Cuộc đối thoại với Cụ Du

Về Quê với Ao tù, Nguyễn Thị Phương Trâm

A poem by Nguyễn Du
An adaptation by Nguyễn Thị Phương Trâm


Nếu Kiều chỉ là một con điếm vậy thì chúng ta đều đều chỉ là những con điếm – we sell our soul for status/survival

Cụ Du, tôi thấy 2025 mà người ta vẫn đem con gái xinh nhất tài nhất của mình ra chợ rao hàng. Chịu thua thôi cụ ạ.

40 hiểu điều anh Bill
50 hiểu Du đã tiêu đời mình

một người nói tiếng anh trích dẫn anh bill(william shakespeare) là chuyện bình thường, nhiều khi mình còn không biết mình đang trích dẫn lời của anh.

người việt tôi để ý khi càng đọc sâu vào truyện kiều thì cũng chẳng khác gì. đọc kiều hiển nhiên là chuyện tôi phải làm.

sau khi đọc thì ta đã học được nhiều bài học như sau:

không có tài ta đem tiền ra an ủi là chuyện bình thường – có tiền vui mà.

không có tài không có tiền luôn nữa thì ta làm thơ – dễ ẹc

khi thơ ta dở ẹc thì ta chơi với vợ hay mời vợ đi ăn phở cũng là chuyện vui nha – các nhà thơ nói vậy hai nhà văn Tran Chip và Nhung Hong Do ạ.

Nguyễn Thị Phương Trâm

tôi đã học tiếng việt cho ba má, ba má tôi đã ổn.
bây giờ tôi muốn làm một việc ích kỷ. tôi muốn học tiếng việt cho tôi
tôi sẽ dịch kiều của anh du và tập truyện ngắn của anh mai thảo
xem tiếng việt của mình sẽ đi đến đâu
..
I need a new goal. I feel intuitively that this is it.
Ngoài công việc này, các nhà thơ nhà văn đa số không có ai tôn trọng tôi như..
làm tôi chán lắm luôn.
không chơi nữa.
ghét lắm.

Nguyễn Thị Phương Trâm

Thế giới này toàn là “tài tử giai nhân”.

Chỉ có mình ta là con nhà nông. Mặt ta dễ thương như vậy mà hết bị người ta cho leo cây rồi lại bị chửi là vô duyên.

Ừ thì không có duyên nên phải leo cây.

Ngôn ngữ của mẹ vui ha?

photography by Nguyễn Thị Phương Trâm

“Sự hữu duyên”

Cụm từ này mấy hôm nay cứ luẩn quẩn trong đầu tôi. Tôi không làm gì. Nhưng khi tôi cần gì, vũ trụ luôn ban cho tôi những gì tôi cần lúc đó.

Tôi cần học tiếng việt, vũ trụ tặng tôi ngôn ngữ của Thiện Nguyễn Văn , tôi cần thơ vũ trụ tặng tôi máu của Lê Vĩnh Tài. Khi tôi cần bạn, vũ trụ đã đưa tôi vào thế giới của những người lạ. Sự sinh linh gần gũi không bao giờ thiếu.

Vì vậy tôi có thể cân bằng nổi bóng tối của mình?

Bạn tôi trong cơn thịnh nộ:

– em hay mất thời gian làm chuyện không cần. Kiều cũ rồi. Em háo danh, em dịch nó làm chi.

Tôi thật sự không hiểu ý của anh. Vì anh không bao giờ nói thẳng như tôi. Tôi buồn nhưng tôi không trách. Ngôn ngữ như tâm hồn như chiếc vòng cẩm thạch mang bản chất của người mang không có hai chiếc nào giống nhau. Tôi tin rằng, riêng cho tôi, bạn luôn mong và dành sự tốt lành.

Tôi buồn vì tôi biết khoảng cách cũng là một sự cần thiết.

Bão như cơn thịnh nộ chỉ mang sự tổn thương không tránh được là một sự hiển nhiên. Chỉ có sự bao dung của gia đình có thể chữa lành.

Nên nhiều khi sự bình yên là cánh buồm đang ra đi, càng ngày càng xa dần.

Tôi đọc lại những khúc truyện của cụ Du tôi đã chuyển thể. Những con chữ đem lại cho tôi một sự hạnh phúc quen thuộc là những khoảnh khắc tôi được chơi với chữ.

Tôi sẽ vẫn đi con đường của tôi. Kiếm cụ Du để trò chuyện tiếp.


An adaption of Truyện Kiều/The Tale of Kiều, not a translation.

Viết lại Truyện Kiều theo tính cách của người tây phương, một sự chuyển thể hơn là chuyển ngữ, hơn là dịch.

hmmm.. có ai làm chưa nhỉ? Thật là curious.

Dịch từ “xanh” ra tiếng anh thôi, đã thấy dịch ra cả ngày không hết từ ngữ.

Diễn dịch thơ thời buổi này là hay nhất. Cảm giác một bài thơ có thể có cả vạn bài dịch thì chỉ có chia sẻ trên những diễn đàn thôi chứ in ra giấy thì cảm giác nó hơi sao nhỉ? Hơi giới hạn.

Cũng tùy thôi đúng không, tùy lúc, tùy cảm hứng. Có cần đọc lại, diễn lại không? Kiến thức và ký ức của mình thay đổi theo thời gian, đọc lại bài thơ, ý nghĩa của nó còn như lần đầu tiên mình đọc nó không? Càng dịch thơ, tôi thấy càng không muốn dịch thơ nữa.

Như Truyện Kiều của Cụ Du, cốt truyện bình thường thôi, tình yêu, sự phản bội, những bối cảnh xã hội cách làm người. Nếu tôi viết lại ra tiếng anh thì thật tình chỉ là một câu chuyện quá bình thường hơi cải lương.

Đọc Kiều sẽ hay hơn là dịch. Thưởng thức nghệ thuật và ngôn ngữ của Cụ Du hơn là câu chuyện của Kiều.

Muốn thật sự thưởng thức thơ hay ngôn ngữ của Cụ Du thì phải học tiếng việt.

Vui nữa là những điển tích Trung Hoa dạy đời thật là thú vị.


Nhà thơ không thích tôi dịch Kiều.

Nhưng những lý do của nhà thơ nêu ra không đủ để tôi bỏ cuộc:

– Kiều không còn độc giả.

Những dịch giả đã dịch Truyện Kiều thường chỉ có một mục đích là danh vọng.

– Những dịch giả đó chưa chắc đã hiểu Kiều. Truyện Kiều đầy điển tích điển cố. Những người sống ở Việt Nam còn không hiểu làm sao em hiểu được.

– Kiều chẳng hay gì, tại sao em phải mất thời gian viết lại câu chuyện của một người sống như đã chết.

Những lý do không liên quan gì đến tôi. Toàn là những sự ngộ nhận.

Không lẽ chỉ mình tôi thật sự hiểu Cụ Du, vì tôi bây giờ đã lớn tuổi hơn cụ?

Tôi nghĩ, nếu Cụ Du không có điển tích điển cố thì làm cách nào mà viết nổi cả vạn câu thơ như một bài toán học đóng khung sáu tám sáu tám bằng bằng trắc trắc bằng bằng trong thơ lục bát nổi.

Tôi là một học trò mê toán học. Văn với tôi là một sự mơ hồ vì nó có quá nhiều định hướng định nghĩa. Thơ của Cụ Du mang lại cho tôi một thế giới ngăn nắp thật sự là quá bất ngờ.


Thoa này bắt được hư không
Captured in this hairpin is nothingness

Thơ Nguyễn Du
.
.
23.
Nhà thơ là những kẻ thích
Gây sự với
Hư không

Poets are the kind of people
Who likes to pick fights with
Nothingness

Nguyễn Thị Phương Trâm dịch lại thơ Nguyễn Hưng Quốc sau khi đã đọc Kiều:

A poet’s nature is their delight
In the opportunity to tease
A beautiful woman
.
Em thích nhất
Là những cơ hội
Được gây sự với anh


Cụ Du, cụ không cần bạn khen cụ đã viết hay, hay không.

Dịch hay, hay không, đối với tôi không quan trọng bằng bài học cụ đã chia sẻ trong hơn ba ngàn câu thơ.

Những con chữ, và những câu thơ hoa mỹ như những tác giả khác, với nguyên tác là để câu độc giả.

Bài học của cụ quá đơn giản:

Nếu bạn không biết yêu thương và bao dung những người đàn bà trong cuộc đời của bạn, thì bạn có thể làm một người nhân dân gánh sông núi trên vai nổi không?

“quá giỏi! Quá xuất sắc luôn!

Không biết có nhờ papa cộng tác không? Chứ truyện Kiều cũng có nhiều điển tích, điển cố lắm!”


Cụ Du,

Thật tình con cái nhà giàu yêu đương nó khác.

Em nhớ thời đi học lo dọn dẹp nhà mọt sách đến mờ cả mắt rớt lên rớt xuống làm gì có thời gian làm thơ mơ màng bỏ quên cây đàn.

“Time is money”, làm ra tiền trước hãng. Cái kiểu, em xin lỗi cụ trước ạ, “dạng háng” đợi chồng mang tiền về thật là khó hiểu, em không tưởng tượng nổi. Khác gì gái bán thân chứ, mà cuối cùng chỉ yêu chỉ một ông chồng xem mình như một sở hữu.

Đi làm gái điếm có lẽ còn ý nghĩa hơn.

“quá giỏi! Quá xuất sắc luôn!

Không biết có nhờ papa cộng tác không? Chứ truyện Kiều cũng có nhiều điển tích, điển cố lắm!”

Cụ lớn tuổi rồi chị, mắt cụ đã mờ. Cụ như chị thôi, không phải là người đầu tiên với suy nghĩ này, cũng không bao giờ nghĩ một người như em hiểu nổi không đúng sao?

Từ xưa đến giờ có khác gì. Em chẳng giỏi gì. Google đầy trích dẫn. Thích thì tự mò ra. Sự thất bại nằm ở câu ít người hỏi là: tại sao không? Em dại ở chỗ là em không biết “sợ”. Truyện Kiều chẳng khác gì câu thơ ba dòng đầy điển tích của Nguyễn Hưng Quốc.

Dịch thơ, thứ nhất cần một chút logic, thứ hai sai thì mò thêm. Đơn giản mà. Miễn là thích. Em đã ghi nhận hành trình của em cho ai đó muốn tự học. Chẳng khó.

Khó là thay đổi cái tư duy từ “không ai làm được, thì tôi sẽ thất bại” với câu hỏi “tại sao không?”. Để em hỏi chị lại, tiếng việt của một người như chị giỏi hơn em nhiều, chị học cao hơn nhiều, em nghĩ chị sẽ dịch ra hay hơn đúng hơn nhưng tại sao chị không dịch? Chị không cần trả lời, vì em đã biết câu trả lời của chị là gì, chị chưa bao giờ hỏi mình câu – tại sao không?

Làm gì cũng vậy, không chỉ dịch thơ. Nó bắt đầu từ câu hỏi thật đơn giản là – tại sao không?

Em không giỏi đâu chị, nhưng em khác chị ở câu hỏi đó. Mong chị thông cảm ạ, em 54 này chẳng giỏi gì. Thích là làm thôi.


Cụ à,

Khi em đã chấp nhận không cách nào dịch nổi thơ lục bát thì đương nhiên em đã chấp nhận những điển tích điển cố sẽ bị trôi dạt không được thể hiện trong ngôn ngữ của em nữa.

Dịch thỏ thành rabbit của chị Hằng thì câu chuyện sẽ bị lạc hướng, em lại phải trích dẫn dài dòng.

Xin cụ thông cảm cho em ạ. Cuộc đười quá ngắn, để mình ngồi đó phân vân phân tích ạ.

Nhưng đương nhiên thật là vui khi em được cụ chia sẻ với em những câu chuyện cổ tích như chị Hằng và con thỏ; như nỗi nhớ ray rứt của Nga hoàng và Nữ Anh ở bờ sông Tương.

Vui cụ ạ.


Sự cải tiến của ngôn ngữ của mẹ đẻ tám năm nay là nhờ thơ của anh Lê Vĩnh Tài.

Tôi đọc đi đọc lại những bài thơ của anh, nhưng thường là qua ngôn ngữ của tôi, tôi mới cảm nhận được, tôi mới thấy phê.

Nhưng mới đây việc dịch thơ của anh ra ngôn ngữ của tôi không còn là một sự cần thiết nữa.

Tôi bất đắc dĩ đã thành một dịch giả vì hoàn cảnh.

Tôi từ xưa đến nay đã thích thơ của cụ Du, chỉ vì tôi muốn hiểu hơn. Như những sonnet của Shakespeare tôi muốn hiểu rõ hơn, tôi muốn viết ra thành ngôn ngữ của tôi. Nhưng ai ai từ người thân đến thiên hạ cũng đồng điệu với suy nghĩ là tôi sẽ không bao giờ hiểu nổi. Tiếng việt của tôi quá kém, đó sẽ là một con đường thất bại.

Cuộc đời tôi có nhiều những con đường cụt hứng như vậy. Nhưng tôi vẫn muốn thử.

Tôi là một người nghiện những khởi đầu tiên.

Có ai quên nụ hôn đầu tiên của mình không nhỉ?


Cụ Du nhắc mãi “gót sen” của Kiều làm tôi cứ nhớ hôm bà ngoại tôi qua Úc chơi bà đã la, khi nghe chị em chúng tôi đi:

– con gái con đứa, đứa nào cũng đi như chạy giặc, ùm ùm như một đàn voi vậy!

Làm tôi cười chết được. Nhớ bà.

Nếu các bạn còn thắc mắc tại sao tôi “dịch” Truyện Kiều thì có lẽ các bạn nên đọc lời diễn đạt của tôi ở đây với Julia.

Truyện Kiều, khó chứ, như đọc một ngôn ngữ lạ, nhưng lại quen quen vì cả một đất nước trích dẫn Truyện Kiều làm sự tò mò của tôi càng ngày càng nông nổi hơn.

Đơn giản là vậy.

Tôi tính học chữ hán trước mà tôi nuốt không vô…tôi đành học kiểu tôi hay học là vì mê thơ. Tôi bỏ lâu rồi cái suy nghĩ “dịch thơ lục bát” vì thường là khi tôi đọc thơ lục bát tôi chẳng hiểu gì vì ngôn ngữ của nó quá nôm na.

Nên tôi nghĩ nếu học cách chép và viết ra lại bằng ngôn ngữ của mình, khi viết ra xong hơn ba ngàn câu thơ của một câu truyện thì tôi đoán là mình sẽ học được nhiều từ ngữ một cách hay và vui nhất.

Hiểu thì chắc chắn là không hiểu. 8 năm nay tôi học kiểu này mà, có gì đâu mà bà ngạc nhiên chứ. Tôi nghĩ ai cũng làm được nếu họ thích. Như bà nói – như chơi. Là chơi thật. Vì tôi thích.

Ngôn ngữ của cụ Du thật là hoa mỹ. Tại sao phải mất thời gian học từ những bài lục bát khác mà không học thơ lục bát từ một tác phẩm đã thu hút cả một đất nước hơn 300 năm nay. Tôi nghĩ vậy.

Một phần nữa là vì chúng mình đã là U60 rồi bà ạ. Mắt mờ, còn nhiều thời gian nữa ư? 

Cả ngày mò mẫm chữ, chỉ viết lại bằng tiếng anh được vài khúc của cụ Du.

Sự tò mò của tôi về ngôn ngữ của cụ không vơi. Nhờ Google.

