The poem – there’s two way to handle it | Bùi Chát

Khai mạc 'Đang trôi'. Photo by Trà Cù Lủ

poem by Bùi Chát
translation by Nguyễn Thị Phương Trâm

1.
Fire


Silence
Might be golden
But as it confronts evil
Silence is golden only on the surface
That can easily contaminate

2.
But

As it confronts evil
Silence is golden only on the surface
That can easily contaminate

Bài thơ – hai cách xử


1.
Lửa

Im lặng
Có thể là vàng
Nhưng đối diện cái ác
Im lặng chỉ là vàng giả
Dễ gây ô nhiễm


2.
Nhưng

Đối diện cái ác
Im lặng chỉ là vàng giả
Dễ gây ô nhiễm

(Chúng ta đang trôi đi đâu?! – Nxb Đà Nẵng 2025)


Bùi Chát is the poet, writer, publisher and artist’s pen name. Bùi Quang Viễn was born on October 22, 1979, at Hố Nai, Biên Hòa, Đồng Nai Province, Việt Nam. Born to family of patriotic Catholic refugees from the North in 1954.

Graduated in 2001 from the Faculty of Literature, Linguistics, and Journalism of Hồ Chí Minh City University of Social Sciences and Humanities. Bùi Chát named and cofounded Nhóm Mở Miệng (Open Mouth Group) with the poet and writer Lý Đợi, promoting Graveyard & Garbage Poetry.

Nhà Xuất bản Giấy Vụn (Scrap Paper Publishing House), also founded by Bùi Chát, distributions of xerographically structured sensitive works by “pavement poets”. In 2004, Bùi Chát and cofounder Lý Đợi were detained for two days for distributing flyers at a poetry reading raided by the authority. In 2005, the culture department blocked their performance at the Goethe Institute in Hà Nội.

In 2011, Bùi Chát was awarded the IPA Freedom to Publish Prize “for his exemplary courage in upholding the freedom to publish.” He was arrested on his return to Việt Nam after receiving the award in Buenos Aires and detained for several days.

Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.

Swine, pigs & Poetry | Bùi Chát

Bùi Quang Viễn, Photo by Trà Cù Lủ

editorial by Bùi Chát
translation by Nguyễn Thị Phương Trâm

1.

Swine and Pigs are 2 completely different kinds of animals, Swine are swine and Pigs are Pigs, Pigs are Northern creatures and Swine are Southern animals. The fate of Swine and Pigs are nothing alike. Pigs will be skinned alive, their lard used to bake cake, Swine follow the arts they make porn. Between Pigs and Swine there is not just a divide in geography, but a huge gap between rich and poor, nobility and commoners, blue blood and farmers.

Swine as an identity have been around for how long no one knows, but it has to be at least before the war. A war that was dragged on and on at the detriment of both Swine and Pigs. Pigs fought in the name of their breed, Swine chased after their freedom to live. Pigs wanted a collective, unification on all fronts, they started the war for a simple reason: on this earth there can only be Pigs. Swine, with the help of those with like minds fought back with everything they got, refused to give in, so they can keep their identity, they want to be called Swine.

Finally the war ended, wins and advantages belonged to the Pigs, even though after half a century, after all the trial and imposition, Swine are not Pigs, and Pigs are no longer Pigs either, neither side cared about reunification or harmony.

But at a glance there still, rows after rows and line after line, there are pigs pen full of Swine and Pigs.

2.

Dương Tường – a poet and translator is adept in how to live with Pigs, said: The first person who called a Thrush a Thrush before it had a name was indeed a poet. I don’t know! I don’t know for sure if the person who named a Dragonfly Dragonfly, Grasshopper a Grasshopper, Mallard a Mallard was a poet or not.

It should be obvious that – I was born and raised in the land of Swine – as a poet but not once did I managed to name any thing/creature. I have composed hundreds of poems amongst them some have been published. I am a poet not because of the hundred of poems, my problem is that I believed I was a poet before I composed those poems, or it is very possible that I was able to compose those poems because I believed that I was and still am a poet. Sometimes I would wonder if I’m still a poet, and I have called myself a veteran of not war but poetry especially in the past ten years, a period of time when I have not touch or be near anything to do with poetry, reading or writing, both.

Even if I am not a poet, I can still discern cat call via the cries of Pigs-Swine what one would defined as Feline since it did cry “meow meow”, the Elephant’s trumpet in the oink oink of Pigs-Swine that is called an Elephant sound because of it long nose, and much like a crow because it is a crow, the way say a Cow is called a Cow since it would often squawk “caw caw”, “moo, moooo”…

and of course it is rudimentary that one can not apply this rule to just anything, for instance if one were to apply this rule when it comes to a Dog then it would bark “wow wow”, “ruff ruff”, “woof woof”, or one might call a Dog a Woof of a Wolf…

Derived from arguments between two regions of Pigs-Swine despite whether speech was formed or not, anyone can be a poet if this is what they want. With the desire to change the vernacular.

3.

Poetry was not an art that came first, even more so that it was not an art that had first began here. Even so, this land’s desire to change the vernacular is rather commendable.

I do not know the exactly statistic, but personally I believe that after a quarter of a century that the Pigs have been in charge there has been a 25 to 30% decline in the vernacular of Swine. Admittedly significant was the Swine’s efforts in trying protect and preserve their heritage, when they were displaced, when they were forced to leave, the most valuable asset they took with them was their vernacular. Roaming all over the world, proudly speaking their language amongst other communities, print newspapers, write and publish literature, and in whatever they might be doing they applied their vernacular. The conservation effort of the Swine populace may have succeeded if it weren’t for the effort to destroy, in other words, without the House of Pigs’ effort to change the language.

But in truth whether the house of Pigs were deliberate in trying to change the vernacular the vernacular itself was already changing, the way it would say within the politics of imperial courts it had its own evolution, and everyone can become a poet in their way.

If we truly believe the legendary tale of the Tower of Babel then what should be on our mind? The Tower of Babel does not only represent the birth of language, but also the metaphor specifically for the formation of each language. The Tower of Babel can not reside any where else but within each language, is the history of each language not the history of The Tower of Babel?!!

I like the idea of a poem being like The Tower of Babel, and it being intrinsically the will of the vernacular more so than the will of the poet. The poet clearly plays the role of the creator, he wants his creation, his poem to remain flawed, hence the words, terminologies, images in the poem finds it impossible to truly communicate, form a bond strong enough to be called friends, connect to then break, fall apart… so the poem may remain forever incomplete, forever a failure.

