tears, I nodded. And the entire gang stopped. Their leader threatened: “you have to tell me a story, a story completely different from the ones I stole from you!”.

Surrounded by knives, and swords, I thought, today was the day I die! Collecting all the courage I possessed, I began: “My nation is the shape of a turtle’s claw, curved and very sharp!”. The general threw his head back in a fit of laughter: ”Oh, that smooth claw, I bought that thing a long time ago!”.

One of the gang members muttered something into their leader’s ear, and they sneered.

“Are you trying to scare us with that tale, know this, even the golden turtle had a price, let alone that smooth claw of yours! Tell me something I don’t know!”. As he spoke, the leader un-scabbard his sword. My feet froze. I said:” When I was little, I grew up by a river full of buried sharp wooden spikes! The enemy ships were destroyed as they entered, for miles and miles the river was bright red with the spilt blood, and the stench pervaded for a thousand autumns…”.

The thieves began to lose their patience, some eyes rolled back as though they were having a seizure. One of them said: “Tell us a different story, that shit, let me tell you, we already own!”.

Up to this point, I was truly baffled, they seemed to know everything, there was nothing they had not bought or were they lying to scare me? They spoke amongst themselves before they all sat down in a circle. A thief with a baby face pulled out a flask of wine from his pocket, poured me a cup, and said: “Our leader thinks you’re the dumbest storyteller he’s ever met, he’s going to give you a flask of this precious wine, finish drinking it then you may continue to serve him with your stories!”

It was definitely poison I thought, and perhaps this was how I’m going to die! I lifted the cup to my lips, the liquid was red and sticky, metallic, horrid, and sickly sweet. Blood! They consume blood! Blood from where? 

One of them pinned me to the ground and forced it down my throat. I heard the blood gurgling from my lips down into my stomach, invading the six principal organs. Is it the blood from the tale of the homeland I just mentioned?

After I had finished drinking the blood, I was tipsy, light-headed, and drunk. When drunk, people forget their fear. I said, “Our blood is the blood of heroes, nurtured and cared for thousands of years, fragrant like the essence from the herbs on Mount Chư Mang! There were those ill-famed thieves who had fought for a taste of it and died with eyes wide open. The traitors denied burial; their bodies festered, rotted ripped apart by vultures”.

A thief laughed with his mouth, half-open, “ Your blood, I’ve also gone and bought!”. He opened his pocket as he spoke, “A pocket full of money!” The gangster said, “This idiot, must be the most stupid storyteller we’ve ever met!”. After he spoke, he stood up, and lit a fire. Mount Chư Mang was in flames; Kroa streams burned, the mead was on fire, the fire spread wildly, gained violent momentum. Then one after the other they left, passing around the flask of blood as they walked away, laughing. Besides the leader and his gang, there were very familiar faces; I’d met time and again. They, with zero remorse, followed the thieves, palms open begging for their sip of blood, as they drank, they laughed, and sang. I screamed amidst the flames: Why did you sell the claw of the golden turtle?”. They did not answer. I continued to shout: “Why did you sell the sharp spikes, our last point of defense in the river from the enemy?” Not a word from them. I screamed again, “Who gave you permission to sell the blood of our heroes?”. They laughed even louder and left, they walked away, guzzling the blood. 

One after the other, they followed each other, no longer bothered with me. I sat amongst burning flames, listening to the numbing blaring thunder coursing through my veins. Everything will turn to dust, including the stories I told. Including mount Chư Mang, including where I’m sitting, including all the thieves that had just left, all shall be ashes. Gone forever were the stories told, the same notes, nothing shall be left for the children of tomorrow.

—–

June 2018

Những ly rượu máu

Truyện ngắn Nguyễn Văn Thiện

       Không có chuyện gì để kể nữa rồi. Có một gã trộm cướp đã lẻn vào nhà và ngang nhiên thò tay nẫng mất câu chuyện của tôi. Mấy ngày rồi, tôi buồn ủ rũ. Không còn chuyện gì để kể, tôi như người mất hồn. Bạn không biết đâu, đó là một câu chuyện dài về thảo nguyên, về ngọn núi dòng sông thân thuộc. Thế mà tên tướng cướp kia, lại dám cướp ngang. Tôi không có súng để bắn, không có dao để đâm, cũng không có chông tre lưỡi lê lưỡi mác. Tôi mềm yếu, đành như cô bé ngồi nhìn con búp bê thương yêu của mình bị kẻ mạnh hơn cướp mất. Rồi ngồi khóc một mình!

       Tôi căm hận, nguyền rủa, nhưng không dám nói to, chỉ lẩm bẩm một mình, đả đảo… Thực tình, tên tướng cướp không thèm để ý lời tôi, nhưng trong bọn lâu la đi theo, có một đứa nghe, bèn quay lại hỏi: “Mày vừa nói gì?”. Tôi làm liều hét lớn: ” Trả câu chuyện lại cho tao?”. Hắn nhe nanh: “Câu chuyện hả? Mày thích kể chuyện đúng không?”. Tôi chùi nước mắt, gật đầu. Thế là cả nhóm đứng lại. Tướng cướp nói: “Mày phải kể cho tao nghe một câu chuyện, một câu chuyện hoàn toàn khác với câu chuyện mà tao vừa lấy, hiểu chưa, hoàn toàn khác!”.

       Xung quanh tôi là những gương mặt ác ôn với dao kiếm tua tủa. Tôi nghĩ, cuối cùng, hóa ra là mình chết theo kịch bản này! Lấy hết can đảm, tôi kể: “Quê hương tôi hình một chiếc móng rùa, cong cong nhưng rất sắc!…”. Tên tướng giặc ngửa cổ cười sằng sặc: “Tưởng gì, cái móng vuốt đó, tao mua lâu rồi!”.

       Một tên lâu la ghé tai nói nhỏ với gã tướng cướp, rồi cả hai đứa gật đầu cười với nhau.

       “Tao biết mày kể chuyện đó để hăm dọa tụi tao, nhưng nói cho mày biết, cả con rùa vàng tụi tao còn mua được, huống chi cái móng vuốt của mày! Thôi, mày kể chuyện khác!”. Vừa nói, gã tướng cướp vừa rút gươm ra. Tôi thấy hai bàn chân lạnh toát. Tôi kể: “Tuổi thơ tôi, sinh ra và lớn lên trên những dòng sông chôn đầy cọc nhọn! Thuyền quân cướp đi vào tan xác, máu đỏ vạn dặm, tanh để nghìn thu…”.

       Bọn cướp, lúc này có vẻ không còn kiên nhẫn được, có đứa mắt vằn lên như say rượu. Một đứa nói: “Mày kể chuyện khác đi, bãi cọc đó, nói cho mày biết, tụi tao cũng mua luôn rồi!”.

       Đến đây thì tôi thực sự hoang mang, sao cái quái quỷ gì chúng nó cũng biết, cũng mua được hết, hay chúng xạo để dọa tôi? Bọn chúng nói gì đó với nhau rồi lần lượt ngồi lại, vòng tròn. Một tên cướp mặt non choẹt rút trong túi áo ra một chai rượu, rót cho tôi một ly, nói, thủ lĩnh thấy mày là đứa kể chuyện đần độn nhất mà ngài từng gặp, ngài ban cho mày một ly rượu quý, uống xong để kể tiếp hầu chuyện ngài!

       Tôi nghĩ, rượu độc đây mà, có lẽ chúng sẽ giết tôi bằng cách này! Tôi đưa ly rượu lên miệng, đỏ lòm, tanh lợm. Máu! Chúng uống máu! Máu ở đâu ra?

Một gã đè tôi ra đổ ly rượu vào miệng tôi. Tôi nghe máu chạy rần rật từ miệng xuống dạ dày, lan sang lục phủ ngũ tạng. Hay là máu trong câu chuyện về quê hương mà tôi đang kể?

       Sau khi uống cạn ly máu, tôi say, chếnh choáng như say rượu. Khi say, người ta quên sợ. Tôi kể: “Máu của chúng tôi là dòng máu anh hùng, được chưng cất từ hàng ngàn năm, thơm như dầu thảo mộc trên núi Chư Mang! Có những tên cướp khét tiếng hung hãn sau khi uống máu vào thi say và chết trợn mắt. Còn những kẻ phản bội thì sau khi chết không được chôn, xác thối rữa làm mồi cho diều quạ”.