“Lost in translation” thì quá nhiều. Từ Hán ra Nôm. Từ việt ra anh ngữ. Những điển tích điển cố. “All fascinating”, gọi là lôi cuốn à?

Nếu chán thì tôi sẽ bỏ. Tôi nghĩ vậy. Nhưng hiện giờ thì tôi rất thích chơi với cụ.

Làm tới đâu chơi tới đó. Thích ghê á.

Này, khó nha. Tác giả nổi tiếng nhất của đất nước người ta còn chưa dịch nổi. Mà phải thích thì mới có thể dịch hay. Mà hay thì người ta mới thích không đúng sao?

Nếu thích thì còn là nhiệm vụ không? Không thích mới là nhiệm vụ.

Tôi chưa bao giờ nghĩ dịch thơ là nhiệm vụ của tôi. Tôi dịch thơ cho tôi đọc thôi. Mà các bạn cứ suy diễn là vì các bạn “được dịch”.

Đúng, có một thời gian tôi hay cả nể, tôi dịch cho bạn, vì tôi thấy nó quá dễ, tôi chỉ mất một chút thời gian, mà bạn lại được vui. Nhưng tôi thấy bạn cứ nghĩ vì tôi thích. Tôi đã mang hoạn nạn vào thân.

Sự hiểu nhầm này cũng đều là lỗi của tôi. Tôi sẽ nhận là hẩu quả khờ khạc của bản thân với sự tự cao là mình có một lòng tốt.

Tôi thật ra không mong muốn đến sự yêu mến của ai. Tôi yêu quá đủ. Người bạn tri kỷ của tôi chẳng liên quan gì đến thơ ca. Là một người duy nhất hiểu tôi:

– Em cứ làm những gì em thích.

Tôi sống rất đơn giản, tôi sống chỉ cho đủ một ngày, tôi ít khi thất vọng, và tôi cũng chẳng còn tham vọng gì nữa. Tôi quá đủ.

Thắc mắc của tôi ngay lúc này là cuộc đối thoại của tôi và cụ Du, tôi hỏi cụ:

– Thật ra, nếu cụ chỉ viết về Thúy Vân thì độc giả chẳng ai thèm đọc cụ nhỉ.

🙂

Viết ra Truyện Kiều bằng ngôn ngữ của tôi là một sự hãi hùng đầy cảm hứng.
Cảm giác như tôi đang đứng ở giới chân núi bãi Trường Sơn với suy nghĩ là tôi có thể vượt qua nó.
Sự hoang tưởng như sự thật của một người học trò già dạ như tôi.
Tiếng nói của cụ Bill vọng về nhột nhạt trong tai tôi:
– Tồn tại hay không tồn tại ư?
Ừ, cụ không sai, tại sao không? Thật là vậy.
Ahh, An Epic Tale of Kiều của cụ Du in my vernacular… Sigh..

October 6th, 2024

Sự điềm tĩnh của những giọt mưa xuân trên mái tôn tích tách sau nhà làm tôi quên cả thời gian. Nắng lên và mây đã trôi đi với những khúc lục bát của cụ Du thời Khổng Tử.

Tôi ngồi ôm những suy ngẫm, thời Khổng Tử, gia đình nho giáo, đàn bà chỉ là một tài sản của gia đình. Quá trái ngược với tư tưởng của tôi. Thắc mắc lớn nhất của tôi là liệu cuộc đối thoại của tôi và cụ Du sẽ bền vững không?

Theo cá nhân tôi, ngôn ngữ chỉ là một phần, nên tôi không biết sự trái ngược về tư tưởng của chúng tôi có phải chỉ là một lý do để tôi bỏ cuộc chơi ư?

Cụ không nói gì, cụ cứ ngồi bên cạnh tôi như một ly trà nóng với những làn khói bay nhè nhẹ trong suốt.

Tale of Kiều translated by Huỳnh Sanh Thông

Từ những ngày chạy trốn lạc vào thế giới của cụ Du, ngày nào ra đường tôi cũng rủ cụ Du đi theo. Nhưng chúng tôi lại ít khi lên tiếng, có lẽ vì cụ có muốn bắt đầu cuộc đối thoại nào đi nữa tôi đã chưa muốn nghe?

Nhưng tôi thấy vui, có cụ ngồi đó không nói gì, tôi có một cảm giác thật là bình an, dù rằng ngôn ngữ bất đồng. Chúng tôi đều là người Việt. Chính xác hơn là cụ thừa nhận tôi là một người Việt xa xứ chăng? Cảm giác ấy làm tôi bớt chơi vơi.

Tôi tin rằng, dần dần tôi sẽ hiểu cụ hơn. Tôi biết là cụ có rất nhiều câu chuyện thú vị muốn chia sẻ với tôi.

Mở mắt ra, lục tủ Google, kiếm được cuốn song ngữ vô cùng quý giá của cụ Du, dịch giả Huỳnh Sanh Thông dịch. Yale University Press đã phát hành . Link tôi đã kèm ở dưới cùng với link thơ tôi sẽ viết ra tiếng Anh của cụ để tôi hiểu thêm, cho các bạn nào có xu hướng quan tâm như tôi.


Kiều sold herself to pay off her father’s debt – Kiều bán mình chuộc cha [573-804]
Kiều rơi vào tay Tú Bà & Mã Giám Sinh [805-1056]
Kiều mắc lừa Sở Khanh [1057-1274]
Kiều met/gặp Thúc Sinh [1275-1472]
Kiều & Hoạn Thư [1473-1704]
Kiều & Hoạn Thư (cont) [1705-2028]
Kiều met/gặp Từ Hải [2029-2288]
Kiều’s revenge – Kiều báo thù [2289-2418]
Từ Hải cheated by Hồ Tôn Hiến, Kiều’s attempted suicide – Từ Hải mắc lừa Hồ Tôn Hiến, Kiều tự vẫn [2419-2738]
Kim Trọng's search for Kiều – Kim Trọng đi tìm Kiều [2739-2972]
Kiều & Kim Trọng reunited – Kiều & Kim Trọng đoàn tụ [2973-3254]

Nguyến Du [1766-1820] courtesy name Tố Như and art name Thanh Hiên, is a celebrated Vietnamese poet and musician. He is most known for writing the epic poem The Tale of Kiều.

Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.

Kiều rơi vào tay Tú Bà & Mã Giám Sinh [805-1056] | Nguyễn Du

photography by Nguyễn Thị Phương Trâm

A Tale by Nguyễn Du
An adaptation by Nguyễn Thị Phương Trâm


Kiều sold herself to pay off her father’s debt – Kiều bán mình chuộc cha [573-804]

Chẳng ngờ gã Mã Giám sinh,
Vẫn là một đứa phong tình đã quen.
Quá chơi lại gặp hồi đen,
Quen mồi lại kiếm ăn mồi nguyệt hoa.
Lầu xanh có mụ Tú bà,
Làng chơi đã trở về già hết duyên.
Tình cờ chẳng hẹn mà nên,
Mạt cưa mướp đắng đôi bên một phường.
Chung lưng mở một ngôi hàng,
Quanh năm buôn phấn bán hương đã lề.
Dạo tìm khắp chợ thì quê,
Giả danh hầu hạ, dạy nghề ăn chơi.
Rủi may âu cũng sự trời,
Đoạn trường lại chọn mặt người vô duyên.
Xót nàng chút phận thuyền quyên,
Cành hoa đem bán vào thuyền lái buôn.
Mẹo lừa đã mắc vào khuôn,
Sính nghi rẻ giá, nghinh hôn sẵn ngày.
Mừng thầm: “Cờ đã đến tay,
Càng nhìn vẻ ngọc, càng say khúc vàng.
Đã nên quốc sắc thiên hương,
Một cười này hẳn nghìn vàng chẳng ngoa!
Về đây nước trước bẻ hoa,
Vương tôn quý khách là đua nhau.

[805-828]

[805-828]

Hẳn ba trăm lạng kém đâu
cũng đà vừa vốn còn sau là lời
miếng ngon kể đến tận nơi
vốn nhà cũng tiếc, của trời cũng tham
đào tiên đã bén tay phàm
thì vin cành quít cho cam sự đời
dưới trần mấy mặt làng chơi
chơi hoa đã dễ mấy người biết hoa
nước vỏ lựu, máu mào gà
mượn màu chiêu tập lại là còn nguyên
mập mờ đánh lận con đen
bao nhiêu cũng bấy nhiêu tiền mất chi?
mụ già hoặc có điều gì
liều công mất một buổi quì mà thôi
vả đây đường sá xa xôi
mà ta bất động nữa người sinh nghi”.
tiếc thay một đoá trà mi
con ong đã mở đường đi lối về
một cơn mưa gió nặng nề
thương gì đến ngọc, tiếc gì đến hương
đêm xuân một giấc mơ màng
đuốc hoa để đó mặc nàng nằm trơ.

[829-850]

[829-850]

 Thôi rồi , một đóa trà mi – con ong đã tỏ đường đi lối về

nỗi riêng tầm tã tuôn mưa
phần căm nỗi khách, phần dơ nỗi mình
“tuồng chỉ là giống hôi tanh
thân ngàn vàng để ô danh má hồng
thôi còn chi nữa mà mong
đời người thôi thế là xong một đời”.
gian duyên tủi phận bời bời
cầm dao nàng đã toan bài quyên sinh
nghĩ đi nghĩ lại một mình
một mình thì chớ, hai tình thì sao?
sau dầu sinh sự thế nào
truy nguyên chẳng kẻo lụy vào song thân
nỗi mình âu cũng giãn dần
kịp chầy thôi cũng một lần mà thôi!”
những là đo đánh ngược xuôi
tiếng gà nghe đã gáy sôi mái tường
lầu mai vừa rúc còi sương
Mã sinh giục giã vội vàng ra đi
đoạn trường thay khúc phân kỳ
vó câu khấp khểnh, bánh xe gập ghềnh
bề ngoài mười dặm trường đình
Vương ông mở tiệc tiễn hành đưa theo
ngoài thì chủ khách dập dìu
một nhà huyên với một Kiều ở trong
nhìn nhau lã chã giọt hồng
rỉ tai nàng mới giải lòng thấp cao
“Hổ sinh ra phận thơ đào
công cha nghĩa mẹ kiếp nào trả xong?
lỡ làng nước đục bụi trong
trăm năm để một tấm lòng từ đây.

[851-880]

[851-880]

xem gương trong bấy nhiêu ngày
thân con chẳng kẻo mắc tay bợm già
khi về bỏ vắng trong nhà
khi vào dùng dắng, khi ra vội vàng
khi ăn, khi nói lỡ làng
khi thầy, khi tớ xem thường xem khinh
khác màu kẻ quý người thanh
ngẫm ra cho kỹ như hình con buôn”.
“thôi con còn nói chi con
sống nhờ đất khách, thác chôn quê người”.
Vương bà nghe bấy nhiêu lời
tiếng oan đã muốn vạch trời kêu lên
vài tuần chưa cạn chén khuyên
mái ngoài nghỉ đã giục liền ruổi xe
xót con lòng nặng chề chề
trước yên ông đã nằn nì thấp cao
“chút thân yếu liễu thơ đào
rấp nhà đến nỗi dấn vào tôi ngươi
từ đây góc bể bên trời
nắng mưa thui thủi quê người một thân
nghìn tầm nhờ bóng tùng quân
tuyết sương che chở cho thân cát đằng
cạn lời khách mới thưa rằng:
“buộc chân thôi cũng xích thằng nhiệm trao
mai sau dầu đến thế nào
kìa gương nguyệt nhật, nọ dao quỉ thần”.
đùng đùng gió giục mây vần
một xe trong cõi hồng trần như bay
trông vời gạt lệ chia tay
góc trời thăm thẳm, ngày ngày đăm đăm.

[881-910]

[881-910]

nàng thì dặm khách xa xăm
bạc phau cầu giá, đen rầm ngàn mây
vi lô san sát hơi may
một trời thu để riêng ai một người
dặm khuya ngất tạnh mù khơi
thấy trăng mà thẹn những lời non sông
rừng thu từng biếc xen hồng
nghe chim như nhắc tấm lòng thần hôn
những là lạ nước lạ non
Lâm Truy vừa một tháng tròn đến nơi
xe châu dừng bánh cửa ngoài
rèm trong đã thấy một người bước ra
thoát trông nhờn nhợt màu da
ăn gì cao lớn đẫy đà làm sao?
trước xe lơi lả han chào
vâng lời nàng mới bước vào tận nơi
bên thì mấy ả mày ngài
bên thì ngồi bốn năm người làng chơi
giữa thì hương án hẳn hoi
trên treo một tượng trắng đôi lông mày
lầu xanh quen lối xưa nay
nghề này thì lấy ông này tiên sư
hương hoa hôm sớm phụng thờ
cô nào xấu vía có thưa mối hàng
cổi xiêm lột áo chán chường
trước thần sẽ nguyện mảnh hương lầm rầm

[911-936]

[911-936]

đổi hoa lót xuống chiếu nằm
bướm ong bay lại ầm ầm tứ vi
Kiều còn ngơ ngẩn biết gì
cứ lời lạy xuống mụ thì khấn ngay:
“cửa hàng buôn bán cho may
đêm đêm Hàn thực, ngày ngày Nguyên tiêu
muôn nghìn người thấy cũng yêu
xôn xao anh yến, dập dìu trúc mai
tin nhạn vẩn, lá thư bài
đưa người cửa trước, rước người cửa sau!
lạ tai nghe chửa biết đâu
xem tình ra cũng những màu dở dang
lễ xong hương hỏa gia đường
Tú bà vắt nóc lên giường ngồi ngay
dạy rằng: “con lạy mẹ đây
lạy rồi sang lạy cậu này bên kia!”

[937-952]

[937-952]

nàng rằng: “phải bước lưu ly
phận hèn vâng đã cam bề tiểu tinh
điều đâu lấy yến làm anh
ngây thơ chẳn biết là danh phận gì?
đủ điều nạp thái vu qui
đã khi chung chạ, lại khi đứng ngồi
giờ ra thay bậc đổi ngôi
dám xin gửi lại một lời cho minh”.
mụ nghe nàng nói hay tình
bấy giờ mới nổi tam Bành mụ lên
“này này sự đã quả nhiên
thôi đà cướp sống chồng min đi rồi!”
bảo rằng: “đi dạo lấy người
đem về rước khách kiếm lời mà ăn
tuồng vô nghĩa, ở bất nhân
buồn mình trước đã tần mần thử chơi
màu hồ đã mất đi rồi
thôi thôi vốn liếng đi đời nhà ma!”
“con kia đã bán cho ta
nhập gia phải cứ phép nhà tao đây

[953-972]

[953-972]

lão kia có giở bài bây
chẳng văng vào mặt mà mày lại nghe!
cớ sao chịu tốt một bề
gái tơ mà đã ngứa nghề sớm sao!
phải làm cho hết phép tao!”
giật bì tiên rắp sấn vào ra tay
nàng rằng: “trời thẳm đất dày
thân này đã bỏ những ngày ra đi
thôi thì thôi có tiếc gì!”
sẵn dao tay áo tức thì giở ra
sợ gan nát ngọc liều hoa
mụ còn trông mặt, nàng đà quá tay
thương ôi, tài sắc bậc này
một dao oan nghiệt dứt dây phong trần
nỗi oan vỡ lở xa gần
trong nhà người chật một lần như nêm
nàng thì bằn bặt giấc tiên
mụ thì cầm cập mặt nhìn hồn bay
vực nàng vào chốn hiên tây
cắt người coi sóc, nước thầy thuốc men
nào hay chưa hết trần duyên
trong mê dường đã đứng bên một nàng
rỉ rằng: “nhân quả dở dang
đã toan trốn nợ đoạn tràng được sao?

