NSW, Australia. Photography by Nguyễn Thị Phương Trâm
A poem in Vietnamese by Quách Thoại Translation by Nguyễn Thị Phương Trâm
Suddenly I’m full of dread Screaming and mournful is my soul today I want to embrace Embrace the Sun, spin the earth Cloak it in the circling light Gosh! the brilliant dawn over the horizon Making of my life My dreams O humanity! My palms embracing each other My head lower in prayer When things are hard we beg and we borrow That bit of love that binds us A world of blooming flowers A lifetime fresh fruit Spring couldn’t possibly be asleep The world is sinking into the viciousness of the sunset Now people, what have you done Why am I so anxious Budding destruction within advancement I beg your pardon, but I didn’t know A bus just fell off the side of the highway The patrons together with it fell They died Mother earth cut open Gosh! the agony and lines of separation Which is the path towards Great Unity How could there be such a storm Angry lighting toppling the stronghold of generations Anguish and silent pain The responsibility of being human In their hands is the peril of civilizations Thought it was hope and it turned out to be despair No! No! I will still wait and see God! – God almighty! – God! – God almighty! This whole life can’t be a game Gosh! The devil and angels They are all the same Dawn and lonely dusk The anxious minutes of the day People born to the world with both of theirs hands severed With no chance to hold onto their mind or their head Where will the mournful voices and cries go to bed One bomb just a few more bombs Gosh, what will happen to these unattainable principles To justify the words in the Bible Calling is the end of the world upon the setting of the sun A shiver in place of a pitiful end A shiver in place of the last breath upon death Gosh! the inevitable death who would have thought death was inevitable Naked is humanity without a God Hand in hand in this miraculous progress Upon the dying day came the penetrating darkness Tormented nights and an inevitable life of sin Night turning up to face the setting of the sun upon the death of humanity Light O light! O infinite thirst Infinite longing
Chiều tận thế
Sao ta bỗng giật mình lo ngại quá Hồn ta rên la than khóc hôm nay Ta muốn ôm, ôm lấy mặt trời ngày Xoay trái đất cho giáp vòng ánh sáng Ôi! Bình minh một trời xuân chói rạng Là cuộc đời ta những ước mong thay Loài người ơi! ta chắp cả hai tay Đầu cúi lạy, ta nguyện cầu nho nhỏ Vì khổ đau ta phải cần xin xỏ Chút tình thương buộc chặt giữa người người Và hoa tươi và trời hỡi hoa tươi Trái tốt đẹp cho muôn đời vũ trụ Có lẽ đâu thời xuân xanh đi ngủ Thế giới chìm trong ác lặn hoàng hôn Người làm chi ta nghe dạ bồn chồn Trong tiến bộ đã có mầm tiêu diệt Xin lỗi người, nào tôi đâu có biết Một chuyến xe vừa mới rớt trên đèo Những hành khách đã phải chết rơi theo Và Mẹ đời hình cưa thân mổ xẻ Ôi! đau đớn là những đường chia rẽ Tìm đâu ra những lối đến đại đồng Có lẽ đâu trời sẽ nổi cơn giông Rồi sấm chớp xô lâu đài thế hệ Đau thương, đau thương dường vô kể Liệu loài người sẽ quyết định chi đây Văn minh rồi nguy hiểm nắm trong tay Tưởng hy vọng ngờ đâu thành tuyệt vọng Không! Không! tôi vẫn hãy còn trông ngóng Chúa Trời! – Chúa Trời! – Chúa Trời! – Chúa Trời! Cả cuộc đời không lẽ chỉ trò chơi Ôi! ma quỷ và Thánh Thần lẫn lộn Sáng hôm nay chiều hoang sơ hỗn độn Đã gặp nhau cùng trong một buổi ngày Người ra đời bèn bị chặt hai tay Không ôm kịp lấy đầu hay trí óc Kể vào đâu những lời than tiếng khóc Một quả bom chỉ vài quả bom thôi Ôi thôi rồi chủ nghĩa với xa xôi Chỉ minh chứng một lời kinh Thánh nói Chiều tận thế tưởng chừng như réo gọi Rùng mình thay cho thảm cảnh cuối cùng Rùng mình thay cho cái phút lâm chung Ôi! mệnh hệ ai ngờ đâu mệnh hệ Loài người nay trần truồng không Thượng Đế Dắt nhau đi trong tiến bộ diệu kỳ Ngày tàn rồi bóng tối đến lâm ly Đêm u khổ vào cuộc đời tội lỗi Đêm đã đến chiều nhân gian hấp hối Ánh sáng ơi! khao khát đến vô cùng
—– Nguồn: Phạm Thanh, Thi nhân Việt Nam hiện đại (quyển hạ), NXB Sống Mới, 1959
Quách Thoại (1930-1957) Born Đoàn Thoại in Hue, Vietnam. He loved Tagore from an early age, at 18 he left for Saigon as a freelancer for newspapers like Đoàn kết, Làm dân. Within two years became the General Secretary for Nguồn sống.
Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.
blanket me with the salt of the land my bullet wound steeped in the salt where I land stings the flesh the bone stings those who lay down their life tides drowning out the graves
the mangroves have never been so quiet claiming the sea for a thousand year through the storm not a day of peace for the people of this land in the reedsdefending land and country
the living welcoming the dead out of canoes take those who lay down their life to their graves streams and deserted paths through the jungle enough dead soldiers home to make a village
sea and mangrove as far as the eye can see hungry waves and starving winds mangrove roots spelling out the names of the fallen the harden heart of humanity in wood
pools of paint like tears in each letter as though in each other’s eyes see each other swells of tears over rows of tombstone there are those without a home in Cà Mau!
NGHĨA TRANG TRONG RỪNG ĐƯỚC
Ðắp cho anh nấm đất mặn nơi này Nơi anh ngã muối ngấm vào vết đạn Xót thịt xót xương, xót người nằm xuống Thủy triều lên nấm mộ cũng ngập chìm
Rừng đước này chưa bao giờ lặng im Lấn ra biển suốt ngàn năm bão táp Người đất này chưa một ngày bình yên Sống lau lách cả trăm năm giữ đất
Người còn sống đi đón người đã khuất Xuống ghe đưa các anh về nghĩa trang Từ hoang vắng mọi ngả rừng, gốc rạch Các anh về đây ở thành xóm thành làng.