       Tên tướng cướp cười nửa miệng: “Máu của tụi mày, tao cũng mua nốt!”. Nói rồi hắn mở túi ra: Nguyên một túi tiền đầy ắp! Mấy tên lâu la nói: “Thằng này, đúng là đứa kể chuyện đần độn nhất mà chúng ta từng gặp!”. Nói rồi, chúng nó đứng dậy, thản nhiên châm lửa đốt. Núi Chư Mang cháy phừng phừng, suối Kroa cháy, thảo nguyên cháy, lửa lan mỗi lúc mỗi nhanh, dữ dội, cuồng loạn. Rồi chúng nó kéo nhau đi, vừa đi vừa chia nhau bầu máu, vừa uống vừa cười hả hê. Ngoài tên thủ lĩnh và bọn lâu la, có cả những gương mặt rất quen, tôi đã từng gặp nhiều lần. Chúng cam tâm đi theo lũ cướp, ngửa tay xin từng ly máu đỏ bầm, uống, và cười, và hát. Tôi hét trong lửa cháy: “Tại sao chúng mày bán móng vuốt rùa vàng?”. Chúng nó không trả lời. Tôi hét tiếp: “Tại sao chúng mày bán cọc nhọn trừ giặc ở trên sông?”. Chúng nó vẫn không hé răng. Tôi hét nữa: “Ai cho tụi mày bán dòng màu anh hùng cho giặc cướp?”. Chúng nó cười sằng sặc và bỏ đi, vừa đi vừa chia nhau uống máu.

       Chúng kéo nhau đi rồi, không thèm để ý đến tôi nữa. Tôi ngồi giữa mênh mông lửa cháy, nghe gió gầm bão giật tái tê trong huyết quản của mình. Tất cả rồi sẽ thành tro bụi, cả câu chuyện đau thương mà tôi vừa kể. cả núi Chư Mang, cả chỗ tôi đang ngồi, cả chỗ bọn cướp mới đi qua, rồi tro bụi hết. Chỉ còn lại muôn đời những câu chuyện kể, trùng trùng, điệp điệp, để lại cho con cháu mai sau.


Nguyễn Văn Thiện
Born: 1975
Home town: Anh Sơn – Nghệ An
Master in Comparative Literature and Critical Theories
Currently a high school teacher, and a prolific writer.
Editor of Chư Yang Sin (Đắk Lắk) Art and Literary Journal.

Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.

Faces of familiar spirits | Nguyễn Văn Thiện

A short story in Vietnamese by Nguyễn Văn Thiện
Translator: Nguyễn Thị Phương Trâm 
Art: Đinh Trường Chinh
Published first on litviet.net

People tell me: “Why don’t you write something more pleasant!”.

Writing a pleasant story is not difficult, but the story about Mount Chư Mang continues to haunt me. Fervently, I went searching for an adventure much like the sad tale of Don Quixote in the autumn of his life, in search of a knight’s honour armed with a blunt sword and rusted armour. But the rivers are long and the mountains vast. The joy of chasing pretty familiar spirits left me drunk and  afflicted with contradiction.

Sweet is the meaningless reality in dreams; the ability to love an ethereal angelic face tainted with evil.

Each night, the darkness fell like a waterfall. These beautiful familiar faces appeared on the window sill: “Come to the mountains”, “What are you afraid of, coward…” There, they’ve returned, the familiar spirits. They asked me to follow them to the mountains if I do not, they implore, they beg, and I would as always give in and follow them, to continue the same dream.

I went searching for the green eyes, and ruby lips amongst the towering old trees — a sad lumbering knight in search of “the” dream at the end of his life. Yes, sometimes there was a glimpse of bright dark eyes, yes, sometimes the heat of those red lips. But, like anything determined by fate, it’s a fleeting moment before those eyes’ lips flit away, and disappear into the dark black starry night.

When the moon and stars were spent, on blades of grass past the be-witching hour the spirits dissolve, they were lulled to sleep between the rocks. I would cry: “Stay play, keep playing, morning is not yet near!”. In a state of half-wakefulness and sleep, their laughter fell free from the higher branches, breaking into a swarm of autumn fireflies. I would hug the fresh silk sheath abandoned in my arms, and inhale the lingering addictive intense scent, like remnants of precious fossils from a million years ago.

You asked: “Where do those familiar spirits come from?”. I’ve no idea; I first met them the day I set foot on Mount Chư Mang. Amusing himself with a game of hiding and seeking fate, looking for happiness. A knight discarded by society.

Bright nights wandering in the mead, one hand with a fist full of clad silk, one hand cupping the smile of a pretty demon. Me in shredded ill-fitting clothes from top to toe, decrepit, like a scarecrow at the end of a season. At sunrise, the soulful smiles would grow delicate wings before they would fly away, those fragrant robes also flew, leaving behind a man with ludicrous laughter steeped in the evening dew, like some guy stomping on a lifeless creel all day all night.

I consoled myself, fine, starting tomorrow I won’t go there, starting tomorrow. But by sunset, falls are always the thrilling sweet sound of a far-off dream!

You say it’s a time of diminished dharma, ghouls and demons were everywhere, sightings atop mountains, valleys, be careful! I, for long, have forsaken my virtue. In tattered armour, I carried a broken sword in search of adventures, I carried with me the jeering laughter of a fool, even in the most despairing defeat. Though in all those endless dreams, this village knight had never once fulfilled his desire. The more he chased, the more those beautiful demonic faces and their stirring laughter flew further away.

Now there isn’t a place on Mount Chư Mang I’ve not walked. I traveled the nights basking in moonlight wrapped in stars, nights battered by rain-soaked hail and mist. All those beloved familiar faces were flickering far far away, sometimes this side of the mountain, sometimes way there in the mead. Sometimes I am so tired, that I would fall asleep in their soft embrace and tender caress, dreaming those dreams, I’m soaring in the sky, heading for the heavenly blue clouds. Sometimes I’m so tired, that I would find myself sitting on the ground hugging my knees, always with me was the blunt broken sword, and a smile drenched in blood basking in the moonlight.

I’m okay, don’t worry. So many years of my youth were spent nurturing delusions, to bury them now, here. By nightfall, I would again sing the songs of tall mountains and deep valleys. So long as I’m entertained, so long as all those beautiful familiar faces of angels never leave this mountain. I will continue to hunt, and embrace tightly the big dreams of my youth, aren’t we all the same! Till we no longer have our youth, till mouldered is our armour, till the eyes are blurry and our feet slower, as the sound of those inviting laughter rises I will take to the road.

“To the mountains, I go…”.

There, can you hear it? Outside, like the call of a trumpet of a funeral march, the golden shadow of humanity falls in sorrow. I have to go; I must prepare for the continuance of my dream, the same continual dream, of life crashing like ocean tides, rhythmic for a hundred years, for a lifetime.

Again I must go!

Những gương mặt linh miêu

Bạn nói: “Hãy viết một câu chuyện ngọt ngào đi?”.

Bịa ra một câu chuyện ngọt ngào thì có gì là khó? Vấn đề là câu chuyện về núi Chư Mang vẫn chưa khi nào thôi ám ảnh. Tôi mải mê đi tìm một ảo ảnh về tình yêu, như chàng hiệp sĩ cuối mùa tội nghiệp Don Quixote, tìm cách chinh phục thế giới bằng một lưỡi gươm cùn và bộ giáp trụ rách nát. Mà núi thì quá cao xanh, mà sông thì quá rộng dài. Trò chơi trốn tìm với những nàng linh miêu xinh đẹp thì đầy cám dỗ nhưng cũng đầy trắc trở.

Có gì là ngọt ngào không khi bạn yêu một gương mặt đẹp tựa thánh thần lẫn ác quỷ, mà chỉ xuất hiện trong mơ thôi chứ chưa gặp mặt bao giờ?

Mỗi đêm về, bóng tối tràn qua như thác đổ, những gương mặt đẹp ma mị lại xuất hiện bên cửa sổ: “Lên núi chơi thôi”, “Sợ gì chứ, đồ nhát gan”… Đó, linh miêu lại về đó. Họ rủ tôi lên núi chơi, nếu không đi, họ năn nỉ, họ khiêu khích, thế là tôi lại ra khỏi nhà, tham dự vào trò mộng du miên viễn.

Tôi đi tìm những mắt xanh môi thắm giữa bạt ngàn cổ thụ. Chàng hiệp sĩ cuối mùa xộc xệch thảm hại đuổi theo giấc mơ vĩ đại của đời mình. Ờ, cũng có khi bắt được một ánh mắt long lanh, ờ, cũng có khi bắt được một bờ môi ấm nóng. Nhưng, như một trò đùa được số phận mặc định, chỉ sơ sẩy thoáng chút thôi là mắt là môi lại vụt bay, mất hút giữa vực thẳm sao trời lãng đãng…

Khi trăng sao đã mệt nhoài, những vệt lân tinh thôi không còn thắp sáng đầu ngọn cỏ, thì bầy linh miêu rủ nhau đậu lên vách đá và thiu thiu ngủ. Tôi hét lớn: “Chơi nữa đi, chơi tiếp đi, trời đã sáng đâu!”. Trong trạng thái nửa tỉnh nửa mê, tiếng cười của họ rơi tự do từ trên cành cao xuống đất, vỡ vụn ra như bầy đom đóm mùa thu. Tôi ôm mảnh xiêm y màu xanh còn lại trong tay, hít lấy hít để hương thơm ma mị cõi bồng lai còn phảng phất, tưởng như tinh túy sơn khê triệu năm còn lưu dấu trên tay. 

