At the airport | Lê Thanh My

Lê Thanh My

A poem in Vietnamese by Lê Thanh My
Translator: Nguyễn Thị Phương Trâm

people line up in long lines
heads down and pre-occupied with when
the plane will take off

patiently you wait for a reply
you just sent, ready
to fall apart

less than ten minutes drive away
I’m standing in the rain
told no one in particular that I
have fallen for you!

Ở sân bay

người người xếp hàng rồng rắn
họ cúi xuống
nghĩ đến lúc bay lên

anh chầm chậm xem tin nhắn đến
vừa buông
thân đã muốn đổ kềnh

em đang đứng dưới cơn mưa cách xa mười dặm
nói vào khoảng không là em đã thương!


Author Lê Thanh My, real name Lê Thị Thanh My, was born in 1966. She was born and raised in An Giang, with more than 30 years of working in the local literary and artistic environment. Starting to write in the early 90s, in 1992 her first work was a collection of poems. She has now published 10 books, including 8 poetry collections, 1 epic poem, 1 bilingual English-Vietnamese poetry collection, several of which have won awards. Since 2019, she has retired and is living in Ho Chi Minh City.

Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.

a forgotten tumulus | Lê Thanh My

Lê Thanh My

A poem in Vietnamese by Lê Thanh My
Translator: Nguyễn Thị Phương Trâm

a memory upon
a forgotten tumulus

days drowning in dreams
dry desiccated grass
budding
unfurling white light
a pristine
new moon…

trên đồi cỏ quên
và ta bỗng nhớ

những ngày bị dìm vào mộng mị
thấy cỏ khô rậm rịch đâm chồi
một đóm trắng
lập lờ nở sáng
mà trăng lòng đã mở tinh khôi…


Author Lê Thanh My, real name Lê Thị Thanh My, was born in 1966. She was born and raised in An Giang, with more than 30 years of working in the local literary and artistic environment. Starting to write in the early 90s, in 1992 her first work was a collection of poems. She has now published 10 books, including 8 poetry collections, 1 epic poem, 1 bilingual English-Vietnamese poetry collection, several of which have won awards. Since 2019, she has retired and is living in Ho Chi Minh City.

Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.

HOW TO CONFESS… | Nguyễn Thị Minh Ngọc

Nguyễn Thị Minh Ngọc

thơ Nguyễn Thị Minh Ngọc
Nguyễn Thị Phương Trâm dịch

how to confess your love and not lose it
grill other people on how to for the first time love
the unknown doors to brave new worlds
words
vernacular of the flesh
wordless gaze
forget them
run
and that includes death
and still most unfamiliar is affection
the unmet gaze of those we love
dumb anxieties may it be a mean or kind dream

ah who am I to say
to have lived this long to never again love
head first into a river called life
like a fish out of water
craving for death
the way the marriage bed had denied me
as we laugh and cry half a lifetime withered away
by the games we play
cross stitches of pride over shame and humiliation
ignoring the sting of bindii
under foot mistaking it for a lover
love came out of nowhere
over the mountains
through the ravines of a life spent
may it be life or death matter - no
the enthusiasm for oblivion

discerning the bitter struggle
smells of an impending storm
hid behind mirrors of illusions
the way storms are imprisoned
in the smallness of one's fist
as the clouds in the sky would hid
the affections reflected
a fox with nine tails abstained
from worldly interactions for 999 years
and 364 days and its tails are dripping
teary still
cunning enough to get marry
to avoid being strike down by lightning
cunning enough to get marry
as a glorify way to confess
love
regardless of a love that is not real
regardless of the agony of true pain
regardless of how harden humanity had become
in its wisdom water could still break
a misguided spirit guardian howling in the dark
enough fret to trouble the moon

LÀM THẾ NÀO…

 
Làm thế nào để tỏ tình mà tình không biến mất
tra vấn tha nhân bài học vỡ lòng yêu
Những cánh cửa đời xa lạ biết bao-
lời,
ngôn ngữ thân xác,
mắt câm,
quên nó đi,
chạy,
và cả chết…
Nhưng xa lạ nhất vẫn là tình
Người mà ta không dám ngó vào mắt khi đối diện
ngẩn ngơ lo cơn mộng dữ hay lành