Reading and writing within our vernacular means reading and writing within a state of utter nonsense, utter chaos, where the conciousness is left in a state of turmoil of undefined ideas, creating and destroying simultaneously, war and peace, just as old as it is new, at the same time beg and borrow mend regenerate, born again.

In each writing endeavour, I find myself endeavouring to build another tower of Babel, while reading is an endeavour to destroy it.

Even though the subject of art was not born first, the undeniable possibility is that when art is bound by the vernacular it becomes an art that is most sustainable, and possibly the last subject of art that will survive in the end.

The business of poetry begins with the vernacular, its survival is parralel with the vernacular, it’s not easy to replace poetry with anything else but the vernacular.

Heo, lợn & thơ

Bùi Chát

1.

Heo và Lợn thực tế là 2 sinh vật hoàn toàn khác nhau, Heo là Heo và Lợn là Lợn, Lợn sinh ra ở miền Bắc và Heo sinh ra ở miền Nam. Số phận của Lợn và Heo cũng chẳng giống gì nhau. Lợn chắc chắn bị bức hại, lột da làm bánh (bánh da Lợn), Heo chạy theo nghệ thuật, làm diễn viên, sống chết vinh nhục với điện ảnh (phim con Heo). Giữa Lợn và Heo không chỉ là khoảng cách về không gian địa lý, mà còn là khoảng cách của giàu nghèo, của sang với hèn, của bần nông và quý tộc.

Tên gọi Heo có từ khi nào thì không biết, nhưng phải có trước cuộc chiến. Một cuộc chiến có thể nói là lê thê và tốn kém giữa Heo và Lợn. Lợn nhân danh giống nòi, Heo theo đuổi tự do. Lợn đã muốn thâu tóm, nhất thống mọi mặt, khởi động cuộc chiến với lý do hết sức đơn giản: trên mảnh đất này tất cả phải là Lợn. Heo, với sự giúp sức của đồng bọn chống trả quyết liệt, không chịu nhượng bộ, chỉ để được gọi tên đúng như mong muốn, là Heo.

Rốt cuộc chiến tranh kết thúc, thắng lợi thuộc về nhà Lợn, tuy nhiên sau gần nửa thế kỷ, dù đã rất cố gắng áp đặt, nhưng Heo vẫn không phải là Lợn, Lợn cũng chẳng còn là Lợn nữa, chẳng bên nào quan tâm đến hòa hợp và thống nhất.

Nhưng thỉnh thoảng cũng thấy đâu đó, hàng hàng lớp lớp, cả một bọn mặt Lợn tim Heo.

2.

Dương Tường – một nhà thơ và dịch giả có nhiều kinh nghiệm ở xứ Lợn, nói: Người đầu tiên gọi con Chích Choè là Chích Choè khi nó còn khuyết danh, người đó đích thực là nhà thơ. Tôi thì không chắc lắm! Tôi cũng không dám chắc những người đặt tên cho con Chuồn Chuồn là Chuồn Chuồn, Châu Chấu là Châu Chấu, Le Le là Le Le có phải là nhà thơ không nữa.

Dĩ nhiên tôi – sinh ra và lớn lên trong miền Heo – là một nhà thơ dù tôi chưa biết đặt tên cho bất kỳ con/vật nào. Tôi cũng đã làm hàng trăm bài thơ và xuất bản một ít trong số đó. Không phải vì hàng trăm bài thơ đó mà tôi trở thành nhà thơ, vấn đề là tôi luôn nghĩ mình là một nhà thơ trước khi viết những bài thơ đó, hoặc có thể vì nghĩ mình là nhà thơ nên tôi mới viết được những bài đó cũng nên. Đôi khi tôi cũng hay tự nhủ không biết mình có phải là một nhà thơ không nữa, và tôi cũng từng gọi mình là cựu nhà thơ trong mười năm, đó là khoảng thời gian tôi không đụng chạm gì đến thơ hoặc những gì liên quan thơ, dù là đọc hay viết.

Nhưng nếu không phải là một nhà thơ, tôi cũng sẽ thấy rõ con Mèo trong tiếng Lợn-Heo được gọi là Mèo vì có thể nó đã kêu “meo meo”, con Voi trong tiếng Lợn-Heo được gọi là Voi có lẽ vì nó có cái vòi, và tương tự con Quạ được gọi là Quạ, con Bò được gọi là Bò vì nó thường kêu “quạ quạ”, “b..òòò, bòòò”…

Đương nhiên ta không thể áp dụng quy luật ấy cho tất cả mọi sự vật, lấy ví dụ nếu buộc phải áp dụng quy luật ấy cho con Chó thì hoặc là con Chó phải sủa “nó nó”, “chó chó”, “ó, ó” hoặc con Chó phải được gọi là con Gâu hay con Gấu….

Hiểu theo cách lập luận của hai miền Lợn-Heo thì dẫu có sáng tạo ra ngôn ngữ hay không, bất cứ ai cũng có thể trở thành nhà thơ nếu họ có nhu cầu. Nhu cầu làm biến đổi ngôn ngữ.

3.

Thơ không phải là môn nghệ thuật ra đời sớm nhất, càng không phải là môn nghệ thuật ra đời ở xứ sở này. Tuy nhiên, nhu cầu làm biến đổi ngôn ngữ ở nơi đây thì quả là đáng nể.

Tôi chưa biết có một thống kê rõ ràng cụ thể nào, nhưng theo suy đoán chủ quan của tôi thì có tới 25 đến 30% cách dùng tử của miền Heo bị biến mất chỉ sau 1/4 thế kỷ nhà Lợn làm chủ. Cho dù nỗ lực bảo tồn, bảo vệ của nhà Heo phải thừa nhận là đáng kể, tài sản quý giá nhất mà họ có thể mang theo khi di tản là ngôn ngữ. Dong ruổi khắp địa cầu, sử dụng thường xuyên một cách tự hào trong những cộng đồng ngôn ngữ khác, làm báo, làm văn học, làm xuất bản, và làm gì thì họ cũng dùng ngôn ngữ của họ. Nỗ lực bảo tồn ngôn ngữ của dân Heo biết đâu có thể đã thành công nếu không có nỗ lực phá huỷ, nói cách khác nếu không có nỗ lực làm biến đổi ngôn ngữ của nhà Lợn.