Bạn hỏi: “Bầy linh miêu ấy từ đâu đến?”. Tôi có biết đâu, từ khi tôi bước chân lên đỉnh Chư Mang thì đã gặp họ rồi. Gã hiệp sĩ bị thế gian chối bỏ mải miết tìm vui trong trò chơi trốn tìm định mệnh, để tìm vui…

Có những đêm, khi trời sáng bạch, tôi vẫn còn loay hoay trên núi, tay níu áo xiêm, tay còn lại thì cầm một nụ cười của linh miêu xinh đẹp. Nhìn lại mình thì áo quần xộc xệch, rách từ dưới rách lên, nhếch nhác lôi thôi, như một hình nộm cuối mùa ngơ ngác. Mặt trời lên, nụ cười của linh miêu mọc thêm đôi cánh mỏng và bay đi mất, xiêm áo thơm lừng cũng vỗ cánh bay đi, để lại mình tôi tẽn tò với tiếng cười ướt đẫm sương đêm, như một gã đánh dậm ướt ròng thâu đêm suốt sáng với chiếc giỏ không lăn lóc dưới chân!

Tôi tự nhủ, thôi, từ ngày mai không thèm lên chơi nữa, thôi kể từ ngày mai…

Nhưng rồi, khi mặt trời lặn, tiếng nhặt tiếng khoan ngọt như một giấc mộng xa xăm lại mời gọi lên đường!

Bạn nói, thời mạt pháp, ma quỷ đầy đường, hiện hình ngay cả trên núi cao rừng thẳm, bảo trọng nhé! Tôi thì từ lâu đã không còn quan tâm đến an nguy cho bộ trang phục ngoan ngoãn của mình. Tôi mang gươm cùn giáp rách theo đuổi cuộc chơi, là biết cách trang bị cho mình tiếng cười ngạo nghễ, ngay cả khi thất bại ê chề. Chỉ hiềm một nỗi là trong những cơn mộng du vô tận, gã hiệp sĩ nhà quê chưa khi nào hoàn thành ước nguyện của mình. Càng đuổi bắt thì những gương mặt linh miêu xinh đẹp có tiếng cười ma mị lại càng hun hút xa xăm.

Bây giờ thì trên núi Chư Mang không có chỗ nào tôi chưa đặt chân tới. Tôi đi trong những đêm trăng sao ngà ngọc, trong những đêm mưa gió mịt mùng. Những gương mặt thân thương xa ngái thoắt ẩn thoắt hiện, lúc thì ở sườn núi bên này, lúc ở tận mạn bên kia. Có khi mệt quá, tôi ngủ quên trong vòng tay mềm mại móng vuốt của linh miêu, rồi mộng mơ đủ chuyện, vẽ ra những đường bay hão huyền lên tận mây xanh. Có khi mệt quá, tôi ngồi bó gối, bên cạnh là giáo cùn gươm gãy giáp rách, và nụ cười rớm máu dưới trăng.

Tôi không sao đâu mà, đừng lo cho tôi nhé. Bao nhiêu năm tuổi trẻ đã nuôi lớn ảo mộng, rồi sẽ chôn vùi cũng sẽ đúng nơi đây. Tôi vẫn hát bài hát của núi thẳm non cao mỗi lúc đêm về. Miễn là tôi còn trò chơi thú vị, miễn là những gương mặt linh miêu đẹp tựa thiên thần không rời bỏ núi mà đi. Tôi sẽ đuổi theo cho kỳ được, và ôm thật chặt trong tay những mộng mơ kỳ vĩ, tuổi trẻ, ai mà chẳng thế! Cho đến lúc không còn trẻ nữa, khi giáp trụ tan hoang, khi mắt mờ chân chậm, tôi sẽ vẫn lên đường mỗi khi tiếng cười mời gọi cất lên.

“Lên núi chơi thôi…”.

Đấy, bạn có nghe thấy gì không? Ngoài kia, bóng chiều vàng vọt của cõi người bắt đầu đổ xuống u buồn như tiếng kèn đưa đám. Tôi phải bắt đầu thôi, sửa soạn cho giấc mơ nối tiếp của mình, những giấc mơ trùng điệp, như sóng vỗ, giữa nhịp đập trăm năm của kiếp người.

Tôi lại phải đi đây!


Nguyễn Văn Thiện
Born: 1975
Home town: Anh Sơn – Nghệ An
Master in Comparative Literature and Critical Theories
Currently a high school teacher, and a prolific writer.
Editor of Chư Yang Sin (Đắk Lắk) Art and Literary Journal.

Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.

Lunatics | Nguyễn Văn Thiện

Art by Đinh Trường Chinh

A short story in Vietnamese by Nguyễn Văn Thiện
Translator: Nguyễn Thị Phương Trâm
 

Certain sickness like madness can be contagious. It can start with the smallest tiff. He might stand up suddenly from his seat, pull his pants down to scratch his balls say. An irritation that can not be unseen by a neighbour. This irritation step by step turns into ridicule, where eventually they would openly laugh at him. The contagious laughter unstoppable gain momentum, gets louder and louder, hehe, haha, people will choke with laughter. One after the other they would chase after him. The streaming piss zig zagging across the footpath. The entire neighbourhood follow each other, snaking through the streets and the alleyways. Out of their mind with laughter…

Such an episode would, of course, be noted and reported to the authorities, and of course, whoever is involved will be admitted into a mental institute for treatment. But, nearly most of these patients have no desire to follow these orders in a peaceful, docile, obedient manner. They prefer a more cheerful place other than a hospital. They would find ways to climb the fence or break the locks of their room. The whole process of chasing and capturing these patients is a tedious and time consuming. So after a few days, there is usually hardly anyone left at the mental facility besides a few orderlies. The patients would run freely in the street. They skip and they clap, singing one happy tune after the other. The craziest of the lot, after he is sick of singing, comes up with a most brilliant of ideas. He shouts: “Come, come on! Quick! Line up! Turn around!”. “What! Why?”. “Go home, get your knives, your machetes, your saw, or whatever, we must get ready to welcome our statesmen, our leaders, the politicians!” …

And it would not be long before the whole city is turned into an arena, the festivity would spread across the city in a full drive to “clean up the city”. A noisy clamouring of chainsaws, and broken branches. The craziest of them shouting orders like: “Quick, faster, the police are coming!”. These lunatics would chop down the trees along the boulevard like madmen. It will be a mess, it will be crazy!

After a couple of days, the city will be a warzone. Lunatics they may be, they’re human, they tire, so you would find them resting and sleeping on piles of leaves, some might be sitting around reciting poetry and or belting out folk songs. Not one of them would have a piece of clothing on.

At home, these mad women would serve dinner to their husband, children, neighbours, naked, letting all their bits hang out loosely and freely for everyone to see, without shame or embarrassment. There will be no such thing as order or social etiquette. They would cover themselves up with leaves the way we used to in our prehistoric era. Some turn large fronds into funnels to use as loudspeakers, howling like monkeys through them, in the middle of the street, in full hot daylight.

The doctors would be ordered to capture all the patients and return them to the hospital. But it will be no use. The patients oblivious to the situation ends up pulling the doctors along with them, the doctors holding hands with their patients singing and dancing in a circle in the middle of the street. Not long after that they would also take off their clothes, pick up pickaxes, chop down the trees like any proper woodcutter.

After chopping down all the trees the leaders will still be nowhere in sight. But by then no one will be bothered about leaders anymore. They would have already forgotten the reason why they are doing anything, why they start what they did. When one of them stumble on a nest in the rubble with a few dead birds. They would panick, scream at each other, stop, stop everything, there’s been an accident! A solemn memorial would be arranged right on top of the crumbling rubble. The most imposing of the crazy lot will stand tall, with eloquence and due affirmation, recite a verse of remembrance: The red-whiskered bulbuls have given their lives for the sake of the nation. Lips would quiver long before the end of the speech. Tears, pour. The entire city would be in complete silence, respectfully bowing…

The funeral is like fresh fuel for all the lunacy. The leader of the madmen would shout louder into the loudspeaker: “Look here my brothers and sisters, because of the heroic acts of these feathered warriors, we must continue to work harder than ever before. For our country, for humanity’s enduring peace and prosperity!”. The resounding cheers travels over the excited crowd. The gathered nudists all follow each other, they head for the river.

Dear God, they want to fill the river with soil!