Mút mắt là biển khơi và rừng đước đại ngàn Cồn cào gió và cồn cào sóng vỗ Gốc đước già tạc mộ chí cho anh Có đá của lòng người trong thớ gỗ.
Hàng chữ đọng sơn như mắt người ứa lệ Như mắt người nhìn nhau Như lời ai rơm rớm trên hàng hàng bia mộ Có những người không quê ở Cà Mau!
(Năm 1977) (Tác giả: Nguyễn Duy)
Nguyễn Duy, a vietnamese poet.
Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.
James Cases, photography by Nguyễn Thị Phương Trâm
18, That day Hitler died(1945) Saigon fell(1975)
You were born kid(1999) A pale baby, Your heritage, the isles of Philippines
Born on the island of Australis Skin deepened In the land of giant birds
A smiling baby Brooding young youth To shouldering the world
You are just 18: Much to learn Ego to earn Infinite paths
You are but 18.
Happy birthday kid. [A poem for James Cases 2017]
Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.
A poem in Vietnamese by Quách Thoại Translation by Nguyễn Thị Phương Trâm
I had a little sister She was fifteen The apple of my eye In one lonely afternoon she died On a pile of unburied corpses A war torn wasteland of burning dead bodies Upon her discarded body I wept: “This can’t be the body of my little sister, the apple of my eye?” The fields unexpected reply: “She was cut down by the sword There was a lot of blood Before her last breath, her hands were clasped together Her chin was held high as she faced the setting Sun That was when they chopped her head off Before she could say another word But my dear sir the people who captured her were many But my dear sir the people who carried these blades were many But my dear sir the people who read aloud the verdict were many But my dear sir the people who did the eulogy were also many But my dear sir the people who wanted to chopped her head off were also many But my dear sir the people who were setting things on fire were also many But my dear sir, do you understand these people at all sir In order for any kind of resolution we need to know who they were Because when it’s your turn it’s you they will burn My dear sir I want to remind you again Before she died her hands were clasped together Her chin was held high as she faced the setting Sun When her head was being chopped off Before she could say another word.”
Người em gái
Ôi tôi có một người em gái Tuổi mới mười lăm Mà tôi vẫn quá thương yêu Đã chết một chiều rất cô liêu Bên cạnh những thây ma Trên cánh đồng hoang giặc giã Người cháy thiêu Mà tôi đã tìm thấy xác Và tôi than: “Phải chăng đây người em gái mà tôi vốn quá thương yêu?” Cánh đồng bỗng trả lời: “Phải rồi lúc bị chém Máu chảy rất nhiều Phải rồi trước khi chết Cô ta chắp tay ngó lên mặt trời chiều Phải rồi lúc bị chặt đầu Trước sau cô ta không nói được một điều Mà thưa ông người bắt cô ta thì rất nhiều Mà thưa ông người cầm dao thì rất nhiều Mà thưa ông người đọc bản án thì rất nhiều Mà thưa ông người tán thưởng cũng rất nhiều Mà thưa ông người cắt cổ cũng rất nhiều Mà thưa ông người hoả thiêu cũng rất nhiều Mà thưa ông, ông có hiểu những người đó Là ai không để mà tính liệu Vì đến lượt ông rồi ông cũng sẽ bị chúng nó thủ tiêu Thưa ông tôi xin nhắc lại Trước khi chết cô ta chắp tay Ngó lên mặt trời chiều Và lúc bị chặt đầu Trước sau cô ta không nói được một điều.”
—– Nguồn: Giữa lòng cuộc đời, Tạp chí Văn nghệ xuất bản, Sài Gòn, 1962
Quách Thoại (1930-1957) Born Đoàn Thoại in Hue, Vietnam. He loved Tagore from an early age, at 18 he left for Saigon as a freelancer for newspapers like Đoàn kết, Làm dân. Within two years became the General Secretary for Nguồn sống.
Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.
Thơ Lê Vĩnh Tài Translation by Nguyễn Thị Phương Trâm
“your name missing from the sea calls you home…”
1. “your name missing from the sea calls you home…” but instead of calling that one person the sea calls forth an aging civilization wheezy & senile
you see that I’m drifting like a breathless lullaby the last of humanity’s symphony
clouds after clouds pulling each other along without the refrain verses of a song across the sky after a century of war revolutional and counter-revolutional ideologies hollow promises like seashells sunbaking in the sun
your thoughts about angels were much like your thoughts about what’s missing from the sea vast once upon a time now just a sound crashing waves and delusions
2. once upon a time, angels were messengers of God the sea also a messenger of the origin, of the infinite, of silence
now the angels have lost their vernacular sea lost its green hue novels lost turned history angels lost because of bleeding verses of poetry slogans are all that’s needed by humanity
angels searching for humanity as though they’re searching for their lover “Is it worth living in such a world?” a question like an old song drifts away, salty, soaked by the rain soaked by the tears beyond its expiry date
but humanity no longer has the ability to reply since in the reply faith is a requirement now at the bottom of the ocean actors acting as boat people acting as lovers acting at seminars as though they have never starved, been close to death or dying Trùng Dương on the verge of a romantic outburst
but after a thousand years of history the vernacular is nothing but the clanking of empty cans at some beach in the dark forgettable people
the dumb searching for the deaf the deaf searching for the blind the blind searching for who? no one knows
the sea knows the sea always knows but sea can’t be bothered with a reply
3. the sea placing the stethoscope on its chest not to listen to its heart beat but history
history sound like soft murmurs like the long sigh of someone just waking up after a long fight to a point where no one remembers why
a sound as sad as Trịnh but as sharp as Nguyễn and as cold as the lastest population estimate unfathomable number of human bodies when floods follows the correct “procedure” when human life is no different to mental arithmetic
philosoplers claiming “humans are an end in themselves” but history claiming “humans are the means” as life in a whisper say “humans are the unexpected cost”
echoes like crashing waves crashing against eroding banks of sand enough about angels more should be said about the people but the people are now on the other side of memory who are these people?