[973-996]

[973-996]

số còn nặng nghiệp má đào
người dù muốn quyết, trời nào đã cho!
hãy xin hết kiếp liễu bồ
Sông Tiền Đường sẽ hẹn hò về sau”.
thuốc thang suốt một ngày thâu
giấc mơ nghe đã dàu dàu vừa tan
Tú bà trực sẵn bên màn
lựa lời khuyên giải mơn man gỡ dần
“một người dễ có mấy thân
hoa xuân đương nhụy, ngày xuân còn dài
cũng là lỡ một lầm hai
đá vàng sao nỡ ép nài mưa mây
lỡ chân trót đã vào đây
khóa buồng xuân để đợi ngày đào non
người còn thì của hãy còn
tìm nới xứng đáng là con cái nhà
làm chi tội báo oan gia
thiệt mình mà hại đến ta hay gì?”
kề tai mấy nỗi nằn nì
nàng nghe dường cũng thị phi rạch ròi
vả trong thần mộng mấy lời
túc nhân âu cũng có trời ở trong
kiếp này nợ trả chưa xong
làm chi thêm một nợ chồng kiếp sau
lặng nghe ngẫm nghĩ gót đầu
thưa rằng; “ai có muốn đâu thế này
được như lời thế là may
hẳn rằng mai có như rày cho chăng
sợ khi ong bướm đãi đằng
đến điều sống đục sao bằng thác trong’
mụ rằng: “con hãy thong dong
phải điều lòng lại dối lòng mà chơi!

[997-1028]

[997-1028]

mai sau ở chẳng như lời
trên đầu có bóng mặt trời rạng soi”
thấy lời quyết đoán hẳn hoi
đành lòng nàng cũng sẽ nguôi nguôi dần
trước lầu Ngung bích khóa xuân
vẻ non xa tấm trăng gần ở chung
bốn bề bát ngát xa trông
cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia
bẽ bàng mây sớm đèn khuya
nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng
tưởng người dưới nguyệt chén đồng
tin sương luống những rày trông mai chờ
bên trời góc bể bơ vơ
tấm son gột rửa bao giờ cho phai
xót người tựa cửa hôm mai
quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?
Sân Lai cách mấy nắng mưa
có khi gốc tử đã vừa người ôm
buồn trông cửa bể chiều hôm
thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa
buồn trông ngọn nước mới sa
hoa trôi man mác biết tà về đâu?
buồn trông ngọn cỏ dàu dàu
chân mây mặt đất một màu xanh xanh
buồn trông gió cuốn mặt duềnh
ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi
chung quanh những nước non người
đau lòng lưu lạc nên vài bốn câu.

[1029-1056]

[1029-1056]

Kiều mắc lừa Sở Khanh [1057-1274]


Nguyến Du [1766-1820] courtesy name Tố Như and art name Thanh Hiên, is a celebrated Vietnamese poet and musician. He is most known for writing the epic poem The Tale of Kiều.

Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.

Kiều stumbling on Đạm Tiên’s grave – Kiều thăm mộ Đạm Tiên [1-244] | Nguyễn Du

Minh họa Truyện Kiều by Huynh Thoa, a graphic designer from Hồ Chí Minh City, Vietnam. www.behance.net/callitrandesigner

A tale by Nguyễn Du
An adaption by Nguyễn Thị Phương Trâm


A lifetime in someone else’s place.
Fate and talent could never gel they say.
Surviving the odd catastrophe,
Anguish of first hand experience see.

Strange not in the world is beauty
And the have not jealousy.
Giving light to priceless literature,
Time and again ingrained in ancient letters
The age old stories of love and lust.

[1-8]
_____________________
Khúc này tôi viết lại tặng chàng Vượng. Ông professor thốt giữa cơn say:

– Truyện Kiều chị chỉ cần nhớ bốn câu đầu!

Trăm năm trong cõi người ta.
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau.
Trải qua một cuộc bể dâu,
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.
Lạ gì bỉ sắc tư phong,
Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen.
Cảo thơm lần giở trước đèn,
Phong tình có lục còn truyền sử xanh.

[1-8]

As in: The Ming Dynasty
North to South in all four corners of the empire it was quiet
Lived the Vương, a middle class household
Of Confucian standards
Of the three siblings, the youngest was a boy
The heir to the Vương family was Quan
Older were his two fair sisters
The oldest was Thúy Kiều followed by Thúy Vân
They were each beautiful in their own way, their beauty could not be compared

[9-18]

Rằng: Năm Gia Tĩnh triều Minh,
Bốn phương phẳng lặng, hai kinh vững vàng.
Có nhà Viên ngoại họ Vương,
Gia tư nghĩ cũng thường thường bậc trung.
Một trai con thứ rốt lòng,
Vương Quan là chữ nối dòng nho gia.
Đầu lòng hai ả tố nga,
Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân.
Mai cốt cách, tuyết tinh thần,
Một người một vẻ mười phân vẹn mười.

[9-18]

Vân serious and dignified
Full figured visage as radiant as the full moon
Always quiet always prim always proper
Her skin as white as snow, her hair as soft as shiny as fluffy as the fluffiest of clouds.

Kiều more of a refine beauty
Against her sister shone more brilliantly
Her eyes clearer than autumn waters, brows abundant as defined as the mountains in the spring
The willow jealous of her verdant flowers of the depth of her hue
Her charm sweeps one off one’s feet
The epitome of talent and beauty.

[19-28]

Vân xem trang trọng khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang.
Hoa cười ngọc thốt đoan trang,
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.

Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn.
Làn thu thuỷ, nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.
Một hai nghiêng nước nghiêng thành,
Sắc đành đòi một, tài đành họa hai.

[19-28]

Born with innate intelligence
Gifted in the arts and the voice of an angel
Adept fa sol in the major pentatonic scale
She plays the pipa unlike any other.
The heavenly pieces she chose only she could play
Her Thiên Bạc Mệnh could break any listener’s heart say.

[29-34]

Thông minh vốn sẵn tư trời,
Pha nghề thi họa, đủ mùi ca ngâm.
Cung thương làu bậc ngũ âm,
Nghề riêng ăn đứt Hồ cầm một trương.
Khúc nhà tay lựa nên chương,
Một thiên Bạc mệnh lại càng não nhân.

[29-34]

Adorn with elegant sashes for young ladies in those days
Their hair were adorned with a pin to signal the coming of age.
Behind curtains of virtue prepared for marriage
Like bees to a flower, the neighbourhood swarmed with young men.
People like swallows turned up to soaked up the air
Done was two third of the spring fair.
The grass was as green to the end of the horizon
As the pear trees were adorned with white, scattered blossoms.
Noted was the beginning of the month of April,
All around were the noise and excitement of the peak of the spring the sisters prepared
For the next season of their life.

[35-46]
_____________________
NB. Đàn bà thủa ấy vì là gia sản của gia đình, họ được đánh dấu như gia súc, con gái nhà khá giả thì phong lưu hồng quần, vừa đủ tuổi để đi lấy chồng thì được cài trâm cho các chàng được phép tán tỉnh, lịch lãm quá đúng không? Sự nghịch lý ở đây là các nàng không được tán lại nhé. Con gái của nhà nho giáo không được làm chuyện đó.

Phong lưu rất mực hồng quần
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê.
Êm đềm tướng rủ màn che,
Tường đông ong bướm đi về mặc ai.
Ngày xuân con én đưa thoi,
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi.
Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.
Thanh minh trong tiết tháng ba,
Gần xa nô nức yến anh,
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân.

[35-46]

Elegant gentlemen and ladies flocked to the streets
Horse carts and bodies came and went in fleets
People’s heads popping up and down
Amongst the tumulus in the dying light
Burning incense and fake money for the afterlife
As their shadows fell longer towards the East the sisters headed home.
Squatting down to pee
The meadow was stretched out as far as her eyes could see
Kiều’s tiny stream came rushing
Her mini rapid twisting and turning
Her eyes met an abandoned tumulus
The grass half yellow half green
“How in the middle of Qingming festival
A tomb was missed, left unattend?

[47-60]

Dập dìu tài tử giai nhân,
Ngựa xe như nước, áo quần như nêm.
Ngổn ngang gò đống kéo lên,
Thoi vàng vó rắc, tro tiền giấy bay.
Tà tà bóng ngả về tây,
Chị em thơ thẩn dan tay ra về.
Bước dần theo ngọn tiểu khê,
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh.
Nao nao dòng nước uốn quanh,
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang.
Sè sè nấm đất bên đàng,
Dàu dàu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh.
Rằng: “Sao trong tiết thanh minh,
Mà đây hương khói vắng tanh thế mà?”

[47-60]

Vương Quan explained further,
Đạm Tiên was a dancer and singer.
Known for talent and fair beauty was her,
People flocked to see her
But fleeting and fragile was the verdant of her juvenescence,
She passed away at prime of her essence
People from distant places came in haste
Seeked her out just for a taste.
The epitome of her joy was cut, short was her life
The moment she was deemed someone’s wife.
Coldly entombed in a silence as still as the gap between the pages of her life
Any traces of the horse cart delivering her lifeless body have now been covered by moss and verdure.
How sad and pitiful it was as fate have it,
Not being able to meet such a kindred spirit.
With a connection so strong
One can but hope to meet in the next life so longed.
Hopefully the offer of this burning ox cart is enough to warm and console
The mere mount of dirt and grass so.

[61-78]

Vương Quan mới dẫn gần ra,
Đạm tiên nàng ấy xưa là ca nhi.
Nổi danh tài sắc một thì,
Xôn xao ngoài cửa hiếm gì yến anh.
Kiếp hồng nhan có mong manh,
Nửa chừng xuân thoắt gãy cành thiên hương.
Có người khách ở viễn phương,
Xa nghe cũng nức kiếm nàng tìm chơi.
Thuyền tình vừa ghé tới nơi,
Thì đà trâm gãy bình rơi bao giờ.
Buồng không lạnh ngắt như tờ,
Dấu xe ngựa đã rêu lờ mờ xanh.
Khóc than khôn xiết sự tình,
Khéo vô duyên bấy là mình với ta.
Đã không duyên trước chăng mà,
Thì chi chút ước gọi là duyên sau.
Sắm sanh nếp tử xe châu,
Vùi nông một nấm mặc dầu cỏ hoa.

[61-78]

Day and night weathering the elements
A grave no one wants to see any moment.
It broke Kiều’s heart
The uninvited tears came pouring and she couldn’t part.
The tragedy of being born a woman,
An unfortunate fate so common.
Ruthlessness of the creator,
The tainted verdant of youth and beauty
To live as a wife to someone else’s husband,
The villagers they all wanted to bed her.
Did anyone cared how it might destroyed the spirit of such a child?
Discarding her in this shallow grave, so the sisters foraged what they could behold
Lit an incense or two prayed for the lonely soul.

[79-92]

Trải bao thỏ lặn ác tà,
Ấy mồ vô chủ ai mà viếng thăm.
Lòng đâu sẵn mối thương tâm,
Thoắt nghe Kiều đã đầm đầm châu sa.
Đau đớn thay phận đàn bà,
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.
Phũ phàng chi mấy hóa công,
Ngày xanh mòn mỏi má hồng phôi pha.
Sống làm vợ khắp người ta,
Khéo thay thác xuống làm ma không chồng.
Nào người phượng chạ loan chung,
Nào người tiếc lục tham hồng là ai?
Đã không kẻ đoái người hoài,
Sẵn đây ta kiếm một vài nén hương.

[79-92]

A chance meeting with a spirit
Who had passed on
The earnest prayers borne
Resigned on knees the veneration and bows by the grave.
Patch of yellow undergrowth in the dark the breeze
Lulled gently through the reeds
Pulled the pin out of her hair
Upon the verge of a poem fell
Further into the stupor of melancholy
Further into the impossible tragedy
Further sullen was her beauty
Sadder than sad spiralling premonition
The tears, they did not stop
Vân lost her patience: “Sister, you’re being ridiculous
How could you spare so much tears for someone who is dead and gone”.
And: “That old tale of beauty being a curse,
It spares no one, so what?
Don’t let your imagination run away with you, be told
No one knows what the future holds?”
Quan too lost his patience: “Big sister, what are you talking about
Neither of you make any sense.

[93-112]

Gọi là gặp gỡ giữa đường,
Họa là người dưới suối vàng biết cho.
Lầm rầm khấn khứa nhỏ to,
Sụp ngồi vài gật trước mồ bước ra.
Một vùng cỏ áy bóng tà,
Gió hiu hiu thổi một và bông lau.
Rút trâm sẵn giắt mái đầu,
Vạch da cây vịnh bốn câu ba vần.
Lại càng mê mẩn tâm thần
Lại càng đứng lặng tần ngần chẳng ra.
Lại càng ủ dột nét hoa,
Sầu tuôn đứt nối, châu sa vắn dài.
Vân rằng: “Chị cũng nực cười,
Khéo dư nước mắt khóc người đời xưa”.
Rằng: “Hồng nhan tự thuở xưa,
Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu?
Nỗi niềm tưởng đến mà đau,
Thấy người nằm đó biết sau thế nào?”
Quan rằng: “Chị nói hay sao,
Một lời là một vận nào khó nghe.

[93-112]

The air laden with gloom and doom
It’s getting dark and it’s a long way home
Kiều adamant: “The great minds, their bodies may be gone
But their spirit lives on
How often could anyone have such a chance meeting
A sacredness so fleeting”.
Before Kiều managed to finished her passionate retort
A gush of wind came out of nowhere report
Shaking the trees and leaves startled the three siblings
A spine tingling wakening
The wind like an acknowledgment from the underworld
Truths of Kiều’s words
The fear evident on their faces
She said: “It feels as though we have known each other for years
It is fate that we should be sisters
Such kindred spirits as we are my dear”.

[113-128]

Ở đây âm khí nặng nề,
Bóng chiều đã ngả, dặm về còn xa.
Kiều rằng: “Những đấng tài hoa,
Thác là thể phách, còn là tinh anh.
Dễ hay tình gặp lại tình,
Chờ xem ắt thấy hiển linh bây giờ”.
Một lời nói chửa kịp thưa,
Phút đâu trận gió cuốn cờ đến ngay.
Ào ào đổ lộc rung cây,
Ở trong dường có hương bay ít nhiều.
Đè chừng ngọn gió lần theo,
Dấu giày từng bước in rêu rành rành.
Mặt nhìn ai nấy đều kinh,
Nàng rằng: “Này thực tinh thành chẳng xa.
Hữu tình ta lại gặp ta,
Chớ nề u hiển mới là chị em”.

[113-128]

Overwhelmed by the revelation
From her heart poured the epiphany
An ode of kinship, impulsively
Kiều had carved at the foot of a tree
A place she did not want to leave
Came as suddenly was the sound of soft music
A trotting scholar on horseback
At ease on his reign along the easy path
A dreamer with pockets full of poetry
Followed by a few pageboy indeed
His horse was a handsome white colt
And he his robe was sky blue.

[129-140]

Đã lòng hiển hiện cho xem,
Tạ lòng nàng lại nối thêm vài lời.
Lòng thơ lai láng bồi hồi,
Gốc cây lại vạch một bài cổ thi.
Dùng dằng nửa ở nửa về,
Nhạc vàng đâu đã tiếng nghe gần gần.
Trông chừng thấy một văn nhân,
Lỏng buông tay khấu bước lần dặm băng.
Đề huề lưng túi gió trăng,
Sau chân theo một vài thằng con con.
Tuyết in sắc ngựa câu giòn,
Cỏ pha màu áo nhuộm non da trời.