Nhưng thực tình mà nói dù cho nhà Lợn có ý thức hay không ý thức về việc làm biến chuyển ngôn ngữ thì bản thân ngôn ngữ cũng tự biến chuyển, nói theo kiểu chính trị cung đình là tự diễn biến. Ngôn ngữ đã tự diễn biến, và mỗi người tham gia vào tiến trình ngôn ngữ đều ý thức được vai trò tự diễn biến của mình, rồi mỗi người đều đã có thể trở thành nhà thơ theo một cách riêng.

Nếu thực sự chấp nhận huyền thoại Tháp Babel thì ta phải nghĩ gì? Tháp Babel không chỉ là biểu tượng cho sự ra đời của các ngôn ngữ, mà còn là ẩn dụ cho sự hình thành từng ngôn ngữ cụ thể. Tháp Babel đã ở đâu nếu không phải là ở trong chính từng ngôn ngữ, chẳng phải lịch sử của mỗi ngôn ngữ là lịch sử của Tháp Babel hay sao?!!

Tôi thích hình dung bài thơ như một tháp Babel, và tôi cũng nghĩ bài thơ được hình thành từ ý chí nội tại của ngôn ngữ hơn là ý chí của nhà thơ. Nhà thơ chắc hẳn luôn cho mình có vai trò như thượng đế, hắn có bao giờ muốn bài thơ được hoàn thành đâu, vì vậy hắn đã làm cho các từ ngữ, hình ảnh trong bài thơ không thể nào hiểu được nhau, chạm được nhau để bàn bạc, liên kết mà phải chia rẽ, tan vỡ… để bài thơ luôn luôn phải dở dang, luôn luôn phải thất bại.

Đọc và viết trong ngôn ngữ của chúng tôi là đọc và viết trong sự quàng xiên, hổ lốn, đấy tỉnh xáo trộn từ chuyện này qua chuyện kia, vừa sáng tạo vừa phá hủy, vừa hòa bình vừa chiến tranh, vừa cũ lại vừa mới, vừa vay mượn chắp vá lại vừa tái tạo, hồi sinh.

Mỗi nỗ lực viết, tôi tự thấy là mỗi nỗ lực xây dựng tháp Babel, còn mỗi nỗ lực đọc là nỗ lực phá hủy nó.

Tuy không phải là môn nghệ thuật ra đời sớm nhất, nhưng biết đâu nghệ thuật gắn liền với ngôn ngữ có thể sẽ là môn nghệ thuật tồn tại lâu dài nhất, và cũng có thể sẽ là môn nghệ thuật cuối cùng cho đến khi mọi thứ kết thúc.

Thơ khởi nghiệp từ ngôn ngữ, tồn tại cùng ngôn ngữ, thật khó có thể thay thế thơ bằng thứ gì khác ngoài ngôn ngữ.


Bùi Chát is the poet, writer, publisher and artist’s pen name. Bùi Quang Viễn was born on October 22, 1979, at Hố Nai, Biên Hòa, Đồng Nai Province, Việt Nam. Born to family of patriotic Catholic refugees from the North in 1954.

Graduated in 2001 from the Faculty of Literature, Linguistics, and Journalism of Hồ Chí Minh City University of Social Sciences and Humanities. Bùi Chát named and cofounded Nhóm Mở Miệng (Open Mouth Group) with the poet and writer Lý Đợi, promoting Graveyard & Garbage Poetry.

Nhà Xuất bản Giấy Vụn (Scrap Paper Publishing House), also founded by Bùi Chát, distributions of xerographically structured sensitive works by “pavement poets”. In 2004, Bùi Chát and cofounder Lý Đợi were detained for two days for distributing flyers at a poetry reading raided by the authority. In 2005, the culture department blocked their performance at the Goethe Institute in Hà Nội.

In 2011, Bùi Chát was awarded the IPA Freedom to Publish Prize “for his exemplary courage in upholding the freedom to publish.” He was arrested on his return to Việt Nam after receiving the award in Buenos Aires and detained for several days.

Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.

pointless | Bùi Chát

poem by Bùi Chát
translation by Nguyễn Thị Phương Trâm

“Whoever uses the spirit that is in him creatively is an artist.
To make living itself an art, that is the goal.”

― Henry Miller, Big Sur and the Oranges of Hieronymus Bosch

the end is inevitable
don’t you want to go out with a bang?
try not to bored people to death

the same drama over and over again
a bunch of amateurs
inept actors always in the wrong role
saying the wrong lines

why the same sad tragedy?
do you think your audience are fools?
or no one has enough courage to write something new?

the end is inevitable
so choose the best way to go
dragging it out is pointless
to the sacrifice of so many patron!

Vô ích


Sau trước gì cũng xong
Phải chăng chọn một cái kết phù hợp?
Đừng để người xem nhìn nhau ngán ngẩm

Một vở kịch diễn đi diễn lại
Mà diễn viên toàn người nghiệp dư
Lần nào cũng không đúng vai
Lúc nào cũng sai lời thoại

Sao để mọi người xem mãi vở kịch tồi tệ?
Tụi bay nghĩ chẳng người nào hiểu kịch?
Hoặc không còn ai dám dựng vở mới?

Sau trước gì cũng xong
Hãy chọn một kết thúc hợp lý
Kéo dài chi vô ích
Mất hết khách bi chừ!


Bùi Chát is the poet, writer, publisher and artist’s pen name. Bùi Quang Viễn was born on October 22, 1979, at Hố Nai, Biên Hòa, Đồng Nai Province, Việt Nam. Born to family of patriotic Catholic refugees from the North in 1954.

Graduated in 2001 from the Faculty of Literature, Linguistics, and Journalism of Hồ Chí Minh City University of Social Sciences and Humanities. Bùi Chát named and cofounded Nhóm Mở Miệng (Open Mouth Group) with the poet and writer Lý Đợi, promoting Graveyard & Garbage Poetry.

Nhà Xuất bản Giấy Vụn (Scrap Paper Publishing House), also founded by Bùi Chát, distributions of xerographically structured sensitive works by “pavement poets”. In 2004, Bùi Chát and cofounder Lý Đợi were detained for two days for distributing flyers at a poetry reading raided by the authority. In 2005, the culture department blocked their performance at the Goethe Institute in Hà Nội.

In 2011, Bùi Chát was awarded the IPA Freedom to Publish Prize “for his exemplary courage in upholding the freedom to publish.” He was arrested on his return to Việt Nam after receiving the award in Buenos Aires and detained for several days.

Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.