these inventors of a nation to then bury such a nation under a mountain of debt these inventors of community to then destroy such a community with exhausting individualism inventing fire to set fire to the jungle travelled to the moon and yet on earth the poor continues to sleep in the shadow of history
Trịnh sang once: “humanity curled up like animals in winter” and history continues to justify itself with the political winters that will never dissolve
4. like the songs drifting in the night out at sea the angels have lost their messages remain is the sea quietly, tired, patient beholding the words we will dare not say
as we continue to hang around as though we’re the author of humanity’s last song the truth appears as quietly as the moon would late into the night us both for each other angel and sacrifice
if there’s a rebellion worth singing about then it’s a rebellion against the smooth ruthlessness that humanity has to get used to like the salty taste of the sea
and each day that we are able to get over it get washed up into the forbidden zone of our humanity the way waves get washed up on an eroding sand bank
5. the sea in the dark tonight lies there like a wound not sure who was at fault a million reasons for the sea to be sad it remembers that it was green once waves soothing gently edges of the horizon torn apart like exhausted lovers knocking on a memory we have dropped somewhere
we follow the shoreline as though we are following the length of history each wave is a century and each century in our hand is each salty lick of a wave
once upon a time, the sea was where the gods delivered their blessings in present time, the sea is where humanity delivers its transgression
not once did the sea speak up but its silence is the forgotten verse Trịnh had left behind on a beach in the dark the shadow of humanity from so many centuries ago he waits not for war waits not for peace waits not for a single promise from history he waits merely for the easing of his sadness a night when he can sleep and not dream of tidal waves
he understands that the sea will always come home when humanity may not a voice as gentle as chalk dust as sad as a wave disappearing all revolution in the end wants to find a place where humanity may be human the sea heard what was said but it will not reply while the waves retreat into the distance like a long sigh
the waves said: freedom is the fate of humanity and yet tonight the sea said: freedom is something humanity tend to drop as they running away from themselves
the sound of the sea is as clear as the sound of a person when it’s near, when it’s far when it’s earnest to the point that it could burn and blister when it’s lonely to the point of weeping
“your departure hereafter, your name missing from the sea calls you home” and the sea thought: if humanity were to leave the sea forever will the sea call humanity home?
or is the sea too tired, all it wants to do is sleep? sleep through the centuries where humanity continues to fail on how to care for each other
I bent down, picked up a shell it’s empty, but the sound in it sounds like angels void of messages washed up here
the sea is just a witness to what is missing from the sea everything missing from the sea including what humanity wants to forget
these are the words of a song not reserved for the next generation it is reserved just for the sea the last entity to miss humanity
BÀI TRƯỜNG CA CỦA BIỂN TRONG LỒNG NGỰC
1. “Biển nhớ tên em gọi về…” nhưng thay vì gọi về một người biển gọi về một nền văn minh đã già đã cạn hơi đã mất trí nhớ
bạn thấy tôi đang trôi như người hát ru đứt hơi buổi hòa nhạc cuối của loài người
những đám mây kéo nhau đi như những câu hát không còn điệp khúc trôi qua bầu trời sau cả một thế kỷ chiến tranh các chủ nghĩa cách mạng và phản cách mạng những lời hứa bị rỗng như vỏ ốc phơi khô
bạn nghĩ về các thiên thần như nghĩ về biển nhớ ngày xưa mênh mông giờ chỉ còn lại âm thanh va đập sóng và ảo tưởng
2. ngày xưa, thiên thần là thông điệp biển cũng là thông điệp của khởi nguyên, của vô tận, của lặng im
giờ đây thiên thần đã lạc ngôn ngữ biển thì lạc màu xanh tiểu thuyết lạc thành lịch sử những câu thơ ứ máu lạc thiên thần con người chỉ cần khẩu hiệu
các thiên thần tìm con người như tìm người tình cũ “Thế giới này còn đáng sống không?” câu hỏi như câu hát cũ trôi dạt, đầy muối mặn, đầy mưa đầy những giọt nước mắt đã quá hạn
nhưng nhân loại không còn khả năng trả lời vì muốn trả lời, người ta phải tin vào một thứ đã chìm dưới đáy đại dương những vai diễn thuyền nhân vờ yêu nhau giả vờ hội thảo như chưa bao giờ đói, chết hay bị thương trùng dương đang cương lên cơn lãng mạn
nhưng ngôn ngữ sau nghìn năm lịch sử chỉ còn tiếng va đập của vỏ lon trên bờ biển mỗi đêm của những người đã quên
người câm tìm người điếc người điếc tìm người mù người mù tìm ai? không ai biết
biển biết biển luôn luôn biết nhưng biển không còn muốn trả lời
3. biển đặt ống nghe lên ngực không phải nghe những nhịp tim mà câu chuyện thuộc về lịch sử
lịch sử là tiếng rên khe khẽ như tiếng thở dài của người vừa tỉnh dậy sau cuộc chiến dài đến mức quên tên
tiếng ấy buồn như Trịnh nhưng sắc như Nguyễn và lạnh như báo cáo số lượng dân số những thân xác vô hình khi những cơn lũ vẫn cứ đúng “quy trình” khi người ta xem mạng người như số học
những triết gia nói rằng “con người là mục đích tự thân” nhưng lịch sử lại nói rằng “con người là phương tiện” còn cuộc sống thầm thì “con người là chi phí phát sinh”
những âm vang như tiếng sóng đập vào bờ cát đã xói mòn nói về các thiên thần như vậy đủ rồi hãy nói về nhân dân nhưng nhân dân đã qua bên kia bờ ký ức nhân dân là ai?