[129-140]

It turned out to be a familiar face
The traveller descended his horse to greet them
Embroidered scholar slippers on green grass
Dreamy vista of godlike countenance
Vương Quan greeted his friend
The girls rather bashful hid behind the flowers
Not far away
Kim Trọng was from a good family, rather affluent
Known across the land for his talent
Well read, intelligence beyond compare
Capable and brilliant, heart of a poet and eloquent
With the mien of a playful gentleman

[141-152]

Nẻo xa mới tỏ mặt người,
Khách đà xuống ngựa tới nơi tự tình.
Hài văn lần bước dặm xanh,
Một vùng như thể cây quỳnh cành dao.
Chàng Vương quen mặt ra chào,
Hai Kiều e lệ nép vào dưới hoa.
Nguyên người quanh quất đâu xa,
Họ Kim tên Trọng vốn nhà trâm anh.
Nền phú hậu, bậc tài danh,
Văn chương nết đất, thông minh tính trời.
Phong tư tài mạo tót vời,
Vào trong phong nhã, ra ngoài hào hoa.

[141-152]

From the same hometown
He went to school with Vương Quan
Well known in the area was the beauty
And talent of his friend’s sisters
Even though he had never met their acquaintance
He was infatuated with one of the sisters
Fortunately by chance today met the flowers
The week the children play “guess what leaf it is festival”
For a long time admired the rose from afar
From spring to autumn gorgeous all in all.

[153-162]

Chung quanh vẫn đất nước nhà,
Với Vương Quan trước vẫn là đồng thân.
Vẫn nghe thơm nức hương lân,
Một nền Đồng Tước khóa xuân hai Kiều.
Nước non cách mấy buồng thêu,
Những là trộm dấu thầm yêu chốc mòng.
May thay giải cấu tương phùng,
Gặp tuần đố lá, thoả lòng tìm hoa.
Bóng hồng nhác thấy nẻo xa,
Xuân lan thu cúc mặn mà cả hai.

[153-162]

A national beauty and a brilliant scholar
Though excited he was still shy
It was like a dream
He didn’t want to overstay nor did he wanted to leave
The fast dying light broke him alas
He got back on his horse as they watched him depart
Crystal clear was the water under the bridge
Soft was the wispy willow branches swaying in the afternoon breeze
Through the delicately embroidered screen of her bed chamber Kiều was thoughtful
Alerted by the afternoon gong, Kiều sat and watched
The sun set over the mountain as the moon rose in unison
Watery golden eddies shimmered as the garden was wrapped in the shadow of the canopy
Her willowy form yearned for a figure toward the East
Dewdrops holding down the fresh spring branches
Kiều was lost in the moonlight alone
Preoccupied with the impossible possibilities
What is the point of meeting such a brilliant mind
How could anyone stop thinking about what can’t be left behind

[163-180]

Người quốc sắc, kẻ thiên tài,
Tình trong như đã, mặt ngoài còn e.
Chập chờn cơn tỉnh cơn mê,
Rốn ngồi chẳng tiện, dứt về chỉn khôn.
Bóng tà như giục cơn buồn,
Khách đà lên ngựa người còn ghé theo.
Dưới cầu nước chảy trong veo,
Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha.
Kiều từ thở gót trướng hoa,
Mặt trời gác núi, chiêng đà thu không.
Mảnh trăng chênh chếch dỏm song,
Vàng gieo ngấn nước, cây lồng bóng sân.
Hải đường lả ngọn đông lân,
Giọt sương gieo nặng cành xuân la đà.
Một mình lặng ngắm bóng nga,
Rộn đường gần với nỗi xa bời bời.
Người mà đến thế thì thôi,
Đời phồn hoa cũng là đời bỏ đi.

[163-180]

What is the point of us meeting to never meet again
Serendipity, unresolved chance of a lifetime unattained?
Despite the countless relations tenured
The poetry here lies in manner
The setting moonlight settled on the central courtyard
Against the banister was a lonely figure
A graceful young woman
Virtuous, pure of heart touched by dew
Her countenance was as pure as snow in each of her footstep bloomed a lotus flower
As she advanced slowly closer
Kiều excitedly greeted her:
“From which mystical land are you lost?”
She replied: “Drawn together are kindred spirits
Like today how could you elder sister forget
I am who you have met from the West
My humble home is by the river under a bridge
A rendezvous for your companions
Where shed were invaluable gleaming verses of poetry.
But dear sister, submitted to the luminary on the wall where I’m from
Your name is on the list of those who will suffer a similar fate as mine
_____________________
NB. Khúc này tôi dịch tặng Julia Thanh Thuỷ, người bạn chưa bao giờ gặp ngoài đời, nhưng tôi đã thừa nhận từ những giây phút đầu kết bạn trên FaceBook, chị em chúng tôi là “kindred spirit”. I love you.

[181-200]

Người đâu gặp gỡ làm chi,
Trăm năm có biết duyên gì hay không?”
Ngổn ngang trăm mối bên lòng,
Nên câu tuyệt diệu ngụ trong tính tình.
Chênh chênh bóng nguyệt xế mành,
Tựa nương bên triện một mình thiu thiu.
Thoắt đâu thấy một tiểu kiều,
Có chiều phong vận, có chiều thanh tân.
Sương in mặt, tuyết pha thân,
Sen vàng lãng đãng như gần như xa.
Rước mừng đón hỏi dò la:
“Đào nguyên lạc lối đâu mà đến đây?”
Thưa rằng: “Thanh khí xưa nay,
Mới cùng nhau lúc ban ngày đã quên.
Hàn gia ở mé tây thiên,
Dưới dòng nước chảy bên trên có cầu.
Mấy lòng hạ cố đến nhau,
Mấy lời hạ tứ ném châu gieo vàng.
Vâng trình hội chủ xem tường,
Mà sao trong sổ đoạn trường có tên.

[181-200]

Our action in this life will impose karma onto the next
And we are in the same boat
I love to hear more of your amazing poetry
A decastich perhaps
Kiều aptly complied
Composed a ten line stanza as her reply
Đạm Tiên admired Kiều’s beautiful brush strokes exclaimed:
“What a brilliant piece of literature.
If I were to take it back with me to the other side
You would definitely get the first prize”.
The guest turned as though she was about to leave
Hesitating as though there was more she wanted to say
But Kiều was awaken by a sudden gust of wind through the curtains
Only then did she realised she was dreaming
At a glance she searched her surrounding
Lingered in the air was the scent of flowers
She was alone in the middle of the night
The premonition was a fright
Like water lilies and duckweed
It will be her fate
To be washed away and burdened by the tides
To rise and fall again and again was the ride
Kiêu’s sobbing
Woke her mother
“Why are you crying in the dark
Like drenched pear blossoms in the rain?”
Kiều replied: “Mother, it’s so childish
I don’t want to worry you, you must be so tired

[201-228]

Âu đành quả kiếp nhân duyên,
Cũng người một hội một thuyền đâu xa.
Này mười bài mới mới ra,
Câu thần lại mượn bút hoa vẽ vời.
Kiều vâng lĩnh ý đề bài,
Tay tiên một vẩy đủ mười khúc ngâm.
Xem thơ nức nở khen thầm:
“Giá đành tú khẩu cẩm tâm khác thường.
Ví đem vào tập Đoạn trường,
Thì treo giải nhất chi nhường cho ai”.
Thềm hoa khách đã trở hài,
Nàng còn cầm lại một hai tự tình.
Gió đâu sịch bức mành mành,
Tỉnh ra mới biết rằng mình chiêm bao.
Trông theo nào thấy đâu nào
Hương thừa dường hãy ra vào đâu đây
Một mình lưỡng lự canh chầy,
Đường xa nghĩ nỗi sau này mà kinh.
Hoa trôi bèo giạt đã đành,
Biết duyên mình, biết phận mình thế thôi!
Nỗi duyên lớp lớp sóng dồi,
Nghĩ đòi cơn lại sụt sùi đòi cơn.
Giọng Kiều rền rỉ trướng loan,
Nhà huyên chợt tỉnh hỏi cơn cớ gì?
“Cớ sao trằn trọc canh khuya,
Màu hoa lê hãy đầm đìa giọt mưa?”
Thưa rằng: “Chút phận ngây thơ,
Dưỡng sinh đôi nợ tóc tơ chưa đền.

[201-228]

We stumbled on Đạm Tiên’s grave today mother
And she had just came to me in a dream
She told me that in this life
I will suffer the same fate
I can’t seem to shake this horrible feeling
Mother, my future, how sad will it be!”
Her mother consoled: “It was just a dream,
Don’t read too much into it child!”
Listening to the wisdom of her mother’s words
She stopped making a mountain out of a molehill
The bird song of a robin through the window sill
And drifting myrtle petals through the curtains
Shifting shadows of the night on the veranda
Reflected the lonely yearning in her heart, kind.
Mean while someone else of the same mind
Not far could not stop thinking about her.

[229-244]

Buổi ngày chơi mả Đạm Tiên,
Nhắp đi thoắt thấy ứng liền chiêm bao.
Đoạn trường là số thế nào,
Bài ra thế ấy, vịnh vào thế kia.
Cứ trong mộng triệu mà suy,
Phận con thôi có ra gì mai sau!”
Dạy rằng: “Mộng huyễn cứ đâu,
Bỗng không mua não chuốc sầu nghĩ nao!”
Vâng lời khuyên giải thấp cao,
Chưa xong điều nghĩ đã dào mạch Tương.
Ngoài xong thỏ thẻ oanh vàng,
Nách tường bông liễu bay ngang trước mành.
Hiên tà gác bóng chênh chênh,
Nỗi riêng riêng trạnh tấc riêng một mình.
Cho hay là giống hữu tình,
Đố ai gỡ mối tơ mành cho xong.

[229-244]

Kiều met/gặp Kim Trọng [245-572]


Nguyến Du [1766-1820] courtesy name Tố Như and art name Thanh Hiên, is a celebrated Vietnamese poet and musician. He is most known for writing the epic poem The Tale of Kiều.

Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.

Kiều & Kim Trọng reunited – Kiều & Kim Trọng đoàn tụ [2973-3254] | Nguyễn Du

Chris & Bella, photography in the 90's by Nguyễn Thị Phương Trâm

A tale by Nguyễn Du
An adaptation by Nguyễn Thị Phương Trâm


Kim Trọng’s search for Kiều – Kim Trọng đi tìm Kiều [2739-2972]

cơ duyên đâu bỗng lạ sao!
giác duyên đâu bỗng tìm vào đến nơi
trông lên linh vị chữ bài
thất kinh mới hỏi: “Những người đâu ta?
với nàng thân thích gần xa
người còn sao bỗng làm ma khóc người?
nghe tin nhơ nhác rụng rời
xúm quanh kể lể, rộn lời hỏi tra
này chồng, này mẹ̣, này cha,
này kà em ruột, này là em dâu
thật tin nghe đã bấy lâu
pháp sư dạy thế sự đâu lạ dường
sư rằng: “nhân quả với nàng
khi nàng gieo ngọc trầm châu
đón nhau tôi đã gặp nhau rước về
cùng nhau nương cửa bồ đề
thảo am đó cũng gần kề chẳng xa
phật tiền ngày bạc lân la
đăm đăm nàng cũng nhớ nhà khôn khuây”

[2973-2992]

[2973-2992]
[2993-3012]

nghe tin nở mặt nở mày
mừng nào lại quá mừng này nữa chăng?
từ phen chiếc là lìa rừng
thăm tìm luống những liệu chừng nước mây
rõ ràng hoa rụng hương bay
kiếp sau họa thấy kiếp này hẳn thôi
minh dương đôi ngả chắc rồi
cõi trần mà lại thấy người cửu nguyên
cùng nhau lạy tạ Giác Duyên
bộ hành một lũ theo liền một khi
bẻ lau vạch cỏ tìm đi
tình thâm luống hãy hồ nghi nửa phần
quanh co theo dải giang tân
khỏi rừng lau đã tới sân Phật đường
Giác Duyên lên tiếng gọi nàng
phòng trong vội dạo sen vàng bước ra
nhìn xem đủ mặt một nhà
xuân già còn khỏe huyên già còn tươi
hai em phương tưởng hòa hai
nọ chàng Kim đó là người ngày xưa

[2993-3012]

tưởng bây giờ là bao giờ
rõ ràng mở mắt còn ngờ chiêm bao
giọt châu thánh thót quẹn bào
mừng mừng tủi tủi xiết bao là tình
huyên già dưới gối gieo mình
khóc than kể hết sự mình đầu đuôi:
“Từ con lưu lạc quê người
bèo trôi sóng vỗ chốc mười lăm năm
tính rằng sông nước cát lầm
kiếp này ai lại còn cầm gặp đây
ông bà trông mặt cầm tay
dung quanh chẳng khác chi ngày bước ra
bấy chầy dãi nguyệt dầu hoa
mười phần xuân có gầy ba bốn phần
nỗi mừng biết lấy gì cân
lời tan hợp chuyện xa gần thiếu đâu
hai em hỏi trước han sau
đứng trông chàng cũng trở sầu làm tươi
quây nhau lạy trước Phật đài
tái sinh trần tạ lòng người từ bi
kiệu hoa giục giã tức thì
Vương ông dạy rước cùng về một nơi
nàng rằng: “chút phận hoa rơi
nửa đời nếm đủ mọi mùi đắng cay
tính rằng mặt nước chân mây
lòng nào còn tưởng có rày nữa không?
được rày tái thế tương phùng
khát khao đã thỏa tấm lòng lâu nay
đã đem mình bỏ am mây
tuổi này gửi với cỏ cây cũng vừa
mùi thiền đã bén muối dưa
màu thiền ăn mặc đã ưa nâu sồng
sự đời đã tắt lửa lòng
còn chen vào chốn bụi hồng làm chi
dở dang nào có hay gì
đã tu tu trót qua thì thì thôi
trùng sinh ân nặng bể trời
lòng nào nỡ dứt nghĩa người ra đi?”

[3013-3050]

[3013-3050]
[3051-3076]

ông rằng: “bỉ thử nhất thì
tu hành thì cũng phải khi tòng quyền
phải điều cầu Phật cầu tiên
tình kia hiếu nọ ai đền cho đây?
độ sinh nhờ đức cao dày
lập am rồi sẽ rước thầy ở chung
nghe lời nàng phải chiều lòng
giã sư giã cảnh đều cùng bước ra
một đoàn về đến quan nha
đoàn viên vội mở tiệc hoa vui vầy
tàng tàng chén cúc dở say
đứng lên Vân mới giãi bày một hai
rằng: “trong tác hợp cơ trời
hai bên gặp gỡ một lời kết giao
gặp cơn bình địa ba đào
vậy đem duyên chị buộc vào cho em
cũng là phận cải duyên kim
cũng là máu chảy ruột mềm chứ sao?
những là rày ước mai ao
mười lăm năm ấy biết bao nhiêu tình
bây giờ gương vỡ lại lành
khuôn thiêng lừa lọc đã đành có nơi
còn duyên may lại còn người
còn vầng trăng bạc còn lời nguyền xưa
quả mai ba bảy đương vừa
đào non sớm liệu xe tơ kịp thì”

[3051-3076]

Dứt lời, nàng vội gạt đi:
“Sự muôn năm cũ, kể chi bây giờ?
Một lời tuy có ước xưa,
Xét mình dãi gió dầu mưa đã nhiều.
Nói càng hổ thẹn trăm chiều,
Thà cho ngọn nước thủy triều chảy xuôi!”
Chàng rằng: “Nói cũng lạ đời,
Dẫu lòng kia vậy, còn lời ấy sao?
Một lời đã trót thâm giao,
Dưới dày có đất, trên cao có trời!
Dẫu rằng vật đổi sao dời,
Tử sinh phải giữ lấy lời tử sinh.
Duyên kia có phụ chi tình,
Mà toan sẻ gánh chung tình làm hai?”
Nàng rằng: “Gia thất duyên hài,
Chút lòng ân ái, ai ai cũng lòng.
Nghĩ rằng trong đạo vợ chồng,
Hoa thơm phong nhị, trăng vòng tròn gương.
Chữ trinh đáng giá nghìn vàng,
Đuốc hoa chẳng thẹn với chàng mai xưa.
Thiếp từ ngộ biến đến giờ,
Ong qua bướm lại đã thừa xấu xa.
Bấy chầy gió táp mưa sa,
Mấy trăng cũng khuyết, mấy hoa cũng tàn.
Còn chi là cái hồng nhan,
Đã xong thân thế, còn toan nỗi nào?
Nghĩ mình, chẳng hổ mình sao?
Dám đem trần cấu dự vào bố kinh!
Đã hay chàng nặng vì tình,
Trông hoa đèn, chẳng thẹn mình lắm ru!