Two madmen running alongside each other, expressing their joy. The first guy said: “I bet you don’t know why we’re trying to fill the river?”. The second guy replied: “Eh, easy man, we’re filling up the river so we can plant trees!”. “Then why did we chop down the other trees then?”. “Man, you’re stupid, we chop down the trees to commemorate the red-whiskered bulbul birds!”. Then they both chanted: red-whiskered bulbul, red-whiskered bulbul, red-whiskered bulbul. The bloke in front with his pointer and thumb flicked a painful blow at a red-whiskered bulbul perched on the guy behind him, before they both proceed to head for the river as though they are soldiers prepared to sacrifice their life in battle.

While I am trying to quickly write every I see down, the lunatics would have already finished filling up the river. Returning from the river passing the alley where I live, swearing, shouting out slogans, the echo of their scream overflows, covers the whole horizon. I will rush to the front gate to watch. One guy will point at me and shout: “We haven’t chopped down the tree on your head!” I would shout back: “There’s nothing there you crazy dumb ass!”. He pulls a couple of guys aside, laughs. One of them said: “He’s crazy, he’s got all this clothes on, with a tree on his head like that, what a fool! Take his clothes off, rip the tree off that fool’s head!”. They would drag me into the street, one guy will pulls my hair, twist my neck as he pulls out the tree on my head. The other two rips my clothes off. When they are done, they pull faces, make fun of me as they run off. I would chase after them, but they are faster, they are way ahead of me, slapping their pant less butt swinging their lewd bits, jeering, cackling.

I find myself also running, singing and laughing.

Thinking as I laugh and sing, no one knows who I am anyway!

So that is how it will all come to be, we will all run, we will all sing, and laugh together, slapping out butts now and then, naked, fools.

Lunatics.

Lũ người điên

Truyện ngắn của Nguyễn Văn Thiện

Có những căn bệnh rất dễ lây lan, như bệnh điên chẳng hạn. Lúc đầu, chỉ là cảm giác bứt rứt khó chịu từ một người. Hắn đang ngồi, tự dưng đứng phắt dậy, tuột quần ra gãi. Miệng cười méo mó, đái một vòng tròn quanh sân, rồi bắt đầu bước ra đường. Hàng xóm nhìn theo, tò mò, e ngại, lo lắng. Sau đó thì họ cười. Tiếng cười lây lan và mạnh dần, hi hi, hô hố, rồi sằng sặc. Cuối cùng, một số người đứng dậy, chạy theo hắn. Những vệt nước đái vẽ ngoằn ngoèo trên mặt đường. Cả xóm rồng rắn kéo nhau đi. Điên hết rồi…

Sự việc, đương nhiên sẽ đến tai chính quyền, và cũng đương nhiên, các đối tượng sẽ được đưa vào bệnh viện tâm thần chữa trị. Nhưng, hầu hết những người điên đều không thích được điều trị theo một phương pháp nhẹ nhàng đến nhàm chán. Họ thích chỗ ồn ã tươi vui hơn là bệnh viện. Họ tìm cách trèo bờ rào hoặc bẻ khóa ra ngoài. Việc đuổi bắt rất phức tạp. Vậy nên, sau mấy ngày, bệnh viện lại vắng hoe. Bệnh nhân lại chạy đầy đường. Họ vừa đi vừa vỗ tay hát bài gì đó vui đáo để. Gã điên nhất sau khi hát mỏi mồm bèn nảy ra sáng kiến mới toanh. Gã hét to: “Sắp hàng nhanh! Đằng sau quay!”. “Làm gì?”. “Về nhà lấy dao, ai có dao dùng dao, ai có rựa dùng rựa, ai có cưa dùng cưa, dọn dẹp thành phố để đón lãnh đạo về thăm!”…

Cả thành phố bỗng dưng trở thành công trường, nháo nhác vì chiến dịch “dọn dẹp thành phố”. Tiếng cưa rầm rầm, tiếng cành gãy răng rắc. Gã điên nhất vẫn luôn mồm quát: “Nhanh lên, lãnh đạo sắp về thăm!”. Những gã điên chặt cây như điên. Ghê thật!

Chỉ sau mấy ngày, thành phố không khác gì một bãi chiến trường. Lũ điên cũng có khi mệt, vậy nên, chúng nằm dài ra trên đám cành lá lộn xộn làm thơ và hát quan họ. Không đứa nào còn một manh quần manh áo..

Từ trong những ngôi nhà, những mụ điên cởi truồng mang cơm nước ra cho chồng, cho con, cho hàng xóm, tồng ngồng, thỗn thện. Chả còn ra thể thống gì nữa. Họ còn bày đặt bẻ lá cây che quanh mình làm như đang ở thời kỳ nguyên thủy. Có đứa lấy lá cây bàng cuốn thành loa đưa lên mồm hú như vượn hú giữa trưa nắng chang chang.

Các bác sĩ được lệnh xông ra bắt bệnh nhân quay về. Nhưng không ăn thua. Họ bị bệnh nhân quây lấy ngay giữa phố rồi nắm tay lại dắt chạy vòng quanh rồi hát hò. Một lúc sau thì các bác sĩ vui tính cũng cởi hết quần áo nhảy múa và vồ lấy rìu chặt cây như những gã tiều phu thứ thiệt. 

Chặt xong cây rồi mà lãnh đạo vẫn chưa thấy đến thăm. Nhưng không ai thắc mắc về điều này cả. Hình như họ quên mất lý do chính đáng ban đầu rồi. Một gã tìm thấy trong đống đổ nát một tổ chim có mấy con chim chết. Thế là chúng hò hét nhau, dừng tay, dừng tay, có tai nạn nghiêm trọng! Một lễ truy điệu nghiêm trang được tổ chức ngay trên mặt bằng bề bộn đổ nát. Gã điên vạm vỡ nhất đứng lên đọc diễn văn truy điệu, hùng hồn khẳng định rằng: Những chú chim chào mào đã hy sinh tính mạng vì lợi ích quốc gia. Bao nhiêu cái miệng cùng méo xệch sau khi bài diễn văn kết thúc. Bao nhiêu dòng nước mắt cùng nhỏ xuống một lúc. Cả thành phố lặng đi, kính cẩn nghiêng mình…

Sau lễ tang bất ngờ ấy, lũ người điên càng bị kích động tợn. Gã điên nhất hét vào loa: “Hỡi quần chúng anh minh, vì những chiến sĩ chim vừa hi sinh oanh liệt ban nãy, chúng ta phải tiếp tục hành động. Vì đất nước, vì hòa bình của toàn nhân loại!”. Tiếng hò reo vang dội hưởng ứng. Cả đoàn người trần truồng kéo ra phía bờ sông. 

Trời ơi, chúng nó đi lấp sông!

Hai gã điên vừa chạy cạnh nhau vừa vui vẻ trò chuyện. Một gã nói: “Tao đố mày, ta lấp sông để làm gì?”. Gã kia đáp: “Trời ơi, hỏi dễ quá, lấp sông để trồng cây!”. “Thế ta vừa chặt cây để làm gì?”. “Mày hỏi ngu thế, chặt cây để truy điệu chim chào mào!”. Rồi cả hai cùng cười và hát vang: chim chào mào, chim chào mào, chim chào mào. Thằng chạy trước thò tay ra búng một phát vào chim chào mào thằng chạy sau rồi cả hai lao xuống sông như những cảm tử quân xông trận.

Khi tôi đang viết những dòng này thì bọn người điên đã lấp xong sông. Chúng kéo về qua ngõ nhà tôi, hò hét, văng tục và hô khẩu hiệu vang trời. Tôi chạy ra trước cổng dòm. Một gã chỉ tay vào tôi nói: “Trên đầu mày có cái cây chưa chặt kìa!”. Tôi nói: “Không có đâu, đồ điên!”. Gã kéo thêm mấy thằng khác đứng lại, nhìn tôi cười ngặt nghẽo. Một đứa nói: “Cái lão điên này, mặc quần áo như thật, trồng cây trên đầu như thật, ghét thế! Lột quần, nhổ cây của nó đi chúng mày!”. Thế là bọn chúng vật tôi ra đường, vò tóc, bẻ cổ tôi để nhổ cái cây trên đầu. Hai thằng khác lột hết quần áo tôi. Xong xuôi, chúng nó chạy, vừa chạy vừa lêu lêu. Tôi đuổi theo, nhưng chúng chạy nhanh hơn, chúng chạy trước, tuột quần ra vỗ vỗ ra chiều trêu ngươi thích thú.

Chúng vừa chạy vừa hát vừa cười.

Tôi nghĩ, có khi mình cũng phải cười và hát, có ai biết mình là ai đâu!

Thế là chúng tôi vừa chạy vừa cười vừa hát, thỉnh thoảng lại vỗ vỗ vào mông, trần truồng, ngớ ngẩn.

Như một lũ người điên.