là những người phát minh ra quốc gia và chôn nó dưới núi nợ là người phát minh ra cộng đồng và phá tan bằng chủ nghĩa cá nhân mệt mỏi phát minh ra lửa chỉ để đốt rừng đi tới Mặt Trăng nhưng ngay trên mặt đất những người nghèo vẫn nằm ngủ dưới bóng của lịch sử
Trịnh từng hát: “người nằm co như loài thú khi mùa đông về” và lịch sử tiếp tục chứng minh bằng những mùa đông chính trị không bao giờ tan
4. như tiếng hát trôi trên biển đêm thiên thần đã mất thông điệp chỉ còn lại biển âm thầm, mỏi mệt, bất chấp ôm lấy những điều ta không dám nói
khi chúng ta tiếp tục loanh quanh như người viết ca khúc cuối của nhân loại sự thật hiện ra im lặng như trăng khuya chúng ta vừa là thiên thần và là kẻ hiến tế cho nhau
nếu có cuộc nổi loạn nào đáng để hát thì đó là nổi loạn chống lại sự trơn tru tàn nhẫn mà loài người phải quen như quen vị mặn của biển
và mỗi ngày, ta bước qua nó trôi vào vùng cấm của chính nhân tính mình như sóng trôi vào bờ cát đang tan
5. biển đêm nay nằm như một vết thương không còn nhớ ai đã gây ra một triệu nỗi buồn của biển biển chỉ nhớ mình đã từng xanh tiếng sóng vỗ vào mép bầu trời rách ra như người tình mệt mỏi gõ cửa một ký ức mà ta đã đánh rơi
chúng ta đi dọc bờ biển như thể đang bước dọc lịch sử mỗi con sóng là một thế kỷ và mỗi thế kỷ trôi qua để lại một vết muối mặn liếm trên tay
ngày xưa, biển là nơi thần linh gửi xuống phước lành ngày nay, biển là nơi con người gửi xuống tội lỗi
biển chưa từng cất tiếng nhưng chính sự im lặng của biển một ca khúc Trịnh bị bỏ quên trên bờ biển đêm một bóng người từ bao nhiêu thế kỷ anh ta không chờ chiến tranh không chờ hòa bình không chờ bất kỳ một lời hứa nào từ lịch sử anh ta chỉ chờ nỗi buồn tan bớt để có thể ngủ một đêm không mơ thấy sóng thần
anh ta biết biển vẫn trở về còn con người thì không giọng nhẹ như bụi phấn buồn như một con sóng vừa tan mọi cuộc cách mạng rốt cuộc đều muốn tìm một chỗ để con người được làm người biển nghe câu ấy và không trả lời nhưng sóng biển lùi xa như tiếng thở dài
những con sóng nói: tự do là số phận của con người nhưng đêm nay biển thì thầm: tự do là thứ con người luôn đánh rơi trên đường chạy khỏi chính mình
tiếng biển rõ như tiếng của một người lúc gần, lúc xa lúc tha thiết đến bỏng tay lúc cô độc đến muốn khóc
“Ngày mai em đi, biển nhớ tên em gọi về…” và biển nghĩ: nếu nhân loại rời biển mãi mãi liệu biển có gọi về không?
hay biển mệt rồi, biển chỉ muốn ngủ? ngủ qua những thế kỷ mà loài người vẫn chưa học được cách yêu nhau
tôi cúi xuống, nhặt một vỏ sò nó rỗng, nhưng âm thanh trong đó giống như tiếng những thiên thần không còn thông điệp đã trôi dạt về đây
biển chỉ là nhân chứng
biển nhớ biển nhớ tất cả cả những điều nhân loại muốn quên
đây là lời hát không dành cho thế hệ sau chỉ dành cho biển kẻ cuối cùng còn chịu nhớ về loài người
Sea, waves, photography by Nguyễn Thị Phương Trâm
6. baby, this century rising from the ashes of dreams because of a gust of wind fire and decimation
my lullaby is that long sigh a civilization that is no more green was the sea once now evident in pages of fiction
did you know baby, the philosophy of this century no one has the answer to the question pages of a book turning by itself in the wind spoke about the things where history is too tired where no one want to note or copy
truth is not something humanity is looking for anymore they look for what will not hurt them truth like roots in the wilderness trees and more trees salty and alive in memory “blanket me with the salt of the land my bullet wound steeped in the salt where I land stings the flesh the bone stings those who had lay down their life”
we holding onto this century as though we’re holding onto an orphaned child the face of millions and millions of missing people migrations are it’s teardrops in boats, through the storms in time with the footsteps tripping over each other in the street knowing not whether they’re rushing toward the future or trying to escape the past
the century sitting right up the odd night asking the simplest of questions: “why is there not a long left in humanity ?”
hearafter we will forget the nameless fights this orphaned century as painful as half a song harmonies sinking to the bottom of the sea
I want to sing to it a lullaby with the voice of a street seller this century can sleep in the end sing to it to keep it alive because it’s still a child with the burden our karma
7. softy to you baby, to the sea, I will sing souls who have not found a home I will tell you about those who were left behind in the history of humanity after the longest withdraw
they don’t want to live off the sun since the sun is nothing but a memory embers were the source of their survival smoulders deep in the earth as though the last glimmer of life lies in death
embers sustained them history like a book with its first page ripped out and lines across the last page in disarray footnotes and question marks without an answer
did you know baby this century light reserve just enough ember to light the way for each other
since too much light can burn us and we have chosen embers a kind orphaned light without a keeper in windy nights we huddle together the way people long ago learn how to let go of a world that was falling apart without lost of identity
some were once wariors now knows off by heart the harmony how to put children to sleep with their lullaby because easy was murder because leaving each other alone was harder
some are poets out of touch at the time now just as out of touch but humanity in the end need to sing need a song to confirm their existence so they hold on to him even when his poems no longer rhymes just heavy breathing like wind through abandoned homes
you can say baby that they are weak but they are the last proof that humanity can still have light when there’s nothing left to set on fire
in their shadows from afar see in each one of them a sadness as beautiful as a song so sad that it can be turn into something call hope because only those with sadness can remember what it’s like to be human
baby, those who live off embers innovation is beyond them they simply hold on to each other so they won’t fall off the edge of the world
sometimes, it’s as simple as that born heroes and the whispers of the sea out there no one can quell the light of such embers they know how to remember each other
8. tonight on a hill where they erect the tombstones breeze through the rows and rows of trees as though through the husky throat of a century
from damp soil, grass as soft as songs as soft as memory lullabies used to put a nation to sleep through a war through peace, through hope and afternoons no one can remember each person turning up quietly one at a time as though they do not want themself to wake up
those who have called upon their name to settle with the realization that all those names as they say are no more
they turn up not to cry they’re here to listen since only in silence humanity can hear the right questions it wants to ask
each person with the burden of a name gathered in a circle as in ritual from the centre of the circle, rise a song “one lover after the other they leave us like small rivers”
herein rise in a song each one of us in the circle as though to remember one thing very much like a name not a name on their ID card but the name their mother’s used to call them while they’re in her arms, the name they’ve lost dropped somewhere at the market in the crowd
a little girl claimed the fragility of my name an elderly woman echoed through a toothless smile mine is much the same
night it is full of these names in the dark returning slowly a name standing in front of a song that will never die
6. em ơi, thế kỷ này lớn lên từ tro than của giấc mơ vì bầy gió đã luồn vào đốt sạch
anh ru nó bằng tiếng thở dài của những nền văn minh không còn tiếng của biển đã từng xanh giờ chỉ còn trên những trang tiểu thuyết
em biết không, triết học của thế kỷ này là câu hỏi không người đáp trả những trang sách tự lật trong gió nói những điều mà lịch sử đã mệt không còn ai muốn chép
con người không đi tìm sự thật nữa họ chỉ tìm thứ không làm họ đau còn sự thật như đám rễ hoang sống trong ký ức rừng ngập mặn “đắp cho anh nắm đất mặn xứ này nơi anh ngã muối ngấm vào vết đạn xót thịt xót xương xót người nằm xuống”
chúng ta ôm lấy thế kỷ này như ôm một đứa trẻ mồ côi có khuôn mặt của hàng triệu người đã biến mất nó khóc bằng những cuộc di dân trên thuyền, trong bão ngay khi giữa phố đầy những bước chân không ai biết mình đang chạy tới tương lai hay thoát khỏi quá khứ
có đêm thế kỷ ngồi dậy hỏi một câu rất giản dị: “tại sao con người không còn hát?”