Mother | Bùi Chát

Khai mạc 'Đang trôi'. Art by Bùi Chát. Photo by Trà Cù Lủ

poem by Bùi Chát
translation by Nguyễn Thị Phương Trâm

Definitely not a river, a grain of rice,
Nation or memory at all

Nor anything truly terrible ever

Mother

That fucker

Has a husband and lots of children

A fact that will never change

Mẹ


Hẳn nhiên không phải dòng sông, hạt gạo,
Quê hương hay kí ức gì cả

Cũng chưa bao giờ là gì đó thực sự tệ hại

Mẹ

Là mẹ

Có chồng và thiệt nhiều con

Đấy là điều luôn được biết đến

(Chúng ta đang trôi đi đâu?! – Nxb Đà Nẵng 2025)


Bùi Chát is the poet, writer, publisher and artist’s pen name. Bùi Quang Viễn was born on October 22, 1979, at Hố Nai, Biên Hòa, Đồng Nai Province, Việt Nam. Born to family of patriotic Catholic refugees from the North in 1954.

Graduated in 2001 from the Faculty of Literature, Linguistics, and Journalism of Hồ Chí Minh City University of Social Sciences and Humanities. Bùi Chát named and cofounded Nhóm Mở Miệng (Open Mouth Group) with the poet and writer Lý Đợi, promoting Graveyard & Garbage Poetry.

Nhà Xuất bản Giấy Vụn (Scrap Paper Publishing House), also founded by Bùi Chát, distributions of xerographically structured sensitive works by “pavement poets”. In 2004, Bùi Chát and cofounder Lý Đợi were detained for two days for distributing flyers at a poetry reading raided by the authority. In 2005, the culture department blocked their performance at the Goethe Institute in Hà Nội.

In 2011, Bùi Chát was awarded the IPA Freedom to Publish Prize “for his exemplary courage in upholding the freedom to publish.” He was arrested on his return to Việt Nam after receiving the award in Buenos Aires and detained for several days.

Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.

An Oxymoron | Bùi Chát

poem by Bùi Chát
translation by Nguyễn Thị Phương Trâm

1.
I am a witness to many deaths
Sad. Pitiful
Horrifying, to the point where…

Death is something no one dare


2.
I am a witness to many deaths
Sad
Pitiful
Horrifying
to the point where…

Living is something no one dare

Nghịch lí


1.
Tôi đã chứng kiến nhiều cái chết
Buồn. Thê thảm
Kinh hoàng, đến nỗi…

Không còn ai dám chết


2.
Tôi đã chứng kiến nhiều cái chết
Buồn
Thê thảm
Kinh hoàng
đến mức…

Không còn ai dám sống

(Chúng ta đang trôi đi đâu?! – Nxb Đà Nẵng 2025)


Bùi Chát is the poet, writer, publisher and artist’s pen name. Bùi Quang Viễn was born on October 22, 1979, at Hố Nai, Biên Hòa, Đồng Nai Province, Việt Nam. Born to family of patriotic Catholic refugees from the North in 1954.

Graduated in 2001 from the Faculty of Literature, Linguistics, and Journalism of Hồ Chí Minh City University of Social Sciences and Humanities. Bùi Chát named and cofounded Nhóm Mở Miệng (Open Mouth Group) with the poet and writer Lý Đợi, promoting Graveyard & Garbage Poetry.

Nhà Xuất bản Giấy Vụn (Scrap Paper Publishing House), also founded by Bùi Chát, distributions of xerographically structured sensitive works by “pavement poets”. In 2004, Bùi Chát and cofounder Lý Đợi were detained for two days for distributing flyers at a poetry reading raided by the authority. In 2005, the culture department blocked their performance at the Goethe Institute in Hà Nội.

In 2011, Bùi Chát was awarded the IPA Freedom to Publish Prize “for his exemplary courage in upholding the freedom to publish.” He was arrested on his return to Việt Nam after receiving the award in Buenos Aires and detained for several days.

Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.

Ways to die | Bùi Chát

Hoạ sĩ Noah Bùi kí hôm khai mạc. Cảm ơn em Hoàn Bùi Vẫn còn "Đang trôi"... -- Sketch of Bùi Chát by Noah

poem by Bùi Chát
translation by Nguyễn Thị Phương Trâm

Vietnamese people prefer to die standing
Of course. Better than to live one’s life on one’s knees
If I had a choice

I really don’t want to die standing [1]
I don’t want to drown either [2]
I don’t want to die like I’m in a movie [3]
Nor do I want to die in agony [4]
I don’t want my dying to go on and on forever [5]
nor do I want to die as though it’s just my next meal [6]
I don’t want to die flying [7]
nor do I want to die too quickly either [8]
I don’t want to just die and that will be that [the end.] [9]

Because after all, as a poet
You must know how to nurture the ability
To live and die in limbo

Assembling

[1] Even though my poetry is straightforward very firm and straight actually
[2] In the same boat with those half-asleep
[3] Someone will waste their time searching
[4] Ignore those starved for attention scavengers of emotions
[5] When will I come? I will never know for sure
[6] To die daily, satisfied by death fully
[7] To the rise and fall moans(of ecstasy)
[8] Probably not the right Feng Shui
[9] According to the dictionary, death means You’re Fucked

Cách chết


Người Việt thích chết đứng
Dĩ nhiên. Hơn sống quỳ
Một khi phải lựa chọn

Tôi thật không muốn chết đứng [1]
Tôi cũng không muốn chết chìm [2]
Tôi không muốn chết như phim [3]
Và không muốn chết bồi hồi [4]
Tôi không muốn chết dài dằng dặc [5]
Tôi không muốn chết như cơm bữa [6]
Tôi không muốn chết bay lên [7]
Tôi không muốn chết không kịp ngáp [8]
Và không muốn chết là hết [the end.] [9]

Bởi dẫu sao, là một nhà thơ
Bạn phải biết cách nuôi dưỡng khả năng
Sống và chết lơ lửng

Ráp nối

[1] Dù thơ tôi ngay và rất thẳng
[2] Cùng xuồng bọn mắt lim dim
[3] Ai đó uổng công đi tìm
[4] Mặc bầy cảm xúc ăn hôi
[5] Biết ngày nào về? Thì tôi chưa chắc
[6] Chết hàng ngày, chết ngon miệng
[7] Bay xuống bay lên như một tiếng rên
[8] Phong thủy có lẽ không hạp
[9] Theo từ điển chết là Đệt [Death]


Bùi Chát is the poet, writer, publisher and artist’s pen name. Bùi Quang Viễn was born on October 22, 1979, at Hố Nai, Biên Hòa, Đồng Nai Province, Việt Nam. Born to family of patriotic Catholic refugees from the North in 1954.