[3093-3106]

[3077-3106]
[3107-3130]

Từ rày khép cửa phòng thu
chẳng tu thì cũng như tu mới là
chàng dù nghĩ đến tình xa
đem tình cầm sắt đổi ra cầm cờ
nói chi kết tóc xe tơ
đã buồn cả ruột mà dơ cả đời”
chàng rằng: “khéo nói nên lời
mà trong lẽ phải có người có ta
xưa nay trong đạo đàn bà
chữ trinh kia cũng có ba bảy dường
có khi biến có khi thường
có quyền nào phải một đường chấp kinh?
như nàng lấy hiếu làm trinh
bụi nào cho đục được mình ấy vay?
trời còn để có hôm nay
tan sương đầu ngõ vén mây giữa trời
hoa tàn mà lại thêm tươi
trăng tàn mà lại hơn mười rằm xưa
có điều chi nữa mà ngờ
khách qua đường để hững hờ chàng Tiêu”
nghe chàng nói đã hết điều
hai thân thì cũng quyết theo một bài
hết lời khôn lẽ chối lời
cúi đầu nàng những ngắn dài thở than

[3107-3130]

nhà vừa mở tiệc đoàn viên
hoa soi ngọn đuốc hồng chen bức là
cùng nhau giao bái một nhà
lễ đà đủ lễ đôi đà xứng đôi
động phòng dìu dặt chén mồi
bâng khuâng duyên mới ngậm ngùi tình xưa
những từ sen ngó đào tơ
mười lăm năm mới bây giờ là đây
tình duyên ấy hợp tan này
bi hoan mấy nỗi đêm chầy trăng cao
canh khuya bức gấm rủ thao
dưới đèn tỏ rạng má đào thêm xuân
tình nhân lại gặp tình nhân
hoa xưa ong cũ mấy phân chung tình
nàng rằng: “phận thiếp đã đành
có làm chi nữa cái mình bỏ đi
nghĩ chàng nghĩa cũ tình ghi
chiều lòng gọi có xướng tùy mảy may
riêng lòng đã thẹn lắm thay
cũng đà mặt dạn mày dày khó coi
những như âu yếm vành ngoài
còn toan mở mặt với người cho qua
lại như những thói người ta
vót hương dưới đất bẻ hoa cuối mùa

[3131-3154]

[3131-3154]
[3155-3180]

khéo là giở nhuốc bày trò
còn tình đâu nữa mà thù đấy thôi
người yêu ta xấu với người
yêu nhau thì lại bằng mười phụ nhau
cửa nhà dù tính về sau
thì còn em đó lọ cầu chị đây?
chữ trinh còn một chút này
chẳng cầm cho vững lại giày cho tan
còn nhiều ân ái chan chan
hay gì vầy cánh hoa tàn mà chơi?”
chàng rằng: “gắn bó một lời
bỗng không cá nước chim trời lỡ nhau
xét người lưu lạc bấy lâu
tưởng thề thốt nặng cũng đau đớn nhiều
thương nhau sinh tử đã liều
gặp nhau còn chút bấy nhiêu là tình
chừng xuân tơ liễu còn xanh
nghĩ rằng chưa thoát khỏi vành ái ân
gương trong chẳng chút bụi trần
một lời quyết hẳn muôn phần kính thêm
bấy lời đáy bể mò kim
là nhiều vàng đá phải tìm trăng hoa
ai ngờ lại họp một nhà
lọ là chăn gối mới ra sắt cầm”
nghe lời sửa áo cài trâm
khấn đầu lạy tạ cao thâm nghìn trùng.

[3155-3180]

thân tàn gạn đục khơi trong
là nhờ quân tử khác lòng người ta
mấy lời tâm phúc ruột rà
tương tri dường ấy mới là tương tri
chở che đùm bọc thiếu gì
trăm năm danh tiết cũng vì đêm nay”
thoắt thôi tay lại cầm tay
càng yêu vì nết càng say vì tình
thêm nến giá nối hương bình
cùng nhau lại chuốc chén quỳnh giao hoan
tình xưa lai láng khôn hàn
thong dong lại hỏi ngón đàn ngày xưa
nàng rằng: “vì mấy đường tơ
lầm người cho đến bây giờ mới thôi
ăn năn thì sự đã rồi
nể lòng người cũ vâng lời một phen”.
phím đàn dìu dặt tay tiên
khói trầm cao thấp tiếng huyền gần xa
khúc đâu đầm ấm dương hoà
ấy là hồ điệp hay là Trang sinh
Khúc đâu êm ái xuân tình
ấy hồn Thục đế hay mình đỗ quyên?
trong sao châu nhỏ duềnh quyên
ấm sao hạt ngọc Lam Điền mới đông.

[3181-3204]

[3181-3204]
[3205-3230]

lọt tai nghe suốt năm cung
tiếng nào là chẳng não nùng xôn xao
chàng rằng: “phổ ấy tay nào
xưa sao sầu thảm nay sao vui vầy?
tẻ vui bởi tại lòng này
hay là khổ tận đến ngày cam lai?”
nàng rằng: “vì chút nghề chơi
đoạn trường tiếng ấy hại người bấy lâu
một phen tri kỷ cùng nhau
cuốn dây từ đấy về sau cũng chừa”
chuyện trò chưa cạn tóc tơ
gà đà gáy sáng trời vừa rạng đông
tình riêng chàng lại nói sòng
một nhà ai cũng lạ lùng khen lao
cho hay thục nữ chí cao
phải người sớm mận tối đào như ai?
hai tình vẹn vẽ hoà hai
chẳng trong chăn gối cũng ngoài cầm thơ
khi chén rượu khi cuộc cờ
khi xem hoa nở khi chờ trăng lên
ba sinh đã phỉ mười nguyền
duyên đôi lứa cũng là duyên bạn bầy
nhớ lời lập một am mây
khiến người thân tín rước thầy Giác Duyên
đến nơi đóng cửa cài then
rêu trùm kẽ ngạch cỏ lên mái nhà

[3205-3230]

sư đà hái thuốc phương xa
mây bay hạc lánh biết là tìm đâu?
nặng vì chút nghĩa bấy lâu
trên am cứ giữ hương dầu hôm mai
một nhà phúc lộc gồm hai
nghìn năm dằng dặc quan giai lần lần
thừa gia chẳng hết nàng Vân
một cây cù mộc sân quế hoè
phong lưu phú quí ai bì
vườn xuân một cửa để bia muôn đời.
***
ngẫm hay muôn sự tại trời
trời kia đã bắt làm người có thân
bắt phong trần phải phong trần
cho thanh cao mới được phần thanh cao
có đâu thiên vị người nào
chữ tài chữ mệnh dồi dào cả hai.

[3231-3246]

[3231-3246]

what is the point of talent be still
when talent is more pain than pleasurable guilt
the burden of such karma from birth
no fault of neither heaven nor earth
at the core of our being is goodness
three times more meaningful than talent is heart
simple is the average person’s part
to kill time with levity and joy

[3247-3254]
_____________________
tặng người bạn luôn lo cho tôi, anh Lê Vĩnh Tài

Có tài mà cậy chi tài,
Chữ tài liền với chữ tai một vần.
Đã mang lấy nghiệp vào thân,
Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa.
Thiên căn ở tại lòng ta,
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài.
Lời quê chắp nhặt dông dài,
Mua vui cũng được một vài trống canh.

[3247-3254]


Nguyến Du [1766-1820] courtesy name Tố Như and art name Thanh Hiên, is a celebrated Vietnamese poet and musician. He is most known for writing the epic poem The Tale of Kiều.

Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.

Kiều sold herself to pay off her father’s debt – Kiều bán mình chuộc cha [573-804] | Nguyễn Du

Về Quê với Ao tù, Nguyễn Thị Phương Trâm

A tale by Nguyễn Du
An adaptation by Nguyễn Thị Phương Trâm


Kiều met/gặp Kim Trọng [245-572]

Não người cữ gió tuần mưa,
Một ngày nặng gánh tương tư một ngày.
Nàng còn đứng dựa hiên tây,
Chín hồn vấn vít như vầy mối tơ.
Trông chừng khói ngất song thưa,
Hoa trôi trác thắm, liễu xơ xác vàng.
Tần ngần dạo gót lầu trang,
Một đoàn mừng thọ ngoại hương mới về.
Hàn huyên chưa kịp dã dề,
Sai nha bỗng thấy bốn bề xôn xao.
Người nách thước, kẻ tay đao,
Đầu trâu mặt ngựa ào ào như sôi.
Già giang một lão một trai,
Một dây vô lại một hai thâm tình.
Đầy nhà vang tiếng ruồi xanh,
Rụng rời khung dệt, tan tành gói may.

[573-582]

[573-582]

Đồ tế nhuyễn, của riêng tây,
Sạch sành sanh vét cho đầy túi tham.
Điều đâu bay buộc ai làm,
Này ai đan dậm giật giàm bỗng dưng.
Hỏi ra sau mới biết rằng:
Phải tên xưng xuất là thằng bán tơ.
Một nhà hoảng hốt ngẩn ngơ,
Tiếng oan dậy đất, án ngờ loà mây.
Hạ từ van vỉ suốt ngày,
Điếc tai lân tuất, phũ tay tồi tàn.
Rường cao rút ngược dây oan,
Dẫu là đá cũng nát gan lọ người.
Mặt trông đau đớn rụng rời,
Oan này còn một kêu trời, nhưng xa.
Một ngày lạ thói sai nha,
Làm cho khốc hại chẳng qua vì tiền.
Sao cho cốt nhục vẹn tuyền,
Trong khi ngộ biến tòng quyền biết sao?
Duyên hội ngộ, đức cù lao,
Bên tình bên hiếu, bên nào nặng hơn?
Để lời thệ hải minh sơn,
Làm con trước phải đền ơn sinh thành.
Quyết tình nàng mới hạ tình:
“Dẽ cho để thiếp bán mình chuộc cha!”

[583-606]

[583-606]

Họ Chung có kẻ lại già,
Cũng trong nha dịch lại là từ tâm.
Thấy nàng hiếu trọng tình thâm,
Vì nàng nghĩ cũng thương thầm xót vay.
Tính bài lót đó luồn đây,
Có ba trăm lạng việc này mới xuôi.
Hãy về tạm phó giam ngoài,
Dặn nàng quy liệu trong đôi ba ngày.
Thương tình con trẻ thơ ngây,
Gặp cơn vạ gió tai bay bất kỳ!
Đau lòng tử biệt sinh ly,
Thân còn chẳng tiếc, tiếc gì đến duyên!
Hạt mưa sá nghĩ phận hèn,
Liệu đem tấc cỏ quyết đền ba xuân.
Sự lòng ngỏ với băng nhân,
Tin sương đồn đại xa gần xôn xao.
Gần miền có một mụ nào,
Đưa người viễn khách tìm vào vấn danh.
Hỏi tên, rằng: Mã Giám sinh
Hỏi quê, rằng: Huyện Lâm Thanh cũng gần.
Quá niên trạc ngoại tứ tuần,
Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao.

[607-628]

[607-628]

Trước thầy sau tớ xôn xao
Nhà băng đưa mối rước vào lầu trang.
Ghế trên ngồi tót sỗ sàng,
Buồng trong mối đã giục nàng kíp ra.
Nỗi mình thêm tức nỗi nhà,
Thềm hoa một bước, lệ hoa mấy hàng.
Ngại ngùng giợn gió e sương
Nhìn hoa bóng thẹn, trông gương mặt dày.
Mối càng vén tóc bắt tay,
Nét buồn như cúc, điệu gầy như mai.
Đắn đo cân sắc cân tài,
Ép cung cầm nguyệt, thử bài quạt thơ.
Mặn nồng một vẻ một ưa,
Bằng lòng khách mới tuỳ cơ dặt dìu.
Rằng: “Mua ngọc đến Lam Kiều,
Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho tường?”
Mối rằng: “Đáng giá nghìn vàng,
Gấp nhà nhờ lượng người thương dám nài”.
Cò kè bớt một thêm hai,
Giờ lâu ngã giá vâng ngoài bốn trăm.
Một lời thuyền đã êm giầm,
Hãy đưa canh thiếp trước cầm làm ghi.
Định ngày nạp thái vu qui,
Tiền lưng đã sẵn việc gì chẳng xong!”

[629-652]

[629-652]

Một lời cậy với Chung công,
Khất từ tạm lĩnh Vương ông về nhà.
Thương tình con trẻ cha già,
Nhìn nàng ông những máu sa ruột rầu.
Nuôi con những ước về sau,
Trao tơ phải lứa, gieo cầu đáng nơi.
Trời làm chi cực bấy trời,
Này ai vu thác cho người hợp tan!
Búa rìu bao quản thân tàn,
Nỡ đày đọa trẻ, càng oan khốc già.
Một lần sau trước cũng cũng là.
Thôi thì mặt khuất chẳng thà lòng đau!”
Theo lời càng chảy dòng châu,
Liều mình ông rắp gieo đầu tường vôi.
Vội vàng kẻ giữ người coi,
Nhỏ to nàng lại tìm lời khuyên can:
“Vẻ chi một mảnh hồng nhan,
Tóc tơ chưa chút đền ơn sinh thành.
Dâng thư đã thẹn nàng Oanh,
Lại thua ả Lý bán mình hay sao?
Cỗi xuân tuổi hạc càng cao,
Một cây gánh vác biết bao nhiêu cành.
Lòng tơ dù chẳng dứt tình,
Gió mưa âu hẳn tan tành nước non.

[653-676]

[653-676]

Thà rằng liều một thân con,
Hoa dù rã cánh, lá còn xanh cây.
Phận sao đành vậy cũng vầy,
Cầm như chẳng đâu những ngày còn xanh.
Cũng đừng tính quẩn toan quanh,
Tan nhà là một, thiệt mình là hai.
Phải lời ông cũng êm tai,
Nhìn nhau giọt ngắn giọt dài ngổn ngang.
Mái ngoài họ Mã vừa sang,
Tờ hoa đã ký, cân vàng mới trao.
Trăng già độc địa làm sao?
Cầm dây chẳng lựa buộc vào tự nhiên.
Trong tay đã sẵn đồng tiền,
Dầu lòng đổi trắng thay đen khó gì.
Họ Chung ra sức giúp vì,
Lễ tâm đã đặt, tụng kỳ cũng xong.
Việc nhà đã tạm thong dong,
Tinh kỳ giục giã đã mong độ về.
Một mình nàng ngọn đèn khuya,
Áo dầm giọt lệ, tóc xe mối sầu.
Phận dầu, dầu vậy cũng dầu,
Xót lòng đeo đẳng bấy lâu một lời.
Công trình kể biết mấy mươi,
Vì ta khăng khít cho người dở dang.
Thề hoa chưa ráo chén vàng,
Lỗi thề thôi đã phũ phàng với hoa.