ngày mai chúng ta sẽ quên những cuộc chiến không tên thế kỷ mồ côi này đau như một bản nhạc bỏ dở giữa chừng mọi hợp âm đều rơi xuống biển
anh muốn ru nó bằng giọng của người hát rong cuối cùng để thế kỷ ngủ ru để nó đừng chết vì nó vẫn là một đứa trẻ mang nghiệp của chúng ta
7. anh hát khẽ thôi, cho em, cho biển những linh hồn chưa tìm được ngôi nhà anh nói với em về những kẻ còn sót lại sau cuộc rút lui dài nhất của nhân loại
họ không sống bằng mặt trời vì mặt trời chỉ còn là một ký ức họ sống nhờ những đốm tàn tro âm ỉ trong lòng đất như thể mầm sống cuối cùng lại nằm trong cái chết
những kẻ sống nhờ ánh tàn tro ấy lịch sử giống như một cuốn sách đã bị xé mất trang đầu và trang cuối ngổn ngang những đường gạch chéo những chú thích và những câu hỏi chưa có ai trả lời
em biết không một thế kỷ ánh sáng chỉ giữ lại chút tro tàn để soi đường cho nhau
vì nếu ánh sáng quá mạnh sẽ đốt cháy chúng ta chúng ta chọn tàn tro thứ ánh sáng mồ côi không thuộc về ai trong những đêm gió nổi chúng ta tụ lại quanh nhau như bầy người cổ xưa học cách rời bỏ một thế giới đang sụp đổ vẫn không đánh mất mình
có người từng là chiến binh giờ nằm thuộc lòng bản hòa tấu ru cho trẻ con ngủ vì giết nhau quá dễ còn để cho nhau yên thì mới khó
có người là thi sĩ đương thời bị xem là lạc điệu giờ vẫn lạc điệu như thế nhưng bầy người cuối cùng cần một tiếng hát để thấy rằng mình còn tồn tại nên họ giữ anh ta lại dù thơ anh chẳng còn gieo vần chỉ còn những tiếng thở như gió lùa qua những ngôi nhà hoang
em có thể nghĩ họ yếu đuối nhưng họ là bằng chứng cuối cùng rằng con người biết thắp sáng ngay cả khi không còn gì để đốt
từ xa nhìn vào bóng họ thấy trong từng người là một nỗi buồn đẹp như bài hát buồn đến mức thành một cách để mà hy vọng vì chỉ ai còn nỗi buồn mới nhớ cách làm người
em ơi, những kẻ sống bằng ánh tàn tro không làm nên cuộc cách tân nào họ chỉ giữ lấy nhau để không rơi khỏi thế giới
đôi khi, chỉ thế thôi đã là một anh hùng và biển ngoài kia thì thầm không ai tắt được ánh sáng của những tàn tro biết nhớ nhau
8. đêm nay trên ngọn đồi nơi người ta đặt những tấm bia đá gió thổi qua những hàng cây như thổi qua cổ họng của thế kỷ đã khàn tiếng
mặt đất ẩm, cỏ mọc mềm như ký ức những bài ca từng ru một dân tộc qua chiến tranh qua hòa bình, qua hy vọng và những buổi chiều không ai còn nhớ mỗi bóng người đến một cách lặng lẽ như thể họ không muốn đánh thức chính mình
những người từng gọi tên mình rồi một ngày nhận ra tất cả những cái tên ấy không còn
họ đến không phải để khóc đến để nghe vì chỉ trong im lặng con người mới nghe được những câu hỏi thật của mình
mỗi người mang theo một cái tên quây thành vòng tròn như một nghi lễ từ giữa vòng tròn, một giọng hát cất lên “từng người tình bỏ ta đi như những dòng sông nhỏ…”
và khi câu hát cất lên từng người trong vòng tròn như nhớ lại được một điều rất giống cái tên nhưng không phải tên trên chứng minh thư mà là tên mẹ gọi khi ôm họ vào lòng tên mà họ đánh rơi giữa chợ đời chen lấn
một cô bé bỗng nói tên tôi là mong manh một bà lão đáp lại bằng nụ cười không còn răng tên tôi cũng vậy
đêm nó đầy ắp những cái tên đang từ từ quay trở lại một cái tên khi đứng trước một bài ca không bao giờ chết
Phú Quốc, Việt Nam. Photography by Nguyễn Thị Phương Trâm
9. baby, listen a dazzling city once like the imaginative mind of humanity in its youth
the glass windows used to reflect those intimate moments now blurry under a layer of dust intersections eyewitness to people in a rush to be in time for work, be in time to love each other, in time to break up now nothing but puffs of grey smoke stretched out as though memory is being buried alive
but there’s still a bright light a lonely flame in a room on the third floor paint peeled wall peeling pieces of disappointment of the twenty first century that can not be healed
the window still opened, breaths of the wind carries with it the sound of a distant sea lingered echoes of a song the days humanity still cared for each other help those in need
baby, you ask: this flame, who lit it? all I can do is shake my head maybe it was the first person who left left it burning because they forgot to blow it out maybe it’s a soul wanting to leave a sign for thoses to come also maybe it is destiny denying darkness its victory
that flame choking the way mother’s caution is caught in her throat during each yearly flood where’s there’s light there’s still a way to come home
for those from the jungle those from the sea those who had given up from the East those with nothing to lose from the West could altogether call what’s over there home
that night, the first person to step through the door was not a hero not a philosopher just a very sad soul looking for somewhere to sit down to catch their breath and sing
then through the door was the second then third person “the welcome embrace of trees and mountain visit, the booby traps and machetes…”
no one said any thing no one said any thing they simply sang in that dim weak light as though they all had an understanding the only thing they need to keep safe was not their life but their humanity already as fragile as a piece of paper but still as pure as a verse of a song sang in the middle of the day gleaming blue steel
that was when I understood dear love: that flame there, it was not waiting for redemption nor was it waiting for a miracle or a change in history it’s waiting only for one thing: It’s waiting for evil doers to feel the shame of their actions feel sad when they see the pain of blood and skin colour of other people other than them
10. we understand that declarations begins always with light
it only ends with the things people cannot straight away see sentences hanging in the square each time a new ideal is born the call for freedom written in a tone of an edict
the declaration written with bare arms and read in a thick husky voice of those who once upon a time had too much faith in big dreams
“Us that is what is left of us declare that we have no faith in declaration.”