Nguyễn Văn Thiện
Born: 1975
Home town: Anh Sơn – Nghệ An
Master in Comparative Literature and Critical Theories
Currently a high school teacher, and a prolific writer.
Editor of Chư Yang Sin (Đắk Lắk) Art and Literary Journal.

Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.

On The Flipped Side | Nguyễn Văn Thiện

Hồ Nghe. Art by Đinh Trường Chinh

A Short story in Vietnamese by Nguyễn Văn Thiện
Translator: Nguyễn Thị Phương Trâm
Art: Đinh Trường Chinh

Something was broken, falling apart. First of all, it was a dewdrop. After that, the moon. Followed by the Sun. And then in the end after that…

Something was lost. First of all, it was a dewdrop. After that, the moon. Followed by the Sun. And then in the end…

Something was flipping. First of all then in the end…

A long time ago, we wanted to see a movie, but we didn’t have the money for tickets, so my friends and I sneaked our way to the back of the cinema and watched the movie from the other side of the screen. We watched the movie on the flipped side. The movie was not hard to follow, something about a bleeding horrid war!

I maintained this tradition from that point onward, I maintained my spot behind the screen, watching the world, watching the actors, on the flipped side.

I would wear my dark glasses!

Through the dark glasses, I viewed life like someone who was visually impaired; I viewed life through tinted glasses on the flipped side of the screen. The drop of dew broke into a violent wave as it rolled away, and the moon broke immediately into shards of ridiculous deceit. And when the Sun broke, in the chaos, I watched the flipped pieces drift away in the shape of people’s hearts.

I remained vigilant as I watched from behind the screen. Life falls to pieces, a collection of incidents, and there were faith and love, there were the exchanges of lies, more strange than the tales on Mount Chư Mang, more complicated, harder to understand.

As I watched the pieces fall apart, changing from white to black in the middle of the bright screen, a small bird, whistling passionately, its voice was proud and crystal clear. A forest materialised in an instant, just before the little bird stretched out like a rope, turned into a snake, and slithered away.

Have you ever seen, or come across anything like that? On the right side of the screen, the bird was still singing, and the audience was still in a trance. While as an abandoned delusional watcher, I saw the bird change into a snake before it slithered away, followed by a disappearing forest, leaving behind soulless drunken light, like the dull twinkling eyes of those on drugs in a dark corner in the middle of the night.

In an uncontrollable outburst, I shouted: “Hey, life is beautiful, life is good!”. On the right side of the screen, the audience was quiet, captivated by the thrill of a scene. A chase possibly, a shooting maybe, the stereo was so loud it felt as though a mountain was exploding, cracking open, erupting, like the summer hail storms. On the flipped side, shadowy forms of people were disappearing, leaving in procession, following one another into the distance—a crowd, like a wedding. There was a familiar face; it felt like we may have met some three hundred years ago in the past.

Again I shouted: “Hey, are you not a part of me!”.

The familiar face turned around, eyes squinting, searching, looked surprised, but continued to walk away with the crowd from three hundred years ago. 

A dewdrop shattered, followed by the moon.

The desire to watch from behind the screen no longer appealed to me, I wanted to finally end a habit that had become a tradition. The blurry screen was consistently deceiving my senses, and my eyes were tired. I decided to change my point of view, no more movies, I watched the crowd instead, I watched the audience on the other side of the screen, and I searched the crowd for anything that might interest me. Of course, there was nothing to see, but a jammed-packed crowd enthralled by a thrilling bloody tale. They took no notice of what was behind the screen, the sweaty nut job watching the movie through tinted glasses. I told myself; I preferred it this way! They don’t care, as the fight on the screen encapsulates them in a bubble. Admittedly from my point of view; the audience was dragged along via their noses by gifted directors and actors. They’re mesmerised, content, they’re happy. While in contrast, I was lost. Something was wrong, something was bent out of shape, I became more disturbed as I moved closer and closer to the screen, I found myself more and more frustrated, I found myself screaming: “Idiots!”. No one moved, not a millimeter, a thousand eyes still glued to the screen. “You brainless twits!”. By this point, an usher noticed me. Immediately, a handful of them heads straight for me. They pulled at my hair; my arms, and my legs, as they dragged me out of the front gate.

The leathery-skinned security guy at the gate, appeared somewhat educated, and asked me: “Did you have fun watching the movie from behind the screen?”. I said: “I don’t feel happy or sad!”. He continued, openly mocking: “Do you know what the movie is about?”. I said: “Of course, I know. Something was broken, falling apart. First of all, it was a dewdrop. After that, the moon. Followed by the Sun. And in the end…Something was lost. First of all, it was a dewdrop. After that, the moon. Followed by the Sun. And in the end…Something had flipped. First, it was then in the end…”. I was ready and prepared for the security guard to kick me in the ribs or slap me across my face, but nothing, he was silent and thoughtful, staring at the empty space in front of him. He turned slowly towards me, and met my gaze, as he silently wiped away the tears on his cheeks. He said, before I was thrown out the front gate in my large beehive glasses: “Look man, don’t watch the movie on the flipped side anymore, the bird is gone, the people here have moved on, there’s nothing left of that virtuous era of old…”.

I didn’t catch what he said at the end, his last words were drowned out by excited outbursts coming from the cinema, the audience reacting to a fast-paced, exciting, vigorous scene. Heading for the course of my life, I was no longer able to see anything else, except for a very familiar face, as though we may have met some three hundred years ago in the past.

Perhaps, I was reappearing as pieces of me patched together from three hundred years ago? That security guy, probably was someone I knew, from a time in a long gone distant past.

Only the movie on that full screen was the present day.

Something was broken, and falling apart…

Chơi trò lộn ngược

Có cái gì đó đang vỡ tan ra. Đầu tiên là một giọt sương. Sau đó là mặt trăng. Tiếp nữa là mặt trời. Và cuối cùng là…

Có cái gì đó đã mất rồi. Đầu tiên là giọt sương. Sau đó là mặt trăng. Tiếp nữa là mặt trời. Và cuối cùng là…

Có cái gì đó đang lộn nhào. Đầu tiên là và cuối cùng là…

Ta nhớ cái hồi xa lắc xa lơ đi xem phim chiếu bãi màn ảnh rộng, nhưng không có tiền mua vé, ta và các bạn bèn đứng phía sau tấm phông, và xem phim ngược. Kết quả là vẫn em xong bộ phim ấy, nhưng ở chiều ngược lại. Vẫn hiểu hết nội dung, kể về cuộc đấu tranh gì đó đại loại là đẫm máu, tuy nhiên, không rành mạch cho lắm!

Bây giờ, ta lại tiếp tục, tham dự vào một trò chơi, mà vị trí của ta là phía sau màn ảnh rộng, để xem cuộc đời, xem gương mặt các diễn viên, ở chiều ngược lại…

Vì vậy, ta thường mang kính đen!

Dù thường xuyên mang kính đen như một gã khiếm thị lơ láo nhìn đời, nhưng ta vẫn thấy cuộc sống màu hồng, bởi vì, ta đang ở vị trí phía sau màn ảnh để nhìn ngược lại. Giọt sương vỡ tan ra bỗng nhiên biến thành cơn sóng dữ cuồn cuộn cuốn đi, mặt trăng vừa vỡ tan ra lập tức trở thành những mảnh vụn dối lừa nham nhở. Và khi mặt trời vỡ tan ra thì ta bàng hoàng thấy, những nát vụn ngược xuôi không khác gì mảnh vỡ tim người.

Ta vẫn đứng phía sau màn ảnh để nhìn lên. Cuộc sống vẫn vỡ vụn và đơm đặt hình hài đủ loại chuyện kể, có tin yêu, có lọc lừa xuôi ngược, lạ hơn câu chuyện về núi Chư Mang ta từng kể cho bạn nghe, và, phức tạp, khó hiểu hơn nhiều…

Khi ta đang dõi theo những vỡ vụn đổi trắng thay đen thì giữa quầng sáng của màn hình, xuất hiện một chú chim nhỏ, đứng hót say sưa, giọng lảnh lót đầy kiêu ngạo. Và cả cánh rừng hối hả hiện ra. Liền đó, chú chim lập tức dài ra như sợi dây, biến thành con rắn, trườn đi. 

Bạn đã bao giờ xem chưa, đã bao giờ bắt gặp chưa? Phía trước màn ảnh, hình như con chim vẫn hót, khán giả vẫn say sưa và trầm trồ. Chỉ có mình ta, một khán giả bị ruồng bỏ, lạc loài với trí não đầy ảo tưởng, đã phát hiện ra, chú chim hóa rắn, và bò đi mất, cả cánh rừng cùng đã biến mất theo, chỉ còn lại quầng sáng vô hồn chiếu thẳng, như mắt người say thuốc nửa đêm…

Trong cơn tự kỷ không cách nào kiềm chế, ta hét toáng: “Ồ, đời toàn màu hồng, đẹp quá!”. Phía bên kia màn ảnh rộng cuộc đời, số đông khán giả vẫn đang nín lặng theo dõi bộ phim đang hồi gay cấn. Hình như là đuổi bắt, hình như là bắn nhau, âm thanh như lở núi, như mưa đá mùa hè. Ở phía ngược lại bên này, ta thấy những bóng hình rời bỏ, ra đi, theo con đường xa hun hút. Họ đi theo một đám đông, như là đám cưới. Có một gương mặt rất quen, như đã từng gặp ở đâu từ ba trăm năm trước.