Ôi ta,
sống đến đây tưởng như không bao giờ yêu được nữa
lao vào dòng sống ngày mỗi ngày
như cá lao mình khỏi nước
nhìn cái chết thèm thuồng
như nhìn chiếc giừơng cưới luôn chối từ ta
tàn nửa đời trộn cười khóc làm trò chơi
đan xéo lòng kiêu nhòa nỗi nhục
giả dại hôn ngọn cỏ châm đau mà ngỡ người tình
Chợt tình đến,
ngang tàng núi non,
lạnh lẽo huyệt thẳm
mòn sống,
thờ ơ chết,
nồng nhiệt với hư vô

Cảm được vị đắng nhọc nhằn,
mùi giông sắp đến
đành nhốt tình sau tấm gương bóng ảo chờn chờn
như nhốt bão trong lòng tay nhỏ
như vùa mây đỉnh trời che kính chiếu yêu
hồ ly tu 999 năm 364 ngày,
đuôi còn nhỏ lệ
mưu toan kết hôn chạy trốn sét trời
mưu toan kết hôn như để tỏ tình
Yêu,
bất chấp tình ảo
bất chấp nỗi đau đớn thật
bất chấp ngọc người ngàn năm tri thức tan bóng nước
Tịch tà lạc bóng
âm âm tiếng hú gợn nhàu trăng



Nguyễn Thị Minh Ngọc

Director Nguyễn Thị Minh Ngọc, born 5 August 1953 in Bà Rịa, Vietnam. She graduated from stage directing in 1980, trained as an actor at the Ho Chi Minh City School of Theater and Cinema and Tran Huu Trang Theater. She was a student of director Nguyen Tuong Tran (second generation disciple of Konstantin Stanislavski), trained as a cải lương performer with People’s Artist Phung Ha, and she trained many renowned native and international drama and cải lương artists like: Meritorious Artist Huu Chau, Huu Nghia, Hong Dao, Quang Minh, Meritorious Artist Huu Quoc, Meritorious Artist My Hang, Luong My, Mai Lan, Hoa Hiep, Xuan Trang, Thanh Phuong.

She taught the subjects of Screenwriting, Drama Theory and History of Vietnamese Theatre at several colleges and universities, co-founded the Experimental Directing Club (1985), staged about 30 traditional and contemporary plays, wrote about 70 traditional and contemporary plays for the stage and about 30 scripts for cinema, hundreds of episodes for television, several research works on theatre and reformed opera, attended many festivals, seminars, composed and researched on theatre and education in the country and in Australia, England, France, Germany, Tanzania, Norway, Sweden, Philippines, USA, Indonesia, and was the stage personality of the year 2004 voted by Vietnam Television.

She was an actress for the stages: 5B Vo Van Tan, Idecaf… The roles that the audience remembers: Otilia, The Chicken Raising Girl & The Old Girl (Du Luan Quan Chung), Aunt Ba Kim Duyen (Ngoi Nha Khong Dan Men), Grandma (Cau Dong), Grandma Ca & Grandma To Gia (Long Dang Do Cao), Grandma (Tam Nguoi Dan Ba), Crazy Audience (Thuong Hoai Ngan Nam), Grandma Hanh Ngo (Mot va cua toi?). The most recent role was Grandma Vu in the MV Tan Vo with Dam Vinh Hung and Nhan Phuc Vinh.[1] The performance “The Last Romantic” is a 60-minute solo performance made up of ten tragicomic monologues that Nguyen Thi Minh Ngoc used to illustrate her talks about theater at universities in and outside the country.

In addition, she is also a member of the Writers, Theater, and Cinema Associations, and is one of the 20 outstanding writers of Ho Chi Minh City selected by the Ho Chi Minh City Writers Association.

She is the first Vietnamese woman to bring Vietnamese works to the off-off Broadway stage in New York as an author, director and actress, including: Lost Woman (2008) and We Are… (2011). She was selected as the highlight of the Vietnamese International Film Festival (VIFF) in the US (2007).

In addition to documentaries about Nguyen Thi Minh Ngoc produced by VTV, HTV, Binh Duong, and Long An television stations, in 2015, director Hung Phuong made the documentary “Nguyen Thi Minh Ngoc – The Treasure Keeper of Gold and Jade” 19’36” long and won first prize in the “I Preserve Beauty” contest.


Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.

Message | Lê Thanh My

Lê Thanh My

A poem in Vietnamese by Lê Thanh My
Translator: Nguyễn Thị Phương Trâm

I wanted to send you a message
as the birds flew by
the scent of blooming orchids
and steamed cooked rice
but us is a thing of the past

sad letters on the keyboard
fingertips bland and bored
tapping into nothingness
the rising smoke

a message for the air
Stop with all this longing, it’s not fair!

Nhắn tin

em định nhắn tin cho anh
trên trời có bầy chim bay ngang
ngoài vườn giò lan mới nở
nồi cơm đang chín tới
chỉ chúng ta đã quá khứ rồi

con phím buồn chơi vơi
ngón tay mỗi ngày gõ vào trang thơ nhạt nhẽo
gõ vào đâu cũng linh lang như khói

em cũng định nhắn tin cho trời
xin đừng gieo thương nhớ nữa!


Author Lê Thanh My, real name Lê Thị Thanh My, was born in 1966. She was born and raised in An Giang, with more than 30 years of working in the local literary and artistic environment. Starting to write in the early 90s, in 1992 her first work was a collection of poems. She has now published 10 books, including 8 poetry collections, 1 epic poem, 1 bilingual English-Vietnamese poetry collection, several of which have won awards. Since 2019, she has retired and is living in Ho Chi Minh City.

Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.

Ngưu Lang | Nguyễn Thị Minh Ngọc

Nguyễn Thị Minh Ngọc. foto by Tino Cao.

truyện ngắn Nguyễn Thị Minh Ngọc
Nguyễn Thị Phương Trâm dịch

[a body of work in progress – unedited]

Ngưu Lang

Thế là, như mơ, tôi đứng giữa những người đàn bà và cả đàn ông khác màu da, tiếng nói. Ðêm đầu ở một nước lạ, dường như để dễ nhận ra, ai cũng kiếm những bộ cánh đặc biệt của mình. Những diễn viên của một nhà hát thổ dân Úc chúi vào nhau cười rúc rích, da mốc trắng lên vì trời lạnh, hệt như những người dân tộc tôi vẫn gặp hồi nhỏ ở Pleiku. Một phụ nữ có gương mặt như Phật, trang phục Trung Quốc của bà khiến ai cũng muốn gợi chuyện nhưng rồi lại thất vọng vì bà không biết tiếng Anh mà người thông dịch của bà thì lại chưa đến được. Những người Nam Hàn và Bắc Hàn lạnh lẽo nhìn nhau. Cô gái Nhật, sau một hồi nói chuyện về Kobo Abé, đưa danh thiếp cho tôi, mới hay cô ta là đại biểu đến từ Mỹ.

Ấn tượng đầu tiên của tôi ở Úc là thành phố Adelaide đẹp, nhiều người tốt. Nhưng có lẽ vì thời tiết quá lạnh và thức ăn lạ miệng nên cơn nhớ nhà cồn cào nổi lên khi về đến phòng riêng. Việc đầu tiên là gọi cho Liên đang ở cách đó hàng ngàn cây số, nhưng Liên sẽ nhắn cho những bạn khác. Và sau đó là điện thoại tới tấp của Quang, của Vũ, của Khiêm, của Philip, của Phượng và Bằng, của Dung và Lân. Ðứa nào cũng rủ tôi sau hội nghị ở lại chơi thêm vài tuần vì biết rồi có dịp nào sang đây nữa không. Nghe tôi kêu phải về để chuẩn bị cưới chồng, Quang cười dòn, hỏi phải vẫn cái ông “Mười năm luôn gặp mà tình không cũ?” Tôi đính chính mười một năm ba tháng hai ngày rồi. Giọng ngậm ngùi của những bà vợ, phê bình tôi cái gì cũng được, chỉ dở tệ đường chồng con. Mãi đến lúc không giờ, hẹn mai trò chuyện tiếp.

Khoảng ba giờ, chuông điện thoại reng. Tôi nhấc lên, bên kia đầu dây là tiếng khóc. Tiếng khóc của một người con trai trong đêm khuya nghe như đến từ một cõi khác. Tôi bật đèn, những bức hình đang cười toe quanh tôi như một tương phản lạ. Chúng tôi được phân về ở những ký túc xá sinh viên. Họ đang nghỉ hè. Chủ phòng tôi đang ở để nguyên cả mọi thứ tranh ảnh, sách báo, đàn, giày. Có đến cả phút, tiếng khóc ngưng. Rồi một giọng nói lạ vọng lên:

“Tôi là Phiêu!”