because we inderstand all the big stuff must be announced in a soft voice resolution is unnecessary when it comes to kindness strategy does not equate to caring it’s simply a hand reaching out at the right time
we believe in the small things a glass of water for a stranger a shelter from the rain a timely apology
we chose to withdraw so we won’t step on each other
someone asked: “you guys think you can change the world with gentleness?”
11. we meet the people sitting around mending the sky
they’re not saints not poets, philosophers or heroes just ordinary people sick from waiting for a miracle from someone else
they sit waiting on the roof in the flood crumbling bell towers bridges to nowhere holding onto nothing but old songs and the glimmer of old memories
they asked: the sky did not tear by itself the hole in the ozone layer is man made they bend over, pick up the humanity’s sorrows a forgotten war an unofficial migration a misplaced promise of peace the death of a love in infancy the last look between two people the blameless card dealt
all picked up by them, wiped clean placed in the empty spots across the horizon as though they’re stars someone accidently dropped
one of them looked up we’re mending the sky so it won’t fall on the children who will definitely come this way
another person added we’re mending the sky because no one lifts their chin to look up anymore
the last person said we’re mending the sky because if we do not, the night will swallow all of us whole
I watched them my love, the souls who quietly worked and history will never remember them but then again for that reason it is worth the effort
sound of wind through the unmended holes cry out like the notes played on a broken keyboard attentively they listen nodding: the sky is in a lot of pain we should be more gentle
like someone’s claw marks through time each shimmering row of thread high in the sky each small thread of hope returned to the earth
you asked my love: what will they do after they finish mending the sky?
I smiled: only then will they lie down and rest leave us with a sky though not perfect but enough to keep us warm in this orphaned century
9. anh kể em nghe một thành phố từng rực rỡ như trí tưởng tượng của con người khi còn trẻ
những cửa kính từng soi bóng các cuộc tình đã mờ lớp bụi những ngã tư từng chứng kiến người ta rất vội kịp làm việc, kịp yêu nhau, kịp bỏ nhau giờ đây chỉ còn những vệt khói xám kéo dài như ký ức bị chôn sống
nhưng một ngọn đèn vẫn sáng ngọn đèn cô độc trong tầng ba của một căn phòng bức tường bong tróc như những mảng thất vọng của thế kỷ hai mươi mốt không chữa lành
cửa sổ vẫn mở, gió thở mang theo tiếng của biển rất xa dư âm của lời ca những ngày người ta còn biết thương nhau qua cầu không rút ván
em hỏi: ai thắp ngọn đèn ấy? anh chỉ biết lắc đầu có thể của một người ra đi từ lâu nhưng quên tắt có thể là một linh hồn muốn để lại dấu hiệu cho kẻ đến sau cũng có thể là định mệnh chưa muốn bóng tối chiến thắng
ngọn đèn ấy, nó nghẹn lại như lời mẹ dặn trong mùa mưa lũ ở đâu còn ánh sáng ở đó còn đường về
cho những ai từ rừng cho những ai từ biển những kẻ tuyệt vọng từ phương Đông những kẻ không còn gì để mất từ phương Tây đều lặng lẽ được về phía ấy
tối hôm ấy, người đầu tiên bước vào căn phòng không phải anh hùng không phải triết gia chỉ là một kẻ buồn quá tìm chỗ để ngồi xuống thở và hát
thêm một người thứ hai một người thứ ba “rừng núi dang tay đi thăm, hầm chông và mã tấu…”
không ai nói gì không ai hỏi ai họ chỉ hát trong ánh sáng yếu ớt ấy như thể tất cả đều hiểu rằng điều duy nhất họ phải giữ không phải là mạng sống mà là nhân tính đã mỏng như tờ giấy nhưng vẫn đẹp như một câu hát được hát giữa trưa xanh ngời ánh thép
đó là lúc anh hiểu: ngọn đèn kia không chờ cứu viện không chờ phép lạ không chờ lịch sử thay đổi nó chỉ chờ một điều duy nhất: chờ những người còn biết xấu hổ khi làm điều ác và biết buồn khi thấy người khác đau máu đỏ da màu
10. chúng tôi đã hiểu rằng những lời tuyên ngôn luôn bắt đầu bằng ánh sáng
nó chỉ kết thúc bằng những điều người ta không chịu nhìn thẳng những hàng chữ được treo lên quảng trường mỗi lần có một lý tưởng mới chào đời những lời kêu gọi tự do bị viết bằng giọng ra lệnh
bản tuyên ngôn được viết bằng cánh tay trần và đọc bằng giọng khản đặc của những người đã từng tin quá nhiều vào những giấc mơ lớn
“Chúng tôi, những kẻ còn sót lại, tuyên bố rằng, không còn tin vào tuyên ngôn.”
vì chúng tôi đã hiểu rằng mọi điều lớn lao phải được nói bằng một giọng nhỏ nhẹ rằng tử tế không cần biểu quyết rằng yêu thương không phải chương trình chỉ đơn giản một bàn tay chìa ra đúng lúc
chúng tôi tin vào những điều nhỏ bé một chén nước cho người lạ một mái hiên trú mưa một lời xin lỗi kịp lúc
chúng tôi chọn lùi lại để không dẫm lên nhau
ai đó hỏi: “các người nghĩ thế giới sẽ thay đổi bằng sự dịu dàng sao?”