Ta lại hét toáng lên: “Mình ơi!”.

Gương mặt rất quen ấy quay lại, nhíu mày, tỏ vẻ ngạc nhiên, rồi lại tiếp tục bước đi về phía đám đông của ba trăm năm trước.

Giọt sương vừa vỡ ra, mặt trăng cũng vừa vỡ ra…

Ta không muốn dõi theo màn hình nữa. Những hình ảnh không rõ ràng thường xuyên đánh lừa thị giác đã làm ta mỏi mắt. Ta di chuyển điểm nhìn, bây giờ, thôi đừng coi phim, mà nhìn xem, đám đông khán giả phía bên kia, có gì hay ho không. Tuyệt nhiên không có gì, chỉ là một đám đông say sưa dõi theo một câu chuyện máu me gay cấn. Họ cũng không thèm để ý rằng, phía sau bên kia màn ảnh, có một gã dở người ẩm ương đang xem phim ngược bằng cặp kính đen. Ta nói một mình rằng, ta thích thế đấy! Họ không quan tâm, câu chuyện đấm đá đang thu hút họ. Quan sát ở phía đối diện, ta nhận ra, họ đang bị gã đạo diễn giỏi nghề và những diễn viên kì cựu dắt mũi. Họ say mê, mãn nguyện vì điều đó. Chỉ còn lại một mình ta, lạc lõng đứng nhìn. Có cái gì đó là bất công, là không thỏa đáng, ta nghĩ thế, và tiến lại gần màn ảnh, hét to: “Đồ đám đông ngu muội!”. Vẫn không ai nhúc nhích, hàng ngàn cặp mắt cặp tai còn bận theo dõi màn hình. “Đồ đám đông không não!”. Đến lúc này thì có người để ý đến ta, đó là những nhân viên soát vé. Lập tức, một bọn hăm hở lao ra. Ta bị túm tóc bẻ tay lôi về phía trước cổng.

Một gã bảo vệ, có vẻ cũng có học hành, mặt đầy vẻ giễu nhại, hỏi ta: “Mày xem phim ngược từ phía sau, vui không?”. Ta nói: “Không có gì vui, không có gì buồn!”. Hắn lôi thôi hỏi tiếp, vẻ trêu chọc hiện rõ: “Mày có hiểu bộ phim kể chuyện gì không?”. Ta nói: “Đương nhiên là có hiểu. Có cái gì đó đang vỡ tan ra. Đầu tiên là một giọt sương. Sau đó là mặt trăng. Tiếp nữa là mặt trời. Và cuối cùng là… Có cái gì đó đã mất rồi. Đầu tiên là giọt sương. Sau đó là mặt trăng. Tiếp nữa là mặt trời. Và cuối cùng là… Có cái gì đó đang lộn nhào. Đầu tiên là và cuối cùng là…”. Ta đang đợi một cú đá vào mạng sườn hoặc một bạt tai từ gã bảo vệ, nhưng không, hắn ngẩng mặt ra nhìn, rồi nhìn ta, lặng lẽ gạt nước mắt. Trước khi ta bước ra cổng với cặp kính đen như hai tổ ong trên mặt, hắn nói theo: “Này, anh kia, về đi, đừng bao giờ đi xem phim ngược nữa, chim đã bay đi, người cũng đã thay hình đổi dạng, sẽ không còn gì là khảm khắc kinh cũ…”.

Mấy chữ cuối hắn nói, ta nghe không rõ, vì tiếng đám đông khán giả vừa ồ lên át mất. Chắc là phim lại đến cao trào. Ta bước đi về phía cuộc đời, không còn thấy gì nữa, ngoài một gương mặt rất quen, như thể đã từng gặp đâu đó khoảng ba trăm năm trước.

Không lẽ, ta bây giờ là ta của ba trăm năm trước hiện về? Gã bảo vệ kia, không lẽ, lại là người thân quen, từ xứ sở nào của quá khứ hiện về?

Chỉ có bộ phim trên màn ảnh rộng kia, là của ngày hôm nay.

Có cái gì đó đang vỡ ra…


Nguyễn Văn Thiện
Born: 1975
Home town: Anh Sơn – Nghệ An
Master in Comparative Literature and Critical Theories
Currently a high school teacher, and a prolific writer.
Editor of Chư Yang Sin (Đắk Lắk) Art and Literary Journal.

Nguyễn Thị Phương Trâm, the poet and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.

NGUYỄN VĂN THIỆN

Sydney Harbour, Australia. Photography by Nguyễn Thị Phương Trâm

In Vietnamese by Nguyễn Văn Thiện
Translator: Nguyễn Thị Phương Trâm


Nguyễn Văn Thiện
Born: 1975
Home town: Anh Sơn – Nghệ An
Master in Comparative Literature and Critical Theories
Currently a high school teacher, and a prolific writer.
Editor of Chư Yang Sin (Đắk Lắk) Art and Literary Journal.

Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.

In this way, I managed to rescue the words | Nguyễn Văn Thiện

A short story in Vietnamese by Nguyễn Văn Thiện
Translator: Nguyễn Thị Phương Trâm 

Can one write with a vacant mind? I’m not the only one confronted with this atypical dilemma. A wide and varied vernacular after a time could self-destruct. They, the vowel consonants, and all the accents dots, and commas presently are threatened with destruction.

In the ghoulish colour of dusk, the letters lay scattered inanimate like bones in a tragic national exhibit of famine. 

There are fewer people at this late hour in the afternoon, all the right words without a home, like derelict tombstones in a graveyard. The blood thirsting opportunist, enslaving the vernacular with tempers of swords and daggers.. 

But they, the meaningful words in the vernacular, are equipped with weak limbs!

Hence even in their echoing formidable pleading, undecidedly they die. The letters killed in mass graves of Cholera piled on top of each other. The letter A is on L, I with a busted head, accent “?” curled up, Y legs wide open, blood oozing between the thighs.

Crazy!

I picked up each letter soaked in blood, in the middle of my palm, and the sickly sweet stench of blood hit my nostrils. How can we save them, and help them regain their lively, inspirational grace? I’m not some warlock; I’m a country boy, an outsider to the realm of literature reserved for those more proficient. I was powerless, as the words were ripped apart and molested. 

I begged: Hey, wake up, don’t die!

I cried: Hey, please stop dying!

The letters still didn’t move. They were gone.

I was paralysed like some poor child powerless watching his doll pulled apart, legs, arms, head. I thought: if I had the voodoo to raise the dead! But the Gods, Buddha, and all the saints were long gone in blessing us with their presence on this tiny rude planet. My dreams never eventuate. The shadow of dusk fell silently on each grain of sand wrapped in death. Arduously I picked up each limb, piecing one at a time together. The moon rose without warning, its light exposing the extensive decay, like the flame from a lighthouse. I thought: Maybe wait till the moon is a bit higher, to light the land adequately, I will again try to revive them quietly.

Have you noticed the way TV presenters express themselves? Each word is pronounced with a subtle emphasis on surprise and excitement. Each sound curls up smoothly like rolls of exhaling cigarette smoke. The vernacular is like a dancer, swaying, strutting. They’re exploited by the ambitious and corrupt. The whole community swaying, along with those paid lips, made slavery of the words. Not only does society suffer, but the vernacular itself must endure!

In the meantime, new sufferance has brought down upon bullhead youths (trẻ trâu*), their nature from the get-go chewed up, gnawed, twisted out of shape to an unrecognisable state. Their free-form sentences, backward, without accents, mixed icons, tricks, and maiming literature, assaults the mind, and causes the death of many letters in every message, in each comment online, in every spelling exercise, and composition. My mother’s tongue is my first language, yet, reading their text over and over again, what they wanted to say was impossible to understand.

For example, “I’d like to pepper in the fact that *I* make myself uwu 🙂 i-i know face, but u no i don’t no name 🤧🤧🤧 U ejelous kk bye.”

Now, they lay like a mountain of skulls left behind after a genocide. The moonlight illuminate my forehead. I held each frozen body, lending my lips to pass warm air into them. Their chest began to rise and fall again. They’re still alive.