[677-702]

Father, since fate has it, they may deflower me
But sustain it will, our family tree
I am your daughter, it has to be me
Youth is but an illusion you see
Useless is further discussion heed
Home is the heart, don’t break it please.
His daughter’s words like music to the ear
Brimming were the tears
Upon their door step, Mã you find
The gold paid, the marriage contract signed
How could fate be so cold, and not so kind?
Without much thought roped Kiều into a bind
The ready cash, easy betrayal.
There is no such thing as a free lunch
No matter the ceremony the debt is paid.
The family momentarily sustained say
As soon as the sun sets, Venus appear
They had to deliver Kiều there
Her hair dull with the sense of her sad plight
Drenched in a cloak of tears alone in the dark of night
It is her duty as a daughter but still
Why such a heavy load upon her shoulder fill
The unimaginable climb to have found each other
To have the promise of love barely uttered
To you Trọng, the vow muttered
I will break.

[Dịch tặng ông thầy Tạ Xuân Hải]
[677-702]

Trời Liêu no nước bao xa,
Nghĩ đâu rẽ cửa chia nhà tự tôi!
Biết bao duyên nợ thề bồi,
Kiếp này thôi thế thì thôi còn gì?
Tái sinh chưa dứt hương thề,
Làm thân trâu ngựa đền nghì trúc mai.
Nợ tình chưa trả cho ai,
Khối tình mang xuống tuyền đài chưa tan!”
Nỗi riêng, riêng những bàn hoàn,
Dầu chong trắng đĩa, lệ tràn thấm khăn.
Thúy Vân chợt tỉnh giấc xuân,
Dưới đèn ghé đến ân cần hỏi han.
Cơ chi ngồi nhẫn tàn canh,
Nỗi riêng còn mắc mối tình chi đây?
Rằng: “Lòng đương thổn thức đầy,
Tơ duyên còn vướng mối này chưa xong.
Hở môi ra cũng thẹn thùng,
Để lòng thì phụ tấm lòng với ai!
Cậy em, em có chịu lời,
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.
Giữa đường đứt gánh tương tư,
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em.

[703-726]

[703-726]

Kể từ khi gặp chàng Kim,
Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề.
Sự đâu sóng gió bất kỳ,
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai.
Ngày xuân em hãy còn dài,
Xót tình máu mủ, thay lời nước non.
Chị dù thịt nát xương mòn,
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.
Chiếc thoa với bức tờ mây,
Duyên này thì giữ vật này của chung.
Dầu em nên vợ nên chồng,
Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên.
Mất người mệnh baic ắt lòng chẳng quên.
Mất người còn chút của tin,
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa.
Mai sau dù có bao giờ,
Đốt lò hương ấy, so tơ phím này.
Trông ra ngọn cỏ lá cây,
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về.
Hồn còn mang nặng lời thề,
Nát thân bồ liễu, đền nghì trúc mai.
Dạ đài cách mặt khuất lời,
Rảy xin chén nước cho người thác oan.
Bây giờ trâm gãy gương tan,
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân,
Trăm nghìn gửi lạy tình quân,
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi.

[727-752]

[727-752]

Phận sao phận bạc như vôi,
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng.
Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!”
Cạn lời phách tán hồn bay,
Một hơi lặng ngắt, đôi tay giá đồng.
Xuân huyên chợt tỉnh giấc nồng,
Một nhà tấp nập kẻ trong người ngoài.
Kẻ thang người thuốc bời bời,
Mới dầu cơn vựng, chưa phai giọt hồng.
Hỏi: “Sao ra sự lạ lùng?
Kiều càng nức nở nói không ra lời.
Nỗi nàng Vân mới rỉ tai:
“Chiếc thoa này với tờ bồi ở đây!”
– Này cha làm lỗi duyên mày.
Thôi thì nỗi ấy sau này đã em.
Vì ai rụng cải rơi kim,
Để con bèo nổi mây chìm vì ai?
Lời con dặn lại một hai,
Dẫu mòn bia đá dám sai tấc vàng!”
Lạy thôi nàng mới thua chiềng:
“Nhờ cha trả được nghĩa chàng cho xuôi.
Sá chi thân phận tôi đòi,
Dẫu rằng xương trắng quê người quản đâu!”
Xiết bao kể nỗi thảm sầu,
Khắc canh đã giục nam lâu mấy hồi.
Kiệu hoa đâu đã đến ngoài,
Quản huyền đâu đã giục người sinh ly.

[753-780]

[753-780]

Đau lòng kẻ ở người đi
Lệ rơi thấm đá, tơ chia rũ tằm.
Trời hôm mây kéo tối rầm,
Dàu dàu ngọn cỏ, đầm đầm cành sương.
Rước nàng về đến trú phường,
Bốn bề xuân tỏa một nàng ở trong.
Ngập ngừng thẹn lục e hồng,
Nghĩ lòng lại xót xa lòng đòi phen.
Phẩm tiên rơi đến tay hèn,
Hoài công nắng giữ mưa gìn với ai!
Biết thân đến bước lạc loài,
Nhị đào thà bẻ cho người tình chung.
Vì ai ngăn đón gió đông,
Thiệt lòng khi ở, đau lòng khi đi.
Trùng phùng dù họa có khi,
Thân này thôi có còn gì mà mong.
Đã sinh ra số long đong,
Còn mang lấy kiếp má hồng được sao?
Trên yên sẵn có con dao,
Giấu cầm nàng đã gói vào chéo khăn.
Phòng khi nước đã đến chân,
Dao này thì liệu với thân sau này.
Đêm thu một khắc nột chầy,
Bâng khuâng như tỉnh như say một mình.

[781-804]

[781-804]

Kiều rơi vào tay Tú Bà & Mã Giám Sinh [805-1056]


Nguyến Du [1766-1820] courtesy name Tố Như and art name Thanh Hiên, is a celebrated Vietnamese poet and musician. He is most known for writing the epic poem The Tale of Kiều.

Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.

Kiều & Hoạn Thư [1473-1704] | Nguyễn Du

Picture book by Thang Long Art Gallery. Art by Lê Thiết Cương

A tale by Nguyễn Du
An adaptation by Nguyễn Thị Phương Trâm


Kiều met/gặp Thúc Sinh [1275-1472]

Mảng vui rượu sớm trà trưa,
Đào đà phai thắm, sen vừa nảy xanh.
Trướng hồ vắng vẻ đêm thanh,
E tình nàng mới bày tình riêng chung.
Phận bồ từ vẹn chữ tòng,
Đổi thay nhạn yến đã hòng đầy niên.
Tin nhà ngày một vắng tin,
Mặn tình cát lũy, nhạt tình tao khang.
Nghĩ ra thật cũng nên dường,
Tăm hơi ai dễ giữ giàng cho ta?

[1473-1482]

[1473-1482]

trộm nghe kẻ lớn trong nhà
ở vào khuôn phép, nói ra mối giường
e thay những dạ phi thường
dễ dò rốn bể, khôn lường đáy sông
mà ta suốt một năm ròng
thế nào cũng chẳng giấu xong được nào
bấy chầy chưa tỏ tiêu hao
hoặc là trong có làm sao chăng là?
xin chàng liệu kíp lại nhà
trước người đẹp ý, sau ta biết tình
đêm ngày giữ mực giấu quanh
rày lần mai lữa như hình chưa thông!”
nghe lời khuyên nhủ thong dong
đành lòng sinh mới quyết lòng hồi trang
rạng ra gửi đến xuân đường
Thúc ông cũng vội giục chàng ninh gia
tiễn đưa một chén quan hà
xuân đình thoắt đã dạo ra Cao đình
sông tần một dải xanh xanh
loi thoi bờ liễu mấy cành Dương quan
cầm tay dài ngắn thở than
chia phôi ngừng chén, hợp tan nghẹn lời

[1483-1504]

[1483-1504]

nàng rằng: “non nước xa khơi
sao cho trong ấm thì ngoài mới êm
dễ lòa yếm thắm trôn kim
làm chi bung mắt bắt chim khó lòng
đôi ta chút nghĩa đèo bòng
đến nhà trước liệu nói sòng cho minh
dù khi sóng gió bất tình
lớn ra uy lớn, tôi đành phận tôi
hơn điều giấu ngược giấu xuôi
lại mang những việc tày trời đến sau
thương nhau xin nhớ lời nhau
năm chầy cũng chẳng đi đâu mà chầy!
chén đưa nhớ bữa hôm nay
chén mừng xin đợi ngày này năm sau!
người lên ngựa, kẻ chia bào
rừng phong thu đã nhuốm màu quan san
dặm hồng bụi cuốn chinh an
trông người đã khuát mấy ngàn dâu xanh

[1505-1522]

[1505-1522]

Waiting for the scent of my husband coming home
Etched in the long shadow of the afternoon
Lonely departure

The moon, who had taken a hammer to it
The crumbling half of dampened clay on my pillow
The rest, a billow of dust across a horizon without you.

[1523-1526]

Người về chiếc bóng năm canh,
Kẻ đi muôn dặm một mình xa xôi.
Vầng trăng ai xẻ làm đôi,
Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường.

[1523-1526]

_____________________
Mẹ tôi, chị Phương Anh sáu tuổi, tôi bốn tuổi, em Tùng hai tuổi, trong tay mẹ là em Thảo vừa lên một. Gia đình tôi đứng trước căn nhà ở đường Trương Minh Giảng tiễn bố tôi đi sau 30 Tháng Tư.

Tưởng sẽ là một tháng, thành hai, thành ba. Tết qua bốn mùa, mùa nào mẹ tôi cũng ngồi sau khung của sắt ngóng bóng của bố tôi.

kể chi những nỗi dọc đường
buồng trong, này nỗi chủ trương ở nhà
vốn dòng họ Hoạn danh gia
con quan Lại bộ tên là Hoạn thư
Duyên Đằng thuận nẻo gió đưa
cùng chàng kết tóc xe tơ những ngày
ở ăn thì nết cũng hay
nói điều ràng buộc thì tay cũng già
từ nghe vườn mới thêm hoa
miệng người đã lắm, tin nhà thì không
lừa tâm càng dập càng nồng
giận người đen bạc ra lòng trăng hoa
“ví bằng thú thật cùng ta
cũng dong kẻ dưới mới là lượng trên
dại chi chẳng giữ lấy nền
tốt chi mà rước tiếng ghen vào mình?
lại còn bưng bít giấu quanh
làm chi những thói trẻ ranh nực cười!
tính rằng cách mặt khuất lời
giấu ta, ta cũng liệu bài giấu cho!
lo gì việc ấy mà lo
kiến trong miệng chén có bò đi đâu?
làm cho nhìn chẳng được nhau
làm cho đầy đọa cất đầu chẳng lên!
làm cho trông thấy nhãn tiền
cho người thăm ván bán thuyền biết tay”.
nỗi lòng kín chẳng ai hay
ngoài tai để mặc gió bay mái ngoài
tuần sau bỗng thấy hai người
mách tin ý cũng liệu bài tâng công
tiểu thư nổi giận đùng đùng
“gớm tay thêu dệt ra lòng trêu ngươi!
điều này hẳn miệng những người thị phi!”
vội vàng xuống lệnh ra uy
đứa thì vả miệng, đứa thì bẻ răng
trong ngoài kín mít như bưng
nào ai còn dám nói năng một lời!
buồng đào khuya sớm thảnh thơi
ra vào một mực nói cười như không

[1527-1566]

[1527-1566]

đêm ngày lòng những dặn lòng
sinh đà về đến lầu hồng xuống yên
lời tan hợp, nỗi hàn huyên,
chữ tình càng mặn, chữ duyên càng nồng
tẩy trần vui chén thong dong
nỗi lòng ai ở trong lòng mà ra?
chàng về xem ý tứ nhà
sự mình cũng rắp lân la giãi bày
mấy phen cười nói tỉnh say
tóc tơ bất động mảy may sự tình
nghĩ đà bưng kín miệng bình
nào ai có khảo mà mình lại xưng?
những là e ấp dùng dằng
rút dây sợ nữa động rừng, lại thôi
có khi vui chuyện mua cười
tiểu thư lại giở những lời đâu đâu
rằng: “trong ngọc đá vàng thau
mười phần ta đã tin nhau cả mười
khen cho những miệng dông dài
bướm ong lại đặt những lời nọ kia
thiếp dù vụng chẳng hay suy
đã dơ bụng nghĩ, lại bia miệng cười”.
thấy lời thủng thỉnh như chơi
thuận lời chàng cũng nói xuôi đỡ đòn
những là cười phấn cợt son
đèn khuya chung bóng, trăng tròn sánh vai.

[1567-1592]

[1567-1592]

thú quê thuần hức bén mùi
giếng vàng đã rụng một vài lá ngô
chạnh niềm nhớ cảnh giang hồ
một màu quan tái,mấy mùa gió trăng
tình riêng chưa dám rỉ răng
tiểu thư trước đã liệu chừng nhủ qua:
“cách năm mây bạc xa xa
Lâm Truy cũng phải tính mà thần hôn”.
được lời như cởi tấc son
vó câu thẳng ruổi nước non quê người
long lanh đáy nước in trời
thành xây khói biếc, non phơi bóng vàng.
roi câu vừa gióng dặm trường
xe hương nàng cũng thuận đường qui ninh
thưa nhà huyên hết mọi tình
nỗi chàng ở bạc, nỗi mình chịu đen
nghĩ rằng: “ngứa ghẻ hờn ghen
xấu chàng mà có ai khen chi mình!
́vậy nên ngảnh mặt làm thinh
mưu cao vốn đã rắp ranh những ngày.

[1593-1612]

[1593-1612]

Lâm Truy đường bộ tháng chầy
mà đường hải đạo sang ngay thì gần
dọn thuyền lựa mặt gia nhân
hãy đem dây xích buộc chân nàng về
làm cho: cho mệt, cho mê
làm cho đau đớn, ê chề cho coi!
trước cho bõ ghét những người
sau cho để một trò cười về sau!”
phu nhân khen chước rất mầu
chiều con, mới dạy mặc dầu ra tay
sửa sang buồm gió lèo mây
Khuyển Ưng lại chọn một bầy côn quang
dặn dò hết các mọi đường
thuận phong một lá vượt sang biển Tề
nàng từ chiếc bóng song the
đường kia nỗi nọ như chia mối sầu
bóng dâu đã xế ngang đầu
biết đâu ấm lạnh, biết đâu ngọt bùi
tóc thề đã chấm ngang vai
nào lời non nước, nào lời sắt son?
sắn bìm chút phận con con
khuôn duyên biết có vuông tròn cho chăng?
thân sao lắm nỗi bất bằng
liều như cung Quảng ả Hằng nghĩ nao!
đêm thu gió lọt song đào
nửa vành thrâng khuyết, ba sao giữa trời

[1613-1638]

[1613-1638]

nén hương đến trước thiên đài
nỗi lòng khấn chửa cạn lời vân vân
dưới hoa dậy lũ ác nhân
ầm ầm khốc quỉ kinh thần mọc ra!
đầy sân gươm tuốt sáng loà
thất kinh nàng chửa biết là làm sao
thuốc mê đâu đã tưới vào
mơ màng như giấc chiêm bao biết gì!
vực ngay lên ngựa tức thì
phòng đào viện sách, bốn bề lửa dong
sẵn thây vô chủ bên sông
đem vào để đó, lận sòng ai hay?
tôi đòi phách lạc hồn bay
pha càn bụi cỏ gốc cây ẩn mình
thúc ông nhà cũng gần quanh
chợt trông ngọn lửa, thất kinh rụng rời
tớ thầy chạy thẳng đến nơi
tơi bời tưới lửa tìm người lao xao
gió cao ngọn lửa càng cao
tôi đòi tìm đủ, nàng nào thấy đâu!
hớt hơ hớt hải nhìn nhau
giếng sâu bụi rậm trước sau tìm quàng
chạy vào chốn cũ phòng hương
trong tro thấy một đống xương cháy tàn
ngay tình ai biết mưu gian
hẳn nàng thôi lại có bàn rằng ai!
thúc ông sùi sụt ngắn dài
nghĩ con vắng vẻ thương người nết na
di hài nhặt sắp về nhà
nào là khâm liệm, nào là tang trai
lễ thường đã đủ một hai
lục trình chàng cũng đến nơi bấy giờ
bước vào chốn cũ lầu thơ
tro than một đống, nắng mưa bốn tường.