11. chúng tôi gặp họ những người ngồi vá lại bầu trời
họ không phải thần thánh không phải nhà thơ, triết gia cũng chẳng phải anh hùng chỉ là những con người bình thường đã quá mệt với việc chờ đợi phép màu từ tay của kẻ khác
họ ngồi trên những mái nhà bị ngập những tháp chuông gãy những cây cầu không dẫn đến đâu nữa trên tay chỉ có những câu hát cũ và những mảnh ký ức lấp lánh
họ nói: bầu trời không tự rách chính con người làm nó bị thủng họ cúi xuống, nhặt nỗi buồn của nhân loại một cuộc chiến bị lãng quên một cuộc di cư không ai ghi chép một lời hứa hòa bình đã mất một tình yêu chết trẻ ánh mắt lần cuối giữa hai người cái thẻ bài vô tội
tất cả đều được họ nhặt lên, lau sạch đặt vào khoảng trống của vòm trời như thể chúng là những ngôi sao kẻ nào đó lỡ đánh rơi
một người trong nhóm ngẩng lên chúng tôi vá lại bầu trời để nó đừng rơi xuống đầu những đứa trẻ thế nào cũng đi qua đây
một người khác tiếp lời chúng tôi vá lại bầu trời vì không còn ai biết cách ngẩng đầu nữa
người cuối cùng chúng tôi vá lại bầu trời vì nếu không, đêm sẽ nuốt hết chúng ta
anh nhìn họ, những người thầm lặng đang làm việc mà lịch sử sẽ không bao giờ nhớ nhưng có lẽ vì vậy nó mới đáng làm
gió thổi qua những lỗ thủng còn dang dở kêu như những phím đàn vỡ những người ấy lắng nghe, rồi gật đầu: bầu trời vẫn còn đang đau nhẹ tay hơn một chút
như móng tay ai cào vào thời gian cứ mỗi đường chỉ khâu lấp lánh trên cao là một chút hy vọng lại trở về trên mặt đất
em hỏi: rồi họ sẽ làm gì khi bầu trời đã vá xong?
anh mỉm cười: khi ấy, họ sẽ nằm xuống nghỉ để lại cho chúng ta một bầu trời dù không hoàn hảo nhưng đủ để che một thế kỷ mồ côi
Sea Cliff Bridge, NSW, Australia. Photography: Nguyễn Thị Phương Trâm
12. khi lịch sử khép lại cánh cửa họ lặng lẽ ôm mùa xuân trên tay bay ra thời gian
nhưng không ai giữ lại họ đã rời khỏi lịch sử những bóng chim từ chối bay về phương Bắc, vì biết trước gió lạnh sẽ giết chết ký ức
họ đi trong im lặng không mang theo lửa không mang theo bản đồ chỉ mang một mùa xuân nho nhỏ giấu trong khăn tay như bọn trẻ từng giấu viên bi thuỷ tinh sợ mẹ lấy mất
mùa xuân ấy, không phải là hoa không phải nắng những người không tin vào khái niệm “khai sáng” vì họ đã thấy ánh sáng cũng bị thương
như hơi ấm còn sót lại trên ghế khi bạn vừa đứng dậy họ ra ngoài lịch sử nơi không còn biến cố chỉ có khoảng trời câm lặng để văn chương không cảm thấy bị xét xử như nỗi sợ đánh thức lịch sử đang ngủ vùi dưới chân đồi
một người nói: tôi rời khỏi lịch sử chỉ vì tôi muốn yêu trở lại mà không bị ai cảnh giác
và trong ngôi làng, lịch sử có thể làm cho người khác cảm thấy bớt sợ
kỳ lạ thay chỉ cần họ thở thế giới đã bớt sợ hãi thêm một chút
đôi khi nhìn về chân trời cũ họ thấy lịch sử vẫn tiếp tục đổ máu, tranh giành, mạt sát, xây đắp, sụp đổ, rồi lại đổ máu.
họ không cần ai công nhận mình chỉ giữ lại chút hơi ấm cho loài người khi mọi thứ còn sót lại đã nguội
và lịch sử được nuôi bằng sự dịu dàng không lý thuyết được giữ bởi những người không hứa hẹn bỗng trở thành điều duy nhất sót lại khi lịch sử chẳng còn ai để ghi tên
14. khi tiếng bom vừa dứt một nhịp thở
khi khói chiến tranh vẫn còn vương trong kẽ áo
khi mặt đất vẫn âm ỉ sức nóng của những khẩu súng đã ngừng nói
vì chúng chưa chịu quên mọi người vẫn còn nhìn thấy một ngọn cỏ không cao không xanh màu xanh trọn vẹn không đứng thẳng trước gió chỉ là một sợi mỏng manh rụt rè trồi lên từ vết nứt của lớp bê tông tường thành đang cháy
nơi mà lửa đã đi qua nơi mà con người đã lùi bước nơi mà lịch sử nghĩ rằng sẽ không bao giờ có sự sống nhưng ngọn cỏ không cần lịch sử nó mọc
chính lúc ấy có người quỳ xuống bên nó để đọc bài kinh cầu nguyện lời đầu tiên "người biết yêu người"
- bài kinh của kẻ còn sống sót trở về
lạy ngọn cỏ ngươi mềm hơn mọi triết lý nhưng ngươi cũng đứng dậy nhanh hơn mọi đau thương
ngươi không biết quá khứ cũng chẳng màng tương lai nhưng ngay lúc này ngươi đã làm điều mà loài người quên mất:
cám ơn vì ngươi mọc từ nơi không ai nghĩ chẳng còn gì để mọc quê hương không chỉ là đất đai mà là sự trở lại của thứ tưởng như đã chết
ôi cỏ xanh ngươi buốt tận chân trời ngã xuống xuyên giữa ngực tan vào đất đâm chồi vẫn cỏ
- bài kinh của một đứa bé
không hiểu chiến tranh là gì nhưng hiểu nỗi im lặng của mẹ nó hỏi: cỏ ơi, chỗ này có đau không?