Sunlight dissipating the mask of the night gave back to the planet its lush shades of green. A bear glanced at us in passing, its eyes filled with love, and left a little sweet milk. A colony of bees stopped by to check on us and left an ounce of honey. An army of ants building their nest stopped running around, to make sure we could enjoy the creamy golden eggs they’ve left for us. The vernacular slowly woke up as I fed each word with the bear’s milk, honey, and eggs. They opened their mouths, swallowed, and tried all they could to pull themselves up. Just like that, one day after the other, then the day after that..

Now the words are doing better, healthier.  Y leading A, L is leaning on H, K with a cane, accents “?” learning to meditate, learning to walk, talk and laugh. Their echoing laughter bounced off, resounding in far-off horizons.

[Edited July 2022]

*Modern colloquial: young, stubborn/bullhead

[July 2018]

Bằng cách đó, tôi đã cứu được các con chữ

Làm sao viết được bằng một cái đầu trống rỗng? Câu hỏi kỳ quái này chắc chắn không chỉ mình tôi gặp phải lúc này, mà rất nhiều người khác nữa. Ngôn ngữ, sau một chặng đường dài phát triển, đã đến lúc suy tàn. Chúng, những nguyên âm phụ âm và các thanh các dấu có dấu hiệu cận kề cái chết.

Trong bóng chiều nhập nhoạng sắc màu ma mị chúng ngồi vạ vật như những bộ xương trưng bày trong bảo tàng về một nạn đói khủng khiếp nào đó của dân tộc…

Những người tử tế đã ít dần đi trong buổi xế chiều này, những con chữ tử tế cũng không còn chỗ trú ngụ, như những pho tượng nhà mồ chơ vơ trong nghĩa địa hoang vu. Những kẻ cơ hội và say máu khoác lên mình các ký tự một mớ trang sức gươm dao và bắt chúng khom lưng oằn mình chịu đựng. Mà chúng, bọn chữ nghĩa ấy thì chân yếu tay mềm!

Rồi chúng, những nỉ non, vang rền, hùng hồn, nhấm nhẳng…chết. Chúng chết hàng loạt như mắc phải vi rút dịch tả, và nằm đè lên nhau. Chữ A đè lên chữ L, chữ I bị sứt đầu, dấu ? nằm co quắp, chữ Y dạng chân ra, máu chảy giữa hai đùi…

Khủng khiếp!

Tôi nhặt những thi thể chữ đẫm máu, đặt lên giữa bàn tay, nghe mùi cái chết tanh xông lên mũi. Làm sao để chúng sống lại, vui đùa, hoan hỉ, dịu dàng như cũ? Không phải là một phù thủy tài ba, tôi chẳng qua là một gã nhà quê đứng bên ngoài cánh đồng văn chương vốn chỉ dành cho những tay chơi cự phách. Tôi ngậm ngùi bất lực khi chữ nghĩa bị phanh thây và cưỡng hiếp mà bất lực.

Tôi lay gọi: Này, dậy đi thôi, đừng chết!

Tôi khóc to: Này, thôi đừng chết nữa!

Lũ chữ vẫn không nhúc nhích. Chúng chết thật rồi…

Như cậu bé nhà nghèo ngồi nhìn những chú búp bê thân thương bị vặt tay bẻ cổ và giẫm bẹp dí, không biết làm sao. Tôi nghĩ: Ước gì mình có phép màu khiến cho người chết có thể sống lại! Nhưng Bụt, Phật và các thánh thần đã từ lâu không còn vãng lai cõi trần chật hẹp và hỗn láo. Điều ước mãi mãi không thành hiện thực. Chiều đổ bóng âm thầm trên nền đất cát còn vương vãi thịt da và hình bóng của cái chết. Tôi tẩn mẩn nhặt từng mẩu tay chân thịt da các ký tự ghép vào nhau. Trăng đột ngột hiện ra chiếu ánh hào quang xuống mặt đất hoang tàn, như một ngọn hải đăng rạng ngời trong mắt người đi biển. Tôi nghĩ: Hay chờ trăng lên cao chút nữa, soi thật sáng chỗ này, tôi sẽ âm thầm làm một cuộc cải tử hoàn sinh…

Bạn có khi nào để ý đến cách diễn đạt của những nhân vật mặt mày sáng láng trên các kênh truyền hình không? Những con chữ được nhả ra từ tốn, nhẹ nhàng, khi phấn khởi, lúc băn khoăn trăn trở, khi nhấn mạnh, khi kéo dài ra… Những âm vực uốn lượn lên bổng xuống trầm như khói thuốc. Lúc ấy, ngôn ngữ đang đóng vai những diễn viên múa, uốn éo, làm dáng. Chúng bị làm tình làm tội bởi con người, những con người đầy tham vọng bá quyền vào tráo trở. Cả cộng đồng uốn éo theo những bờ môi đĩ thõa khiến ngôn ngữ cũng bị đọa đày. Không chỉ có con người khổ, chữ nghĩa cũng khổ lây, thật đấy!

Trong khi đó, ở vào một hoàn cảnh khổ đau không kém, những ký tự thoát khỏi rào chắn răng lưỡi của lũ trẻ trâu, các ký tự lại bị nhai, bị cắn, bị vặn cho méo mó không còn ra hình dáng ban đầu. Chúng tha hồ hành hình chữ nghĩa, chúng viết lộn ngược, viết không dấu, viết tắt có chèn hình, làm đủ trò nhào lộn khiến cho chữ nghĩa bị què cụt, thậm chí là chấn thương sọ não, chết hàng đống trong các tin nhắn, các phản hồi trao đổi trên mạng, thậm chí trong các bài tập chính tả, làm văn ở trong lớp học. Đến nỗi, cùng sống chung một thời đại, cũng sử dụng tiếng mẹ đẻ làm ngôn ngữ chính, mà tôi, đọc đi đọc lại nhiều lần vẫn không tài nào hiểu được chúng muốn nói gì…

Ví dụ: cáj mắt ngu ngu hợhợ :-q smile

aj tkươq iem like + tkả heart đê.ránk tốj wua ckúc ngẩu nqon nèk hjhj tốj ấm nká cả nkà…

Bây giờ thì, chúng nằm đây, lăn lóc như sọ người sau nạn diệt chủng. Mà trăng thì vẫn sáng trên đầu. Tôi ôm lấy từng cơ thể lạnh ngắt, rồi ghé miệng truyền hơi ấm vào. Những vòm ngực bắt đầu phập phồng trở lại. Thì ra chúng vẫn còn thoi thóp, chưa chết hẳn.

Ánh mặt trời lột hết những mặt nạ đóng thế đêm qua, trả lại nguyên vẹn tươi xanh trên trái đất. Một chú gấu đi qua dừng lại nhìn chúng tôi, ánh mắt trìu mến chứa chan rồi bước đi, để lại một ít sữa ngọt ngào. Bầy ong mật bay qua, dừng lại hỏi han, trước khi bay tiếp đã để lại một ít mật ngọt lành. Bầy kiến đang xây tổ, dừng lại nhìn chúng tôi, và sau đó để lại những trứng kiến vàng ươm béo ngậy. Tôi lấy sữa gấu mật ong và trứng kiến bón cho lũ chữ vừa tỉnh lại. Chúng há miệng ra nuốt lấy và gắng gượng ngồi dậy. Cứ thế, ngày này, qua ngày khác, những tháng ngày bất tận.

Giờ thì lũ chữ đã khỏe hơn, chúng đang hồi phục từng ngày. Chữ Y dắt chữ A, chữ L tựa vào vai chữ H, chữ K chống gậy, dấu ? tập ngồi thiền… chúng đang tập đi, tập nói tập cười. Tiếng cười nói xôn xao cả một khoảng trời mênh mông…

Nguyễn Văn Thiện
Born: 1975
Home town: Anh Sơn – Nghệ An
Master in Comparative Literature and Critical Theories
Currently a high school teacher, and a prolific writer.
Editor of Chư Yang Sin (Đắk Lắk) Art and Literary Journal.

Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.

burying nothing | Nguyễn Văn Thiện

A short story in Vietnamese by Nguyễn Văn Thiện
Translator: Nguyễn Thị Phương Trâm 
Photography: Nguyễn Thị Phương Trâm

BURYING THE NAUGHT  

I’m too scared to climb that mountain, I’ve even forgotten its name, those things up there, I’ve already forgotten their names, the words not worthy of mention. I returned home to amuse myself alone. I drew a huge zero on the wall, then 7 steps backward, pulled my gun aimed to shoot. Into the zero, I shot, in the middle of the bulls-eye. Before shooting, I read the order of execution. It nodded in acceptance of the crimes, a pitiful sight.

           In the judgment, I said: “You, you’re the numeral 0, correct, your crime is nothing at all, correct?”.

           It quietly sobbed. 

“I’ll allow you a last request, speak!”.

It remained silent.

Coldly I squeezed the trigger.

The bullet landed in the middle of its black heart, creating a hole. That’s the end of your life, the unjustified numeral 0.