Graduated in 2001 from the Faculty of Literature, Linguistics, and Journalism of Hồ Chí Minh City University of Social Sciences and Humanities. Bùi Chát named and cofounded Nhóm Mở Miệng (Open Mouth Group) with the poet and writer Lý Đợi, promoting Graveyard & Garbage Poetry.

Nhà Xuất bản Giấy Vụn (Scrap Paper Publishing House), also founded by Bùi Chát, distributions of xerographically structured sensitive works by “pavement poets”. In 2004, Bùi Chát and cofounder Lý Đợi were detained for two days for distributing flyers at a poetry reading raided by the authority. In 2005, the culture department blocked their performance at the Goethe Institute in Hà Nội.

In 2011, Bùi Chát was awarded the IPA Freedom to Publish Prize “for his exemplary courage in upholding the freedom to publish.” He was arrested on his return to Việt Nam after receiving the award in Buenos Aires and detained for several days.

Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.

Ngưu Lang | Nguyễn Thị Minh Ngọc

Nguyễn Thị Minh Ngọc. foto by Tino Cao.

truyện ngắn Nguyễn Thị Minh Ngọc
Nguyễn Thị Phương Trâm dịch

[a body of work in progress – unedited]

Ngưu Lang

Thế là, như mơ, tôi đứng giữa những người đàn bà và cả đàn ông khác màu da, tiếng nói. Ðêm đầu ở một nước lạ, dường như để dễ nhận ra, ai cũng kiếm những bộ cánh đặc biệt của mình. Những diễn viên của một nhà hát thổ dân Úc chúi vào nhau cười rúc rích, da mốc trắng lên vì trời lạnh, hệt như những người dân tộc tôi vẫn gặp hồi nhỏ ở Pleiku. Một phụ nữ có gương mặt như Phật, trang phục Trung Quốc của bà khiến ai cũng muốn gợi chuyện nhưng rồi lại thất vọng vì bà không biết tiếng Anh mà người thông dịch của bà thì lại chưa đến được. Những người Nam Hàn và Bắc Hàn lạnh lẽo nhìn nhau. Cô gái Nhật, sau một hồi nói chuyện về Kobo Abé, đưa danh thiếp cho tôi, mới hay cô ta là đại biểu đến từ Mỹ.

Ấn tượng đầu tiên của tôi ở Úc là thành phố Adelaide đẹp, nhiều người tốt. Nhưng có lẽ vì thời tiết quá lạnh và thức ăn lạ miệng nên cơn nhớ nhà cồn cào nổi lên khi về đến phòng riêng. Việc đầu tiên là gọi cho Liên đang ở cách đó hàng ngàn cây số, nhưng Liên sẽ nhắn cho những bạn khác. Và sau đó là điện thoại tới tấp của Quang, của Vũ, của Khiêm, của Philip, của Phượng và Bằng, của Dung và Lân. Ðứa nào cũng rủ tôi sau hội nghị ở lại chơi thêm vài tuần vì biết rồi có dịp nào sang đây nữa không. Nghe tôi kêu phải về để chuẩn bị cưới chồng, Quang cười dòn, hỏi phải vẫn cái ông “Mười năm luôn gặp mà tình không cũ?” Tôi đính chính mười một năm ba tháng hai ngày rồi. Giọng ngậm ngùi của những bà vợ, phê bình tôi cái gì cũng được, chỉ dở tệ đường chồng con. Mãi đến lúc không giờ, hẹn mai trò chuyện tiếp.

Khoảng ba giờ, chuông điện thoại reng. Tôi nhấc lên, bên kia đầu dây là tiếng khóc. Tiếng khóc của một người con trai trong đêm khuya nghe như đến từ một cõi khác. Tôi bật đèn, những bức hình đang cười toe quanh tôi như một tương phản lạ. Chúng tôi được phân về ở những ký túc xá sinh viên. Họ đang nghỉ hè. Chủ phòng tôi đang ở để nguyên cả mọi thứ tranh ảnh, sách báo, đàn, giày. Có đến cả phút, tiếng khóc ngưng. Rồi một giọng nói lạ vọng lên:

“Tôi là Phiêu!”

Hiểu rồi! Trước khi tôi sang Úc, Châu có nhờ tôi tìm xem Phiêu giờ sống ra sao, nhờ vậy mà không có số điện thoại lẫn địa chỉ. Châu dặn cứ cho biết Phiêu hồi xưa ở Việt Nam thường đóng những vai như Hamlet, Othello, Khuất Nguyên, Từ Hải v…v… Hồi nãy tôi có nhờ Quang, Quang nói biết tên này, sẽ nhờ người phăng ra. Trái đất nhỏ thật. Trước khi tôi lên máy bay, Châu còn dặn, nếu Phiêu hỏi Châu sống ra sao cứ nói rằng sống được. Rồi thôi! Ðừng cung cấp thêm một chi tiết nào nữa hết.

May quá, sau đó Phiêu vẫn chưa hỏi thăm gì về Châu mà dường như là một người đàn ông khác hẳn với người vừa khóc trước đó. Phiêu hỏi tôi cần gì? Thông dịch viên? Phương tiện di chuyển? Ðồ lạnh? Những địa chỉ nên đến để viết bài? Tôi kêu chỉ thèm cơm Việt Nam, nếu có rau muống dằm cà thì quá tuyệt.

Nói cho vui vậy thôi, không ngờ sau buổi họp chiều ra, nghe nhắn có hai vợ chồng ngồi đợi tôi một tiếng đồng hồ để đưa về nhà ăn cơm rau muống. Họ xưng là Ðức và Hiền, bạn của Phiêu. Tôi kéo theo Julie. Julie là tác giả vài vở kịch viết về Việt Nam, đã sang Việt Nam mấy lần, rất mê những người phụ nữ Việt Nam. Trời vài độ, chưa âm, có lẽ chưa bao giờ những cọng rau muống lúc đó với tôi lại ngon như vậy. Và mắm nữa chứ. Các thứ rau lạ quen có mặt đầy đủ, kinh giới, tía tô, rắp cá, thì là, lá to hơn nhưng hình như vị không nồng nàn bằng ở nhà. Nhất là ớt.

Julie kêu không bao giờ hiểu nổi những người Việt Nam này. Chưa gặp, chưa quen nhau bao giờ, chỉ qua vài lời giới thiệu bâng quơ trên điện thoại, lại có thể ngồi đợi cả tiếng đồng hồ, rồi kéo về nhà ăn uống chuyện trò như đã thân từ một kiếp khác. Ðức nói đơn giản vì Phiêu sống quá tốt với bạn bè nên anh cần bất cứ điều gì, chúng tôi mừng rỡ làm ngay vì rất ít có cơ hội trả ân anh. Thấy tôi có vẻ không rành lắm về Phiêu, Hiền cung cấp cho tôi một đoạn.