Hiểu rồi! Trước khi tôi sang Úc, Châu có nhờ tôi tìm xem Phiêu giờ sống ra sao, nhờ vậy mà không có số điện thoại lẫn địa chỉ. Châu dặn cứ cho biết Phiêu hồi xưa ở Việt Nam thường đóng những vai như Hamlet, Othello, Khuất Nguyên, Từ Hải v…v… Hồi nãy tôi có nhờ Quang, Quang nói biết tên này, sẽ nhờ người phăng ra. Trái đất nhỏ thật. Trước khi tôi lên máy bay, Châu còn dặn, nếu Phiêu hỏi Châu sống ra sao cứ nói rằng sống được. Rồi thôi! Ðừng cung cấp thêm một chi tiết nào nữa hết.

May quá, sau đó Phiêu vẫn chưa hỏi thăm gì về Châu mà dường như là một người đàn ông khác hẳn với người vừa khóc trước đó. Phiêu hỏi tôi cần gì? Thông dịch viên? Phương tiện di chuyển? Ðồ lạnh? Những địa chỉ nên đến để viết bài? Tôi kêu chỉ thèm cơm Việt Nam, nếu có rau muống dằm cà thì quá tuyệt.

Nói cho vui vậy thôi, không ngờ sau buổi họp chiều ra, nghe nhắn có hai vợ chồng ngồi đợi tôi một tiếng đồng hồ để đưa về nhà ăn cơm rau muống. Họ xưng là Ðức và Hiền, bạn của Phiêu. Tôi kéo theo Julie. Julie là tác giả vài vở kịch viết về Việt Nam, đã sang Việt Nam mấy lần, rất mê những người phụ nữ Việt Nam. Trời vài độ, chưa âm, có lẽ chưa bao giờ những cọng rau muống lúc đó với tôi lại ngon như vậy. Và mắm nữa chứ. Các thứ rau lạ quen có mặt đầy đủ, kinh giới, tía tô, rắp cá, thì là, lá to hơn nhưng hình như vị không nồng nàn bằng ở nhà. Nhất là ớt.

Julie kêu không bao giờ hiểu nổi những người Việt Nam này. Chưa gặp, chưa quen nhau bao giờ, chỉ qua vài lời giới thiệu bâng quơ trên điện thoại, lại có thể ngồi đợi cả tiếng đồng hồ, rồi kéo về nhà ăn uống chuyện trò như đã thân từ một kiếp khác. Ðức nói đơn giản vì Phiêu sống quá tốt với bạn bè nên anh cần bất cứ điều gì, chúng tôi mừng rỡ làm ngay vì rất ít có cơ hội trả ân anh. Thấy tôi có vẻ không rành lắm về Phiêu, Hiền cung cấp cho tôi một đoạn.

Vào những tháng ngày nghiệt ngã của năm 1979, cả gia đình Châu đi hết nhưng Châu ở lại vì mê nghề. Phiêu và Châu lúc ấy đang là hai diễn viên chính của một đoàn kịch mới lập. Sau một số vở thành công, đoàn lại có nguy cơ tan rã vì cả một tập thể đụng với người trưởng đoàn. Dầu được Thành Ðoàn ủng hộ, những diễn viên trụ cột vẫn bị buộc thôi việc gần hết, trong đó có Phiêu, Châu. Vác đơn đi kiện tiếp, họ dốc cả ruột gan cho người trưởng phòng tổ chức của cấp cao hơn. Sau đó, họ nhận thêm lệnh cấm biểu diễn trên địa bàn thành phố. Hóa ra, bà trưởng phòng nọ là chị họ của ông trưởng đoàn kia. Vậy là Châu giận dỗi kiếm đường sang Pháp với gia đình. Phiêu chỉ định đi tiễn bạn nhưng giờ chót Châu không đến, Người tài công tiếc một chuẩn bỏ nên kéo Phiêu đi thay. Sau một thời gian ở đảo khá dài, Phiêu tấp vào nước Úc.