From the hole, the wind rushed through from the outside. I turned white; maybe it’s been wronged?

The wind was black in a twister. It was a fit of nature, a tornado. It hissed up the cabin wall, ripped across the ceiling, digging into the floor, crazy. I cowered in a corner, eyes closed, ears covered, grinding my teeth. My life, though has been much, has never encountered such a terrifying storm, yet in this tiny room, next to the body of 0 on its last breath. Why?

I thought hard; mistakes began from when? And from where came the black wind? I asked the white mist: “ What can I do?”. The mist didn’t answer and continued to float around the room. I screamed amidst the gale and violent wind: “Just stop, stop moving!”. It kept its way, in a circle. I thought, in the wind, in the gale; one thing is definite, I must bury the body.

In the most confounding moment, my father appears. When my father came into the room was unclear. Father said: “This storm is the end of the world!”. I turned to look at my father, but it was now just a white skeleton?

Amongst the chaos, I kicked down the door to escape. Outside heaven and earth remain harmonious and peaceful like a hymn. Strange right?

           Immediately, I began to suspect heaven and earth. How could they remain peaceful, when in my home there was a violent storm? I also imagined the glorious hymn that had brought joy to that earth and sky, how could there be green trees and flowers, while bouts of the black wind invade my shelter?

I consoled myself: relax, calm down, it started from where? Right, it started at 0, an apparently dead body.

           The neighbours rushed over to watch like they were watching someone having a seizure. Sheepishly I laughed like I did something wrong: “I must bury this body!”. They broke out in laughter: “There’s nobody, what body?”. They couldn’t see the sizable dead body nor the white skeleton lying in the middle of the yard. My next-door neighbour looks at me full of compassion: “Yeah, quickly bury it, before it deteriorates!”. Then he scoffed loudly and left.

It turns out, what I could see, doesn’t necessarily mean all could, what most of those who stood for the truth, could see. Whether my next-door neighbour was sincere or joking, I started to smell the decay, and I had to bury the body.

I made up my mind to bury it.

A real burial.

I rolled up my sleeves, dug a grave in the middle of the yard, inside, the wind continued its turns. I spat into my hand like a professional grave digger and said: “Hey 0, I know you’ve been dead for a while, I’m going to bury you now so that you can be at peace!”.

           Now all is done, no dead body, no white skeleton. The house returns to its original tranquillity. Now in this calm, can we possibly acknowledge this folly, that a zero can cause so much anxiety? People can’t see it because it is the numeral 0. In reality, its presence – face, nothing – at all. When the truth is nothing – at all, it can still cause a storm. 

Now, I can indeed fall into a deep sleep. While on top of the grave is a baby cricket singing, an anthem amidst earth and sky, as though a disaster has never been.

January 2019

Chôn cất số không

       Bây giờ tôi không dám lên núi ấy nữa, tôi quên luôn tên núi rồi, trên ấy đầy các ấy, tôi cũng quên tên bọn ấy rồi, bọn ấy không đáng để ấy. Tôi về nhà, đóng cửa lại, chơi một mình.

       Tôi vẽ một số 0 to tướng lên vách, rồi lùi lại 7 bước, rút súng ra ngắm bắn. Tôi bắn vào số 0, chính giữa hồng tâm. Trước khi bắn, tôi có đọc lệnh tử hình. Nó cúi đầu nhận tội, thấy cũng thương thương…

       Tôi đanh thép kết án: “Mày, mày là số 0, đúng không, tội của mày là không có gì cả, đúng không?”.

       Nó im lặng thổn thức.

       “Cho mày một ân huệ cuối cùng, nói đi!”.

       Nó vẫn im lặng.

       Tôi lạnh lùng bóp cò.

       Một lỗ thủng ngay giữa tim đen của nó. Thế là hết đời mày, số 0 oan nghiệt.

Từ trong lỗ thủng viên đạn vừa xuyên qua, gió từ bên ngoài tràn về, cuồng nộ. Tôi xây xẩm mặt mày, hay là có oan sai?

       Gió, mà gió màu đen, ùn ùn kéo vào khuấy đảo. Đó thực sự là một trận cuồng phong, một cơn bão tố. Chúng rít lên trên vách gỗ, xé dọc trần nhà, cày nát sàn nhà, kinh hoàng. Tôi ngồi xuống một góc, nhắm mắt, bịt tai, cắn răng chịu đựng. Đời tôi, dầu dãi đã nhiều, song chưa khi nào gặp một trận bão khủng khiếp đến thế, mà ngay trong căn phòng nhỏ này, bên xác số 0 vừa tắt thở.

Sao thế nhỉ?

       Tôi vắt óc suy nghĩ, sai lầm bắt nguồn từ đâu? Và cơn bão đen ấy, từ đâu tới? Tôi hỏi bầy xương trắng: “Làm thế nào bây giờ?”. Lũ xương không trả lời, vẫn cặm cụi bước đi xung quanh căn phòng. Tôi hét giữa gió cuồng bão giật: “Thôi đứng lại xem nào, đừng đi nữa!”. Họ vẫn đi, theo một vòng tròn. 

       Tôi nghĩ, dù gió, dù bão, vẫn phải mai táng những bộ hài cốt này, may ra mới ổn…

       Đúng lúc hoang mang nhất thì cha ghé về thăm. Cha lẻn vào phòng lúc nào không rõ. Cha nói: “Gió bão chi mà như tận thế!”. Tôi quay sang nhìn cha, ô hay, sao lại là một bộ xương trắng? Hoá ra… Không thể chịu nổi nữa, tôi đạp cửa lao ra ngoài. Trời đất vẫn yên bình như một bài hát nâng bi. Lạ chưa?

       Ngay lập tức, tôi nghi ngờ bầu trời và mặt đất. Làm sao có chuyện chúng vẫn bình yên được, khi trong căn nhà tôi đang gió bão mịt mùng? Tôi nghi ngờ cả bài hát đang rạo rực đất trời, làm gì có chuyện toàn là hoa lá được, khi trong nhà tôi đầy những ngọn gió đen? 

       Tôi tự nhủ: Bình tĩnh lại nào, bắt đầu từ đâu nhỉ? Phải, đầu tiên là số 0, một cái xác chết to tướng. Vậy thì phải kết thúc ở đấy. Tôi vào nhà, khiêng xác số 0 ra ngoài, như người ta kéo một tên trộm chó vừa bị đánh hội đồng cho đến chết.

       Hàng xóm ùn ùn kéo đến xem, như xem một thằng động kinh lên cơn. Tôi cười bẽn lẽn như mình có lỗi: “Tôi phải mai táng cái xác này mới được!”. Mọi người cười ồ: “Xác nào, có xác nào đâu?”. Họ không nhìn thấy số 0 to tướng như một bộ xương trắng nằm ngửa giữa sân. Gã thợ hồ sát cạnh nhà nhìn tôi đầy thông cảm: “Ừ, thì chôn nhanh đi, kẻo nó phân hủy!”. Nói xong gã cười khà khà, quay đít ra về.

       Hóa ra, điều tôi thấy rõ ràng, chưa chắc mọi người, số đông, đại diện cho chân lý, đã thấy được.

       Không biết gã thợ hồ hàng xóm nói thật hay nói đểu, tôi thì thấy bốc mùi thật rồi, nếu không nhanh tay thì…

       Tôi quyết định chôn.

       Mà tôi chôn thật đấy.

       Tôi xắn tay lên, đào huyệt giữa sân, trong nhà, gió bão vẫn xoay vần. Tôi nhổ bãi nước bọt vào tay xoa xoa, đúng phong cách một anh phu đào huyệt sau khi xong việc. Nói: “Này số 0, dù sao thì ngươi cũng đã chết lâu rồi, bây giờ, ta chôn ngươi, để được mồ yên mả đẹp, nhé!”.

       Giờ thì mọi việc đã xong, không còn tử thi, không còn xương trắng. Căn nhà trở lại bình yên. Giờ thì bạn thấy vô lý không, chỉ một số 0 mà làm khổ người ta biết bao nhiêu? Mà vì nó là số 0 nên nhiều người không nhìn thấy. Thực tế, nó có – mặt, dù nó không – có – gì. Vì vậy, dù sự thực là không – có – gì, nó vẫn có thể gây ra bão bùng giông tố…

       Giờ thì, tôi ngủ giấc ngủ rất sâu. Chú dế con trên mộ cất lên tiếng hát ri ri, một bài hoan ca giữa trời đất thanh bình như là chưa hề có chuyện ghê gớm mới xảy ra.


Nguyễn Văn Thiện
Born: 1975
Home town: Anh Sơn – Nghệ An
Master in Comparative Literature and Critical Theories
Currently a high school teacher, and a prolific writer.
Editor of Chư Yang Sin (Đắk Lắk) Art and Literary Journal.

Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.