[1639-1672]

[1639-1672]

sang nhà cha, đến trung đường
linh sàng bài vị thờ nàng ở trên
hỡi ôi! nói hết sự duyên
tơ tình đứt ruột, lửa phiền cháy gan!
gieo mình vật vã khóc than:
“con người thế ấy, thác oan thế này!
chắc rằng mai trúc lại vầy
ai hãy vĩnh quyết là ngày đưa nhau!”
thương càng nghĩ, nghĩ càng đau
dễ ai rấp thảm quạt sầu cho khuây!
gần miền nghe có một thầy
phi phù trí quỉ, cao tay không huyền.
trên tam đảo, dưới cửu tuyền
tìm đâu thì cũng biết tin rõ ràng
sắm sanh lễ vật đưa sang
xin tìm cho thấy mặt nàng hỏi han
đạo nhân phục trước tĩnh đàn
xuất thần giây phút chưa tàn nén hương
trở về minh bạch nói tường:
“mặt nàng chẳng thấy, việc nàng đã tra
người này nặng kiếp oan gia
còn nhiều nợ lắm sao đà thác cho!
mệnh cung đang mắc nạn to
một năm nữa mới thăm dò được tin
hai bên giáp mặt chiền chiền
muốn nhìn mà chẳng dám nhìn lạ thay!”
nghe lời nói lạ dường này
sự nàng đã thế, lời thầy dám tin
chẳng qua đồng cốt quàng xiên
người đâu mà lại thấy trên cõi trần?
tiếc hoa những ngậm ngùi xuân
thân này dễ lại mấy lần gặp tiên!

[1673-1704]

[1673-1704]

Kiều & Hoạn Thư (cont) [1705-2028]


Nguyến Du [1766-1820] courtesy name Tố Như and art name Thanh Hiên, is a celebrated Vietnamese poet and musician. He is most known for writing the epic poem The Tale of Kiều.

Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.

Kiều & Hoạn Thư (cont) [1705-2028] | Nguyễn Du

Minh and Tâm

A tale by Nguyễn Du
An adaptation by Nguyễn Thị Phương Trâm


Kiều & Hoạn Thư [1473-1704]

Nước trôi hoa rụng đã yên,
Hay đâu địa ngục ở miền nhân gian!
Khuyển Ưng đã đắt mưu gian,
Vực nàng đưa xuống để an dưới thuyền.
Buồm cao lèo thẳng cánh xuyền,
Đè chừng huyện Tích băng miền vượt sang.
giã đò, lên trước sảnh đường
Khuyển Ưng hai đứa nộp nàng dâng công
vực nàng tạm xuống môn phòng
hãy còn thiêm thiếp giấc nồng chưa phai
hoàng lương chợt tỉnh hồn mai
cửa nhà đâu mất, lâu đài nào đây?
bàng hoàng dở tỉnh dở say
sảnh đường mảng tiếng đòi ngay lên hầu
ả hoàn liền xuống giục mau
hãi hùng nàng mới theo sau một người

[1705-1720]

[1705-1720]

ngước trông tòa rộng dãy dài
thiên quan trủng tể có bài treo trên
ban ngày sáp thắp hai bên
giữa giường thất bảo, ngồi trên một bà
gạn gùng ngọn hỏi ngành tra
sự mình nàng phải cứ mà gửi thưa
bất tình nổi trận mây mưa
quở rằng: “những giống bơ thờ quen thân
con này chẳng phải thiện nhân
chẳng phường trốn chúa thì quân lộn chồng
ra tuồng mèo mả gà đồng
ra tuồng lúng túng chẳng xong bề nào
đã đem mình bán cửa tao
lại còn khủng khỉnh làm cao thế này
nào là gia pháp nọ bay
hãy cho ba chục biết tay một lần”
ả hoàn trên dưới dạ rân
dẫu rằng trăm miệng, khôn phân lẽ nào
trúc côn ra sức đập vào
thịt nào chẳng nát, gan nào chẳng kinh
xót thay đào lý một cành
một phen mưa gió, tan tành một phen
hoa nô truyền dạy đổi tên
buồng the dạy ép vào phiên thị tỳ
ra vào theo lũ thanh y
dãi dầu tóc rối da chì quản bao

[1721-1746]

[1721-1746]

quản gia có một mụ nào
thấy người thấy nết, ra vào mà thương
khi chè chén, khi thuốc thang
đem lời phương tiện, mở đường hiếu sinh
dạy rằng: “may rủi đã đành
liễu bồ mình giữ lấy mình cho hay
cũng là oan nghiệp chi đây
sa cơ mới đến thế này, chẳng dưng
ở đây tai vách mạch rừng
thấy ai người cũ cũng đừng nhìn chi
kẻo khi sấm sét bất kỳ
con ong cái kiến kêu gì được oan”
nàng càng giọt ngọc như chan
nỗi lòng luống những bàn hoàn niềm tây
phong trần kiếp đã chịu đầy
lầm than lại có thứ này bằng hai
phận sao bạc chẳng vừa thôi
khăng khăng buộc mãi lấy người hồng nhan
đã đành túc trái tiền oan
cũng liều ngọc nát hoa tàn mà chi”
những là nương náu qua thì
tiểu thư phải buổi mới về ninh gia
mẹ con trò chuyện lân la
phu nhân mới gọi nàng ra dạy lời
“tiểu thư dưới trướng thiếu người
cho về bên ấy theo đòi lầu trang”

[1747-1772]

[1747-1772]

lĩnh lời nàng mới theo sang
biết đâu địa ngục thiên đàng là đâu
sớm khuya khăn mặt, lược đầu
phận con hầu giữ con hầu dám sai
phải đêm êm ả chiều trời
trúc tơ hỏi đến nghề chơi mọi ngày
lĩnh lời nàng mới lựa dây
nỉ non thánh thót dễ say lòng người
tiểu thư xem cũng thương tài
khuôn uy dường cũng bớt vài bốn phân
cửa người đày đọa chút thân
sớm năn nỉ bóng, đêm ân hận lòng
Lâm Truy chút nghĩa đèo bòng
nước non để chữ tương phùng kiếp sau
bốn phương mây trắng một màu
trông vời cố quốc biết đâu là nhà?
lần lần tháng trọn ngày qua
nỗi gần nào biết đường xa thế này?
Lâm Truy từ thuở uyên bay
phòng không thương kẻ tháng ngày chiếc thân
mày xanh trăng mới in ngần
phấn thừa hương cũ bội phần xót xa
sen tàn, cúc lại nở hoa
sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân
tìm đâu cho thấy cố nhân
lấy câu vận mệnh khuây dần nhớ thương
trạnh niềm nhớ cảnh gia hương
nhớ quê, chàng lại tìm đường thăm quê

[1773-1800]

[1773-1800]

tiểu thư đón cửa giã giề
hàn huyên vừa cạn mọi bề gần xa
nhà hương cao cuốn bức là
phòng trong truyền gọi nàng ra lạy mừng
bước ra một bước một dừng
trông xa, nàng đã tỏ chừng nẻo xa:
“phải rằng nắng quáng đèn lòa
rõ ràng ngồi đó chẳng là Thúc Sinh?
bây giờ tình mới tỏ tình
thôi thôi đã mắc vào vành chẳng sai
chước đâu có chước lạ đời
người đâu mà lại có người tinh ma
rõ ràng thật đứa đôi ta
làm ra con ở, chúa nhà đôi nơi
bề ngoài thơn thớt nói cười
mà trong nham hiểm giết người không dao

[1801-1816]

[1801-1816]

Bây giờ đất thấp trời cao,
Ăn làm sao, nói làm sao bây giờ?”
Càng trông mặt, càng ngẩn ngơ,
Ruột tằm đòi đoạn như tơ rối bời.
Sợ uy, dám chẳng vâng lời,
Cúi đầu nép xuống sân mai một chiều.
Sinh đà phách lạc hồn xiêu,
“Thương ôi! Chẳng phải nàng Kiều ở đây?
Nhân làm sao đến thế này?
Thôi thôi, ta đã mắc tay ai rồi!”

[1817-1826]

Like the cries through the wilderness, who will hear it
How could anyone possibly eat or speak?”
The dumbfound numbness evident on one’s face,
The agonizing chaos and heart wrenching pain.
To go against one’s parent’s wishes,
To impulsively submit to one’s desire one beautiful afternoon.
The terrifying fear that could move heaven and earth,
“The pity! It’s not so much because of Kiều?
How could it ever be anyone’s intention?
Gosh, had it been a trap all along!”

[1817-1826]

Sợ quen dám hở ra lời,
Khôn ngăn giọt ngọc sụt sùi nhỏ sa.
Tiểu thư trông mặt hỏi tra:
“Mới về có việc chi mà động dong?”
Sinh rằng: Hiếu phục vừa xong,
Suy lòng trắc khởi(dĩ), đau lòng trung thiên!”
Khen rằng: Hiếu tử đã nên!
Tẩy trần mượn chén giải phiên đêm thu”.
Vợ chồng chén tạc chén thù,
Bắt nàng đứng chực trì hồ hai nơi.

[1827-1836]

[1827-1836]

bắt khoan bắt nhặt đến lời
bắt quì tận mặt, bặt mời tận tay
Sinh càng như dại như ngây
giọt dài giọt ngắn, chén đầy chén vơi
ngảnh đi, chợt nói chợt cười
cáo say, chàng đã kiếm bài lảng ra
tiểu thư vội hét: “con Hoa
khuyên chàng chẳng cạn thì ta có đòn”
Sinh càng nát ruột tan hồn
chén mời phải ngậm bồ hòn ráo ngay
tiểu thư cười nói tỉnh say
chưa xong cuộc rượu lại bày trò chơi
rằng: “Hoa nô đủ mọi tài
bản đàn thử dạo một bài chàng nghe”
nàng đà tán hoán tê mê
vâng lời ra trước bình the vặn đàn
bốn dây như khóc như than
khiến người trên tiệc cũng tan nát lòng

[1837-1854]

[1837-1854]
[1855-1878]

cùng trong một tiếng tơ đồng
người ngoài cười nụ, người trong khóc thầm
giọt châu lã chã khôn cầm
cúi đầu chàng những gạt thầm giọt sương
tiểu thư lại thét lấy nàng;
“cuộc vui gảy khúc đoạn tràng ấy chi?
sao chẳng biết ý tứ gì?
cho chàng buồn bã tội thì tại ngươi”
Sinh càng thảm thiết bồi hồi
vội vàng gượng nói, gượng cười cho qua
giọt rồng canh đã điểm ba
tiểu thư nhìn mặt dường đà cam tâm
lòng riêng khấp khởi mừng thầm:
“vui này đã bõ đau ngầm xưa nay”
Sinh thì gan héo ruột đầy
nỗi lòng càng nghĩ càng cay đắng lòng
người vào chung gối loan phòng
nàng ra tựa bóng đèn chong canh dài
bây giờ mới rõ tăm hơi
máu ghen đâu có lạ đời nhà ghen
chước đâu rẽ thúy chia uyên
ai ra đường nấy, ai nhìn được ai?
bây giờ một vực một trời
hết điều khinh trọng, hết lời thị phi

[1855-1878]

nhẹ như bấc, nặng như chì
gỡ cho ra nữa còn gì là duyên?
lỡ làng chút phận thuyền quyên
bể sâu sóng cả có tuyền được vay?
một mình âm ỉ đêm chầy
đĩa dầu vơi, nước mắt đầy năm canh
sớm khuya hầu hạ đài doanh
tiểu thư chạm mặt, đè tình hỏi tra
lựa lời, nàng mới thưa qua
“phải khi mình lại xót xa nỗi mình”
tiểu thư hỏi lại Thúc Sinh:
“cậy chàng tra lấy thực tình cho nao”
Sinh đà rát ruột như bào
nói ra chẳng tiện, trông vào chẳng đang
những e lại lụy đến nàng
đánh liều mới sẽ lựa đường hỏi tra
cúi đầu quỳ trước sân hoa
thân cung nàng mới dâng qua một tờ
diện tiền trình với tiểu thư
thoắt xem dường cũng ngẩn ngơ chút tình
liền tay trao lại Thúc Sinh
rằng: “tài nên trọng mà tình nên thương
ví chăng có số giàu sang
giá này dẫu đúc nhà vàng cũng nên
bể trần chìm nổi thuyền quyên
hữu tài thương nỗi vô duyên lạ đời”
Sinh rằng: “thật có như lời
hồng nhan bạc mệnh một người nào vay
nghìn xưa âu cũng thế này
từ bi âu liệu bớt tau mới vừa”

[1879-1908]

[1879-1908]
[1909-1928]

tiểu thư rằng: “ý trong tờ
rắp đem mệnh bạc xin nhờ cửa không
thôi thì thôi cũng chiều lòng
cũng cho khỏi lụy trong vòng bước ra
sẵn Quan Âm các vườn ta
có cây trăm thước, có hoa bốn mùa
có cổ thụ, có sơn hồ
cho nàng ra đó, giữ chùa tụng kinh”
tâng tâng trời mới bình minh
hương hoa ngũ cúng, sắm sanh lễ thường
đưa nàng đến thước Phật đường
tam qui ngũ giới, cho nàng xuất gia
áo xanh đổi lấy cà sa
pháp danh lại đổi tên ra Trạc Tuyền
sớm khuya tính đủ dầu đèn
Xuân, Thu cắt sẵn hai tên hương trà
nàng từ lánh gót vườn hoa
dường gần rừng tía, dường xa bụi hồng
nhân duyên đâu lại còn mong
khỏi điều thẹn phấn tủi hồng thì thôi

[1909-1928]

Phật tiền thảm lấp sầu vùi
ngày pho thủ tự, đêm nồi tâm hương
cho hay giọt nước cành dương
lửa lòng tưới tắt mọi đường trần duyên
nâu sồng từ trở màu thiền
sân thu trăng đã vài phen đứng đầu
quan phòng then nhặt lưới mau
nói lời trước mặt, rơi châu vắng người
gác kinh viện sách đôi nơi
trong gang tấc lại gấp mười quan san
những là ngậm thở ngùi than
tiểu thư phải buổi vấn an về nhà
thừa cơ Sinh mới lẻn ra
xăm xăm đến mé vườn hoa với nàng
sụt sùi giở nỗi đoạn trường
giọt châu tầm tã đượm tràng áo xanh
“đã cam chịu bạc với tình
chúa xuân để tội một mình cho hoa
thấp cơ thua trí đàn bà
trông vào đau ruột, nói ra ngại lời
vì ta cho lụy đến người
cát lầm ngọc trắng, thiệt đời xuân xanh
quản chi lên thác xuống ghềnh
cũng toan sống thác với tình cho xong
tông đường chút chửa cam lòng
cắn răng bẻ một chữ đồng làm hai

[1929-1954]

[1929-1954]

thẹn mình đá nát vàng phai
trăm thân dễ chuộc một lời được sao?
nàng rằng: “chiếc bách sóng đào
nổi chìm cũng mặc lúc nào rủi may
chút thân quằn quại vũng lầy
sống thừa còn tưởng đến rày nữa sao?
cũng liều một giọt mưa rào
mà cho thiên hạ trông vào cũng hay
xót vì cầm đã bén dây
chẳng trăm năm cũng một ngày duyên ta
liệu bài mở cửa cho ra
ấy là tình nặng, ấy là ân sâu”
Sinh rằng: “riêng tưởng bấy lâu
lòng người nham hiểm biết đâu mà lường
nữa khi dông tố phũ phàng
thiệt riêng đấy, cũng càng cực đây
liệu mà xa chạy cao bay
ái ân ta có ngẩn này mà thôi
bây giờ kẻ ngược người xuôi
biết bao giờ lại nối lời nước non?
dẫu rằng sông cạn đá mòn
con tằm đến thác vẫn còn vương tơ”
cùng nhau kể lể sau xưa
nói rồi lại nói, lời chưa hết lời
mặt trông tay chẳng nỡ rời
hoa tì đã động tiếng người nẻo xa
nhận ngừng nuốt tủi đứng ra
tiểu thư đâu đã rẽ hoa bước vào.