Vào những tháng ngày nghiệt ngã của năm 1979, cả gia đình Châu đi hết nhưng Châu ở lại vì mê nghề. Phiêu và Châu lúc ấy đang là hai diễn viên chính của một đoàn kịch mới lập. Sau một số vở thành công, đoàn lại có nguy cơ tan rã vì cả một tập thể đụng với người trưởng đoàn. Dầu được Thành Ðoàn ủng hộ, những diễn viên trụ cột vẫn bị buộc thôi việc gần hết, trong đó có Phiêu, Châu. Vác đơn đi kiện tiếp, họ dốc cả ruột gan cho người trưởng phòng tổ chức của cấp cao hơn. Sau đó, họ nhận thêm lệnh cấm biểu diễn trên địa bàn thành phố. Hóa ra, bà trưởng phòng nọ là chị họ của ông trưởng đoàn kia. Vậy là Châu giận dỗi kiếm đường sang Pháp với gia đình. Phiêu chỉ định đi tiễn bạn nhưng giờ chót Châu không đến, Người tài công tiếc một chuẩn bỏ nên kéo Phiêu đi thay. Sau một thời gian ở đảo khá dài, Phiêu tấp vào nước Úc.

Ðêm đó, khoảng hai, ba giờ, Phiêu gọi lại, lần này bắt tôi kể chuyện Sài Gòn. Tôi cứ hồi hộp sợ Phiêu hỏi tới Châu. Biết nói về Châu thế nào bây giờ khi cô đã dặn chỉ nói hai chữ thôi: sống được! Mà cũng chẳng biết lúc này Châu buồn hay vui. Chỉ thấy nó có một điểm giống tôi, lúc nào cũng ở tư thế hùng hục làm việc như một con điên. Ðời riêng cũng chẳng vui gì. Anh bồ hiện tại khá tốt, chỉ phải tội mê đánh bạc hơn mê Châu. Tôi đã từng chứng kiến những đêm dài, những dịp cuối tuần, cô diễn viên ngôi sao này phải ngồi dài cổ đợi.

Những ngày sau tôi bớt nhớ nhà, bớt thấy lạnh có lẽ nhờ công việc túi bụi và một phần nhờ những người bạn tốt của tôi và của Phiêu. Có một đêm:

“Xin lỗi vì chỉ gọi được cho chị vào giờ này. Chị vừa đi xem Hamlet về phải không? Xưa ở Việt Nam đã có lúc tôi đóng vai Hamlet. To be or not to be? Giờ này Hamlet đang lột sò ở Melbourne. Lột hay không lột, đó là vấn đề!”

Tiếp theo là một tràng cười, nghe buồn hơn tiếng khóc hôm nọ.

“Nói chuyện khác đi Phiêu, những chuyện khác nơi Phiêu đang sống”.

“Ðám bạn của chị giao cho tôi nhiệm vụ thuyết phục chị ở lại chơi vài tháng. Tôi đang kiếm xe chạy qua đó đưa chị đi chơi”.

“Không được, tôi đã quá lớn tuổi rồi. Mãi mới được một người chịu làm đám cưới với mình sau khi ở đây về, không thể bỏ qua dịp may hiếm có đó”.

“Trễ mươi ngày có sao đâu, nếu người ta thương chị thật”.

“Tôi đã trễ hơn mười năm rồi. Nhưng mà nè, sao cậu không về?”

“Tôi sợ!”

“Bao nhiêu người đã về chơi không làm cậu an tâm sao?”

“Tôi chỉ sợ một điều: Châu không được hạnh phúc”.

“Giả sử như vậy, thì cũng có phải lỗi của cậu đâu?”

“Ráng ở lại đi, dù chỉ một tuần. Ít ra, được gặp chị, tôi cũng thấy đỡ nhớ Việt Nam”.

Ngày chuyển từ Adelaide sang Canberra, máy bay ngưng vài tiếng ở Melbourne, tôi không định bước ra ngoài nhưng cô tiếp viên đến cho biết có người cần gặp tôi bên ngoài. Tôi chạy thật nhanh ra, cứ nghĩ không biết Vũ, Hằng hay Nghiêm, Toản thì đã thấy thấp thoáng cuối đường tấm bảng ghi tên tôi kề một khuôn mặt lạ. Tôi hỏi phải Phiêu không? Hắn gật đầu, nắm chặt tay tôi kéo đi. Tay tôi và tay hắn đều nằm trong găng êm nhưng nghe đau lắm. Tôi đùa:

“Cậu không định bắt cóc tôi chứ?”

“Nếu chị là Châu, có thể tôi sẽ. Nhưng nghe chị nói tội quá. Ðợi mãi mười năm mới kiếm ra người chịu cưới mình”.

“Bây giờ đi đâu?”

“Ði sắm vài món đồ lạnh cho chị”.

Tôi đứng khựng lại:

“Thôi Phiêu, tôi đang bị những cái áo như cái mền của bạn cậu đưa ám ảnh. Vừa mới gởi trả lại xong”.

“Vậy thì đi uống nước!”

Căn phòng toàn kính. Hoa khô và những cỏ thơm chất đầy ở góc phòng. Những chiếc máy bay xòe cánh ngoài kia lấp lánh sáng tối. Những người dị chủng tới lui lao xao, thầm thì, xa lạ. Miệng tôi cảm giác đắng khi nghe Phiêu hỏi:

“Sao mãi đến hôm nay chị vẫn chưa chịu nói rõ cho tôi biết đời sống hiện tại của Châu? Tôi có biết cô ấy đang là một diễn viên nổi tiếng, nhưng còn mơ hồ lắm về đời riêng. Hẳn là cô ấy đã lấy chồng? Hẳn là cô ấy đang hạnh phúc?”