không ai trả lời nhưng mọi người nghe thấy đau hơn và lâu hơn
- bài kinh của người từng cầm súng
hai tai đã quen tiếng nổ và lương tâm người vẫn ngồi xuống thật chậm: - tôi đã bắn vào nơi cỏ sẽ mọc đã làm mặt đất co lại vì sợ vậy mà cỏ vẫn mọc lên mỏng manh đến mức làm tôi muốn khóc
tôi xin lỗi cho những mùa xuân tôi đã bắn hụt
tôi xin lỗi vì tôi không tin vào phép màu
nhưng nếu có phép màu thì nó như dấu phẩy màu xanh trên câu văn tuyệt vọng
họ cùng đứng quanh ngọn cỏ như đứng quanh một ngọn nến nhỏ trong tang lễ của thế kỷ
không ai hát, nhưng gió hát thay họ không ai khóc, nhưng bụi bay trong ánh sáng khiến đôi mắt đỏ lên như khóc
ngọn cỏ ơi, chúng ta đã làm rách cả bầu trời làm mục nát ký ức dập tắt mùa xuân đốt cháy linh hồn của chính mình
nếu một ngày chúng ta còn đứng lại trước một ngọn cỏ, còn biết lặng im còn biết thở chậm còn biết đưa tay chạm vào một sinh linh
và thế là trên nền đạn bom của thế giới những bài kinh cuối cùng được đọc lên không để cầu xin, không để chứng minh tất cả chúng ta đều bị thương nhưng mọi vết thương đều biết cách xanh như cỏ
12. when history closes a door they embrace the spring in their arms fly beyond time
no one holding them back they have left history behind birds refusing to fly North because they knew the cold would destroy what's left of memory
they walk away in silence without fire without a map with them they carried the smallest slice of spring wrapped in a hankerchief like the glass marbles kids used to hide worried their mothers might take it away
that slice of spring, it's not a flower not the sunlight those who do not believe in the concept of "enlightenment" since they saw that even light could be harmed
like the residual heat left behind on a chair when you stand up they have gone beyond history where there are no issues just a silence space across the sky where literature is free from judgment like the fear of waking history fast asleep at the bottom of a hill
one of them said: I left history behind only because I want to love again without people watching me
and in that village, history may have perhaps made other people feel less afraid
the oddest thing the only thing they had to do was breathe and the world feels less scary
sometimes looking back at the old sky they see history continues to spill blood struggle libel build pull down more bloodshed
they don't need acknowledgement saving just enough warmth for humanity when everything has turned cold
and history is nurtured with gentleness beyond reason held high by those who makes no promises suddenly the only thing left when history have no one left to note their name
14.
BẢN THÁNH CA DỊU DÀNG CHO NHỮNG NGƯỜI VẪN ĐANG BIẾN MẤT VÌ KÝ ỨC CHIẾN TRANH
anh viết khúc này như một lời tụng nhỏ đặt lên vầng trán của những người đã mòn đi như viên sỏi dưới chân thế kỷ
những người không chết trong chiến tranh mà chết trong những buổi chiều còn sót mùi khói những người đi lạc giữa hòa bình như đi giữa một cánh đồng bị bỏ quên
nơi từng bước chân vang lên tiếng nổ của cái quá khứ không cho họ bình yên như thể tiếng rao hôm nay của người bán hàng rong cũng thành còi báo động
như một lời kinh đọc đi đọc lại để bẻ gãy một cơn ác mộng
anh viết khúc này để trời xanh bớt lạnh khi đi qua vai họ
anh viết khúc này để biển bớt buồn khi nhìn thấy những bóng người đứng rất lâu mà không biết vì sao mình muốn khóc
anh viết khúc này như thắp lên một ngọn nến đặt giữa căn phòng đầy những cơn run rẩy ngọn nến nhỏ thôi nhưng đủ để họ biết bóng tối chưa từng thắng một ngọn lửa biết lắng nghe
và nếu chiến tranh vẫn còn đang chảy trong mạch máu của họ thì bản thánh ca này sẽ là dòng suối rửa sạch đôi bàn tay đã run lên từ quá nhiều năm không được chạm vào sự dịu dàng
anh viết khúc này cho những người đang mất dần vì ký ức chiến tranh như cát đang rơi khỏi lòng bàn tay để nói với họ rằng không ai sinh ra để tan biến không ai sinh ra để ký ức phai đi
đêm nay, bản thánh ca dịu dàng nhất được viết bằng hơi thở rất mỏng của họ, vẫn sẽ bay lên, bay lên như một lời xin lỗi muộn màng gửi tới những trái tim đã từng bảo vệ thế giới
bằng cái giá mà không ai trả lại được cho họ
không có tràng pháo tay nào vang lên chỉ có sự im lặng để những ký ức mệt mỏi được đặt xuống như balô của người lính vừa trở về sau một cuộc hành quân kéo dài cả đời
họ chỉ cần ngồi yên cho phép mình tin rằng thế giới này cuối cùng cũng chịu chậm lại để đợi họ
có người đặt tay lên ngực nghe thấy nhịp tim mình không giống tiếng súng
họ được gọi tên trong một thế giới cuối cùng, cũng học được cách lắng nghe nỗi đau mà không biến nó thành huyền thoại
Lê Vĩnh Tài, the poet and translator born in 1966 in Buon Ma Thuot, Daklak, Vietnam. The retired doctor is still a resident of the Western Highlands and a businessman in Buon Ma Thuot.
Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.
thở nhẹ nào nhẹ thôi mùi khói rạ đốt dần tuổi thơ ngây thơm phức ngày em chạy theo mây mùa em bay
[tặng các em] Cô cám ơn các em, đã dành riêng cho cô rất nhiều kỷ niệm đẹp. ❤
Cô Nguyễn Thị Phương Trâm
Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.
Thôn Diên Lão, phography Nguyễn Thị Phương Trâm
A poem in Vietnamese by Thanh Dang Translator: Nguyễn Thị Phương Trâm
You don’t have to say you are beautiful You don’t have to say you smell great Stunning the world with your dreams You ring blooming, more substantial than any Church bell
HOA
Em không cần nói em đẹp Em không cần nói em thơm Hốt nhiên trời đất đầy thơ mộng Em nở Âm dày hơn tiếng chuông
Thanh Dang, the poet from Vietnam currently resides in Houston, Texas, U. S. A.
Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.
gạo lứt khoai lang hay khoai mì trên kệ siêu thị nhứng món siêu thực phẩm và những đứa trẻ chết đói
Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.