[1955-1982]

[1955-1982]
[1983-2010]

cười cười nói nói ngọt ngào
hỏi: “chàng mới ở chốn nào lại chơi?”
dối quanh Sinh mới liệu lời:
“tìm hoa quá bước, xem người viết kinh”
khen rằng: “bút pháp đã tinh
so vào với thiếp Lan đình nào thua
tiếc thay lưu lạc giang hồ
nghìn vàng thực cũng nên mua lấy tài”
thiền trà cạn nước hồng mai
thong dong nối gót thư trai cùng về
nàng càng e lệ ủ ê
rỉ tai hỏi lại hoa tì trước sau
hoa rằng: “bà đến đã lâu
dón chân đứng núp độ đâu nửa giờ
rành rành kẽ tóc chân tơ
mấy lời nghe hết, đã dư tỏ tường
bao nhiêu đoạn khổ tình thương
nỗi ông vật vã, nỗi nàng thở than
ngăn tôi đứng lại một bên
chán tai rồi mới bước lên trên lầu
nghe thôi, kinh hãi xiết đâu:
“đàn bà thế ấy, thấy âu một người
ấy mới gan ấy mới tài
nghĩ càng thêm nỗi sởn gai rụng rời
người đâu sâu sắc nước đời
mà chàng Thúc phải ra người bó tay
thực tang, bắt được dường này
máu ghen ai cũng chau mày nghiến răng.

[1983-2010]

thế mà im chẳng đãi đằng
chào mời vui vẻ, nói năng dịu dàng
giận dầu ra dạ thế thường
cười dầu mới thực khôn lường hiểm sâu
thân ta, ta phải lo âu
miệng hùm, nọc rắn ở đâu chốn này
ví chăng chắp cánh cao bay
rào cây lâu cũng có ngày bẻ hoa
phận bèo bao quản nước sa
lênh đênh đâu nữa cũng là lênh đênh
chỉn e quê khách một mình
tay không chưa dễ tìm vành ấm no”
nghĩ đi, nghĩ lại quanh co
phật tiền sẵn có mọi đồ kim ngân
bên mình giắt để hộ thân
lần nghe canh đã , một phần trống ba
cất mình qua ngọn tường hoa
lần đường theo bóng trăng tà về tây.

[2011-2028]

[2011-2028]

Kiều met/gặp Từ Hải [2029-2288]


Nguyến Du [1766-1820] courtesy name Tố Như and art name Thanh Hiên, is a celebrated Vietnamese poet and musician. He is most known for writing the epic poem The Tale of Kiều.

Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.

Kiều met/gặp Thúc Sinh [1275-1472] | Nguyễn Du

Bella, photography in the 90's by Nguyễn Thị Phương Trâm

A tale by Nguyễn Du
An adaptation by Nguyễn Thị Phương Trâm


Kiều mắc lừa Sở Khanh [1057-1274]

Khách du bỗng có một người,
Kỳ Tâm họ Thúc, cũng nòi thư hương.
Vốn người huyện Tích châu Thường,
Theo nghiêm đường mở ngôi hàng Lâm Truy.
Hoa khôi mộ tiếng Kiều nhi,
Thiếp hồng tìm đến hương khuê gửi vào.
Trướng tô giáp mặt hoa đào,
Vẻ nào chẳng mặn, nét nào chẳng ưa?
Hải đường mơn mởn cành tơ,
Ngày xuân càng gió, càng mưa càng nồng.
Nguyệt hoa, hoa nguyệt não nùng,
Đêm xuân ai dễ cầm lòng được chăng?
Lạ gì thanh khí lẽ hằng,
Một dây một buộc ai giằng cho ra?
Sớm đào tối mận lân la,
Trước còn trăng gió, sau ra đá vàng.
Dịp đâu may mắn lạ dường,
Lại vừa gặp khoảng xuân đường lại quê.
Sinh càng một tỉnh, mười mê,
Ngày xuân lắm lúc đi về với xuân.
Khi gió gác, khi trăng sân.
Bầu tiên chuốc rượu, câu thần nối thơ.
Khi hương sớm, lúc trà trưa,
Bàn vây điểm nước, đường tơ hoạ đàn.
Miệt mài trong cuộc truy hoan,
Càng quen thuộc nết, càng dan díu tình.
Lạ cho cái sóng khuynh thành,
Làm cho đổ quán siêu đình như chơi

[1275-1302]

[1275-1302]

Thúc sinh quen thói bốc rời,
Trăm nghìn đổ một trận cười như không
Mụ càng tô lục chuốt hồng,
Máu tham hễ thấy hơi đồng thì mê.
Dưới trăng quyên đã gọi hè
Đầu tường lửa lựu lập loè đâm bông
Buồng the phải buổi thong dong,
Thang lan rủ bức trướng hồng tẩm hoa.
Rõ ràng trong ngọc trắng ngà,
Dày dày sẵn đúc một toà thiên nhiên.
Sinh càng tỏ nét càng khen,
Ngụ tình tay thảo một thiên luật Đường.
Nàng rằng: “Vâng biết lòng chàng,
Lời lời châu ngọc, hàng hàng gấm thêu.
Hay hèn lẽ cũng nối điêu,
Nỗi quê nghĩ một hai điều ngang ngang.
Lòng còn gửi áng mây vàng,
Họa vần xin hãy chịu chàng hôm nay”.

[1303-1320]

Thúc Sinh was a big spender
Money, he spends like water
And Kiều’s madame’s words became sweeter
At the smell of money and that was all that mattered.
Echoed by the moonlight was the call of the quail for summer
Flickering flames pomegranate flowers
They took her time in their private chambers
Scented with orchid was the hot bath water
Bare and naked her skin shimmered
The fair colour of pearls
Thúc Sinh inspired by the sight retort a poem
In the house of Đường was the perfected form
Kiều: “Your words I know, come from the heart
Gems, exquisite silk, embroidered smart
But I have no words to impart
The person you say I am is no longer here
Left behind she was in a place not so near
Where the clouds were warm, a place I called home
Hence for the moment, pardon me”.

[1303-1320]

Rằng: “Sao nói lạ lùng thay!
Cành kia phải cội này mà ra?”
Nàng càng ủ dột thu ba,
Đoạn trường lúc ấy nghĩ mà buồn tênh.
Thiếp như hoa đã lìa cành,
Chàng như con bướm liệng vành mà chơi.
Chúa xuân đành đã có nơi,
Ngắn ngày thôi chớ dài lời làm chi!”
Sinh rằng: “Từ thuở tương tri,
Tấm riêng, riêng những nặng vì nước non.
Trăm năm tính cuộc vuông tròn,
Phải dò cho đến ngọn nguồn lạch sông”.
Nàng rằng “Muôn đội ơn lòng,
Chút e bên thú, bên tòng dễ đâu.
Bình khang nấn ná bấy lâu,
Yêu hoa, yêu được một màu điểm trang.
Rồi ra lạt phấn phai hương,
Lòng kia giữ được thường thường mãi chăng?
Vả trong thềm quế cung trăng,
Chủ trương đành đã chị Hằng ở trong.
Bấy lâu khăng khít dải đồng,
Thêm người, người cũng chia lòng riêng tây.
Vẻ chi chút phận bèo mây,
Làm cho bể ái khi đầy khi vơi.
Trăm điều ngang ngửa vì tôi,
Thân sau ai chịu tội trời ấy cho?
Như chàng có vững tay co,
Mười phần cũng đắp điếm cho một vài.

[1321-1348]

[1321-1348]

Thế trong dù lớn hơn ngoài,
Trước hàm sư tử gửi người đằng la.
Cúi đầu luồn xuống mái nhà,
Giấm chua lại tội bằng ba lửa nồng!
Ở trên còn có nhà thung,
Lượng trên trông xuống biết lòng có thương?
Sá chi liễu ngõ hoa tường,
Lầu xanh lại bỏ ra phường lầu xanh!
Lại càng dơ dáng dại hình,
Đành thân phận thiếp, ngại danh giá chàng.
Thương sao cho vẹn thì thương,
Tính sao cho trọn mọi đường thì vâng”.
Sinh rằng: “Hay nói đè chừng,
Lòng đây lòng đấy chưa từng hay sao?
Đường xa chớ ngại Ngô Lào,
Trăm điều hãy cứ trông vào một ta.
Đá vàng đã quyết, phong ba cũng liều!”
Cùng nhau căn đặn đến điều,
Chỉ non thề bể nặng gieo đến lời.

[1349-1368]

[1349-1368]

Nỉ non đêm ngắn tình dài,
Ngoài hiên thỏ đã non đoài ngậm gương.
Mượn điều trúc viện thừa lương,
Rước về hãy tạm giấu nàng một nơi.
Chiến hòa sắp sẵn hai bài,
Cậy tay thầy thợ, mượn người dò la.
Bắn tin đến mụ Tú bà,
Thua cơ, mụ cũng cầu hòa, dám sao!
Rõ ràng của dẫn tay trao,
Hoàn lương một thiếp thân vào cửa công.
Công tư đôi lẽ đều xong,
Gót tiên phút đã thoát vòng trần ai.
Một nhà sum họp trúc mai,
Càng sâu nghĩa bể, càng dài tình sông.
Hương càng đượm, lửa càng nồng,
Càng sôi vẻ ngọc, càng lồng màu sen.
Nửa năm hơi tiếng vừa quen,
Sân ngô cành biếc đã chen lá vàng.
Giậu thu vừa nảy giò sương,
Gối yên đã thấy xuân đường đến nơi.
Phong lôi nổi trận bời bời
Nặng lòng ăm ắp, tính bài phân chia.

[1369-1390]

[1369-1390]

Quyết ngay biện bạch một bề,
Dạy cho má phấn lại về lầu xanh!
Thấy lời nghiêm huấn rành rành,
Đánh liều, sinh mới lấy tình nài kêu.
Rằng: “Con biết tội đã nhiều,
Dẫu rằng sấm sét búa rìu cũng cam.
Trót vì tay đã nhúng chàm,
Dại rồi con biết khôn làm sao đây!
Cùng nhau vả tiếng một ngày,
Ôm cầm ai nỡ dứt dây cho đành.
Lượng trên quyết chẳng thương tình,
Bạc đen thôi có tiếc mình làm chi!
Thấy lời sắt đá tri tri,
Sốt gan ông mới cáo quì cửa công.
Đất bằng nổi sóng đùng đùng,
Phủ đường sai lá phiếu hồng thôi tra.
Cùng nhau theo gót sai nha,
Song song vào trước sân hoa lạy quì.
Trông lên mặt sắt đen sì,
Lập nghiêm trước đã ra uy nặng lời:
“Gã kia dại nết trơi bời,
Mà con người thế là người đong đưa!
Tuồng chi hoa thải hương thừa,
Mượn màu son phấn đánh lừa con đen!
Suy trong tình trạng nguyên đơn,
Bề nào thì cũng chưa yên bề nào.

[1391-1416]

[1391-1416]

Phép công chiếu án luận vào,
Có hai đường ấy muốn sao mặc mình:
“Một là cứ phép gia hình,
Một là lại cứ lầu xanh phó về!”
Nàng rằng: Đã quyết một bề,
Nhện này vương lấy tơ kia mấy lần!
Đục trong thân cũng là thân,
Yếu thơ vâng chịu trước sân lôi đình”.
Dạy rằng: “Cứ phép gia hình!”
Ba cây chập lại một cành mẫu đơn.
Phận đành chi dám kêu oan,
Đào hoen quẹn má, liễu tan tác mày.
Một sân lầm cát đã đầy,
Gương lờ nước thủy, mai gầy vóc sương.
Nghĩ tình chàng Thúc mà thương,
Nẻo xa trông thấy lòng càng xót xa.
Khóc rằng: “Oan khốc vì ta,
Có nghe lời trước, chẳng đà lụy sau.
Cạn lòng chẳng biết nghĩ sâu,
Để ai trăng tủi hoa sầu vì ai?”
Phủ đường nghe thoảng vào tai,
Động lòng lại gạn đến lời riêng tây.
Sụt sùi, chàng mới thưa ngay,
Đầu đuôi kể lại sự ngày cầu thân.
“Nàng đà tính hết xa gần,
Từ xưa nàng đã biết thân có rày!
Tạ tôi hứng lấy một tay,
Để nàng cho đến nỗi này vì tôi”.
Nghe lời nói cũng thương lời,
Dẹp uy mới dạy cho bài giải vi.

[1417-1446]

[1417-1446]

Rằng: “Như hẳn có thế thì,
Trăng hoa, song cũng thị phi biết điều!
Sinh rằng: “Chút phận bọt bèo,
Theo đòi vả cũng ít nhiều bút nghiên”.
Cười rằng: “Đã thế thì nên!
Mộc già hãy thử một thiên trình nghề”.
Nàng vâng cất bút tay đề,
Tiên hoa trình trước án phê, xem tường.
Khen rằng: “Giá đáng Thịnh Đường,
Tài này sắc ấy nghìn vàng chưa cân!
Thực là tài tử giai nhân,
Châu Trần, còn có Châu Trần nào hơn!
Thôi đừng rước dữ, cưu hờn,
Làm chi lỡ nhịp cho đờn ngang cung.
Đã đưa đến trước cửa công,
Ngoài thì là lý, song trong là tình,
Dâu con trong đạo gia đình,
Thôi thì dẹp nỗi bất bình là xong!”
Kíp truyền sắm sửa lễ công,
Kiệu hoa cất gió, đuốc hồng ruổi sao.
Bày hàng cổ xúy xôn sao.
Song song đưa tới trướng đào sánh đôi.
Thương vì hạnh, trọng vì tài,
Thúc ông thôi cũng dẹp lời phong ba.
Huệ lan sực nức một nhà,
Từng cay đắng lại mặn mà hơn xưa.

[1447-1472]

[1447-1472]

Kiều & Hoạn Thư [1473-1704]


Nguyến Du [1766-1820] courtesy name Tố Như and art name Thanh Hiên, is a celebrated Vietnamese poet and musician. He is most known for writing the epic poem The Tale of Kiều.

Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.