Tôi giữ đúng lời hứa với Châu là không nói gì ngoài hai chữ “sống được”. Rồi mở to mắt nhìn Phiêu. Ðọc đi, hãy đọc trong mắt tôi những lời không nói được. Châu những đêm một bóng ngồi đợi người đàn ông chưa được gọi là chồng. Châu ngồi co ra dưới mưa dầm bán vé số. Châu diễn kịch hài, kịch bi, lúc khóc, lúc cười. Châu tươi cười nhận hoa tươi ngập tay từ những người hâm mộ. Châu những đêm diễn xong lang thang không biết về đâu. Châu kể chuyện tiếu lâm gây cười suốt chuyến xe lưu diễn. Châu mệt nhoài thiếp ngủ, mặt trong veo thanh thản như đang được ngủ giấc cuối cùng. Và cạnh đó, song song tồn tại với Châu, người trưởng đoàn năm nào cũng thăng tiến trên con đường quan chức. Ông ta vẫn tiếp tục thay thủy thủ đoàn không thương tiếc để còn được nắm chắc tay lái của chiếc thuyền bị tấp vào một dòng sông kiệt nước từ lâu…

Soi lại bóng mình trong đôi mắt nhỏ, thanh, dài sắt của Phiêu, bỗng nhiên tôi nhớ lại bạn xưa Trâu Nước. Ðó là một trong những người bạn mà khi mất đi bạn mới thấy thiệt thòi biết bao khi không còn anh ta bên cạnh, mặc dầu lúc anh ta còn lẽo đẽo bên cạnh để chìu chuộng những điều trái tính trái nết của bạn thì bạn chỉ thấy vướng víu làm sao.

Melbourne đang là đêm và cái cảm giác bềnh bồng trên mây vẫn còn vây bọc lấy tôi. Ở Việt Nam bây giờ đang là chiều. Và còn chỗ ở của Trâu Nước lúc này, chẳng biết có thấy được trăng không? Hay mặt trời đang lặn, mọc? Chúng tôi ngồi yên lặng, đối diện nhau như vậy với những lời không nói được ứa tràn ngập mắt. Cho đến khi tiếng loa báo chiếc máy bay của tôi chuẩn bị bay tiếp, Phiêu mới rút hai tay ra khỏi găng, đặt trên bàn:

“Ở Việt Nam, đôi tay này thường để khảy đàn, tuốt gươm khi đóng Roméo, Hamlet… Sang đến đây thì chai dầy đi vì nhiều thứ khác: làm farm, lột sò, lái xe, phục vụ nhà hàng, may vá, bấm computer…”

Tôi cũng rút một tay ra khỏi găng để bắt tay Phiêu, nghe nhịp thổn thức trên đường đi của máu trong bàn tay nháp, nóng. Thời tiết bên ngoài nghe nói đã sụt vài độ, dưới không.

Sau đó, ở những thành phố khác của Úc, vẫn có những người bạn của Phiêu chăm sóc tôi mọi mặt nhưng Phiêu không gọi điện thoại cho tôi sau lúc không giờ nữa. Một chiều ở Canberra, một người bạn gái của Phiêu, Noel, đưa tôi lên một đỉnh núi trông xuống thành phố là đà trong mù sương. Noel kêu thích Phiêu lắm nhưng không hiểu nổi những nóng, lạnh bất chợt của bạn mình. Cô đọc cho tôi nghe những bài thơ của Phiêu mà tôi đều thấy thấp thoáng dáng của Châu.

Xa tít xa, ở một đỉnh núi khác, là chiếc tháp truyền hình nổi tiếng của Canberra. Bỗng tưởng như có tiếng quạ đen ríu rít xoãi cánh làm cầu. Và từ chiếc lồng thủy tinh trên tháp ấy bước ra một ả Chức, lướt trên Ô kiều, băng băng chạy đến với chàng Ngưu. Họ sẽ làm gì, đầu tiên, khi lại được chạm vào nhau, trên đầu những con quạ đen tốt bụng đó? Tôi nhắm mắt. Dường như không đương nổi sức nặng của hai người, chiếc cầu quạ gãy. Dường như không thắng nổi sức hút của lòng đất, họ rơi, theo chiều thẳng… Nhưng hãy cố xoay ngang, để thấy họ đang trôi…

*

Khi tôi rời Úc, người ta đưa cho tôi một tờ giấy của Phiêu vừa fax tới:

“Dầu muốn dầu không, Châu cũng là Miss Sài-gòn đối với tôi từ những ngày trước đến nay. Qua chị, tôi thấy một Sài gòn năng nổ, sống động nhưng vẫn còn nhiều phức tạp và vẫn chưa xóa được đâu những gì đó hoài nhớ trong mình. Qua mắt chị, tôi thấy Châu xưa đã bớt là hiện tại.

Cám ơn chiếc áo dài, cám ơn cái bắt tay… để tôi an tâm lên núi làm farm.

Hãy gởi thiệp cưới cho tôi khi có dịp. Ðể tôi còn một duyên cớ, trở về…”

*

Hơn nửa năm, sau khi từ Úc trở về, tôi vẫn chưa gởi được thiệp cưới cho Phiêu. Người chuẩn bị làm bạn đời của tôi khá thân với người đang sống chung với Châu. Hằng đêm, họ vẫn gặp nhau ở một câu lạc bộ vui chơi, nơi có những khuôn mặt đam mê hốc hác. Ðiểu này xảy ra có lẽ phần lớn do những người phụ nữ như Châu và tôi. Chúng tôi đã không giúp được cho bạn mình xóa hẳn cảm giác cô đơn. Chúng tôi không thích hợp trong vai những người vợ bình thường. Và càng không được như Chức Nữ, mỗi năm, được nắm lấy hạnh phúc thật của mình, dù chỉ một lần, trên nền quạ đen muồi bên dưới, và trong những cơn tầm tả mưa ngâu.

1994

Just like that, like a dream, I was standing amongst men and women of different colour skin, language. The first night in a strange country, as though to recognise how easy it was, for anyone to find their special wings. In the Indigenous Australian theatre the performers were huddled together laughing, skin pale and blue due to the cold, no different to the people I met in Pleiku when I was small. A woman with a face like Buddha, her Chinese attire encouraged conversation followed by disappointment because she couldn’t speak English and her interpreter was late. People from North and South Korea coldly stared at each other. A young Japanese woman, after sometime on the topic of Kobo Abé, gave me her card, and it turned out that she was a delegate from the United States.

My first impression of Australia was Adelaide, a beautiful city and its kind inhabitant. I missed home as soon as I got back to my hotel room perhaps because of the extreme cold and unfamiliar cuisines. First thing was to call Liên, who was a thousand miles away, but Liên will message our other friends. And the first call was followed immediately by a call from Quang, Vũ, Khiêm, Philip, Phượng and Bằng, then Dung and Lân. They all asked me to stay a few weeks after the conference since there might never be another opportunity for us to see each other again. Hearing that I had to go home to straight away to prepare for my imminent wedding, Quang burst out laughing, asked if it was the same guy “Fifteen years side by side and all that loving is just as new?” Eleven years three months and two days I corrected him. In the wistful tone of a wife like any other wife, I can accept all criticism, except for when it comes to children and marriage. The watch clocked zero hours, talk more tomorrow.

The phone rang at three. I picked up, on the other end of the line were sobs. The surreal sound of a man crying in the middle of the night felt as though it came from another world. I turned the light on and surround me was the odd contrast of smiling photographs. We were assigned to rooms in the student dormitories. They were on their summer holiday. The owner of my room had all kinds of art photographs, magazines books, musical instruments, shoes, personal affects on display. The crying did not stop for a whole minute. An unfamiliar voice spoke up:

“I’m Phiêu!”

It was suddenly clear! Before my trip to Australia, Châu asked me to check on Phiêu, without giving me an address or phone number. Châu impressed that Phiêu when he was in Vietnam he had roles like Hamlet, Othello, Khuất Nguyên, Từ Hải v…v… I did also just now asked Quang about him, Quang said the name was familiar and said he’ll pass it down the grape vine. It’s a small world. Before taking my flight, Châu reiterated, if Phiêu ask tell Phiêu that I’m fine. That’s it! Don’t add a modicum of anything else.

Lucky, so far Phiêu had not asked about Châu and he seemed as though he was a completely different man to the one who had been crying. Phiêu asked if I need anything? A translator? How are you getting around? Do you need someone to drive you? Warm clothes? Places you should go to get inspiration to write? I said I just miss Vietnamese food, “rau muống dằm cà” would be perfect.

I was joking, but after a meeting, I was told a couple have been waiting for me for almost an hour, they wanted to take me home for “rau muống dằm cà”. Đức and Hiền, the couple were friends of Phiêu. I dragged Julie along. Julie is the author of a couple of plays about Vietnam, Julie have been to Vietnam a couple of times, she adored Vietnamese women. A couple degrees not quite minus, the morning glory had never tasted better. Fish sauce included. An abundant assortment of unfamiliar to familiar vegetables, kinh giới, tía tô, rắp cá, dill, the leaves were bigger but the flavours were just as amazing as those back home. Especially the chilies.


Director Nguyễn Thị Minh Ngọc, born 5 August 1953 in Bà Rịa, Vietnam. She graduated from stage directing in 1980, trained as an actor at the Ho Chi Minh City School of Theater and Cinema and Tran Huu Trang Theater. She was a student of director Nguyen Tuong Tran (second generation disciple of Konstantin Stanislavski), trained as a cải lương performer with People’s Artist Phung Ha, and she trained many renowned native and international drama and cải lương artists like: Meritorious Artist Huu Chau, Huu Nghia, Hong Dao, Quang Minh, Meritorious Artist Huu Quoc, Meritorious Artist My Hang, Luong My, Mai Lan, Hoa Hiep, Xuan Trang, Thanh Phuong.

She taught the subjects of Screenwriting, Drama Theory and History of Vietnamese Theatre at several colleges and universities, co-founded the Experimental Directing Club (1985), staged about 30 traditional and contemporary plays, wrote about 70 traditional and contemporary plays for the stage and about 30 scripts for cinema, hundreds of episodes for television, several research works on theatre and reformed opera, attended many festivals, seminars, composed and researched on theatre and education in the country and in Australia, England, France, Germany, Tanzania, Norway, Sweden, Philippines, USA, Indonesia, and was the stage personality of the year 2004 voted by Vietnam Television.

She was an actress for the stages: 5B Vo Van Tan, Idecaf… The roles that the audience remembers: Otilia, The Chicken Raising Girl & The Old Girl (Du Luan Quan Chung), Aunt Ba Kim Duyen (Ngoi Nha Khong Dan Men), Grandma (Cau Dong), Grandma Ca & Grandma To Gia (Long Dang Do Cao), Grandma (Tam Nguoi Dan Ba), Crazy Audience (Thuong Hoai Ngan Nam), Grandma Hanh Ngo (Mot va cua toi?). The most recent role was Grandma Vu in the MV Tan Vo with Dam Vinh Hung and Nhan Phuc Vinh.[1] The performance “The Last Romantic” is a 60-minute solo performance made up of ten tragicomic monologues that Nguyen Thi Minh Ngoc used to illustrate her talks about theater at universities in and outside the country.

In addition, she is also a member of the Writers, Theater, and Cinema Associations, and is one of the 20 outstanding writers of Ho Chi Minh City selected by the Ho Chi Minh City Writers Association.

She is the first Vietnamese woman to bring Vietnamese works to the off-off Broadway stage in New York as an author, director and actress, including: Lost Woman (2008) and We Are… (2011). She was selected as the highlight of the Vietnamese International Film Festival (VIFF) in the US (2007).

In addition to documentaries about Nguyen Thi Minh Ngoc produced by VTV, HTV, Binh Duong, and Long An television stations, in 2015, director Hung Phuong made the documentary “Nguyen Thi Minh Ngoc – The Treasure Keeper of Gold and Jade” 19’36” long and won first prize in the “I Preserve Beauty” contest.


Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.

BÙI CHÁT

Bùi Chát . photography by Duc Tran

poem inspired art by Bùi Chát
translation by Nguyễn Thị Phương Trâm


Bùi Chát is the poet, writer, publisher and artist’s pen name. Bùi Quang Viễn was born on October 22, 1979, at Hố Nai, Biên Hòa, Đồng Nai Province, Việt Nam. Born to family of patriotic Catholic refugees from the North in 1954.

Graduated in 2001 from the Faculty of Literature, Linguistics, and Journalism of Hồ Chí Minh City University of Social Sciences and Humanities. Bùi Chát named and cofounded Nhóm Mở Miệng (Open Mouth Group) with the poet and writer Lý Đợi, promoting Graveyard & Garbage Poetry.

Nhà Xuất bản Giấy Vụn (Scrap Paper Publishing House), also founded by Bùi Chát, distributions of xerographically structured sensitive works by “pavement poets”. In 2004, Bùi Chát and cofounder Lý Đợi were detained for two days for distributing flyers at a poetry reading raided by the authority. In 2005, the culture department blocked their performance at the Goethe Institute in Hà Nội.

In 2011, Bùi Chát was awarded the IPA Freedom to Publish Prize “for his exemplary courage in upholding the freedom to publish.” He was arrested on his return to Việt Nam after receiving the award in Buenos Aires and detained for several days.

Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.