Ðêm đó, khoảng hai, ba giờ, Phiêu gọi lại, lần này bắt tôi kể chuyện Sài Gòn. Tôi cứ hồi hộp sợ Phiêu hỏi tới Châu. Biết nói về Châu thế nào bây giờ khi cô đã dặn chỉ nói hai chữ thôi: sống được! Mà cũng chẳng biết lúc này Châu buồn hay vui. Chỉ thấy nó có một điểm giống tôi, lúc nào cũng ở tư thế hùng hục làm việc như một con điên. Ðời riêng cũng chẳng vui gì. Anh bồ hiện tại khá tốt, chỉ phải tội mê đánh bạc hơn mê Châu. Tôi đã từng chứng kiến những đêm dài, những dịp cuối tuần, cô diễn viên ngôi sao này phải ngồi dài cổ đợi.

Những ngày sau tôi bớt nhớ nhà, bớt thấy lạnh có lẽ nhờ công việc túi bụi và một phần nhờ những người bạn tốt của tôi và của Phiêu. Có một đêm:

“Xin lỗi vì chỉ gọi được cho chị vào giờ này. Chị vừa đi xem Hamlet về phải không? Xưa ở Việt Nam đã có lúc tôi đóng vai Hamlet. To be or not to be? Giờ này Hamlet đang lột sò ở Melbourne. Lột hay không lột, đó là vấn đề!”

Tiếp theo là một tràng cười, nghe buồn hơn tiếng khóc hôm nọ.

“Nói chuyện khác đi Phiêu, những chuyện khác nơi Phiêu đang sống”.

“Ðám bạn của chị giao cho tôi nhiệm vụ thuyết phục chị ở lại chơi vài tháng. Tôi đang kiếm xe chạy qua đó đưa chị đi chơi”.

“Không được, tôi đã quá lớn tuổi rồi. Mãi mới được một người chịu làm đám cưới với mình sau khi ở đây về, không thể bỏ qua dịp may hiếm có đó”.

“Trễ mươi ngày có sao đâu, nếu người ta thương chị thật”.

“Tôi đã trễ hơn mười năm rồi. Nhưng mà nè, sao cậu không về?”

“Tôi sợ!”

“Bao nhiêu người đã về chơi không làm cậu an tâm sao?”

“Tôi chỉ sợ một điều: Châu không được hạnh phúc”.

“Giả sử như vậy, thì cũng có phải lỗi của cậu đâu?”

“Ráng ở lại đi, dù chỉ một tuần. Ít ra, được gặp chị, tôi cũng thấy đỡ nhớ Việt Nam”.

Ngày chuyển từ Adelaide sang Canberra, máy bay ngưng vài tiếng ở Melbourne, tôi không định bước ra ngoài nhưng cô tiếp viên đến cho biết có người cần gặp tôi bên ngoài. Tôi chạy thật nhanh ra, cứ nghĩ không biết Vũ, Hằng hay Nghiêm, Toản thì đã thấy thấp thoáng cuối đường tấm bảng ghi tên tôi kề một khuôn mặt lạ. Tôi hỏi phải Phiêu không? Hắn gật đầu, nắm chặt tay tôi kéo đi. Tay tôi và tay hắn đều nằm trong găng êm nhưng nghe đau lắm. Tôi đùa:

“Cậu không định bắt cóc tôi chứ?”

“Nếu chị là Châu, có thể tôi sẽ. Nhưng nghe chị nói tội quá. Ðợi mãi mười năm mới kiếm ra người chịu cưới mình”.

“Bây giờ đi đâu?”

“Ði sắm vài món đồ lạnh cho chị”.

Tôi đứng khựng lại:

“Thôi Phiêu, tôi đang bị những cái áo như cái mền của bạn cậu đưa ám ảnh. Vừa mới gởi trả lại xong”.

“Vậy thì đi uống nước!”

Căn phòng toàn kính. Hoa khô và những cỏ thơm chất đầy ở góc phòng. Những chiếc máy bay xòe cánh ngoài kia lấp lánh sáng tối. Những người dị chủng tới lui lao xao, thầm thì, xa lạ. Miệng tôi cảm giác đắng khi nghe Phiêu hỏi:

“Sao mãi đến hôm nay chị vẫn chưa chịu nói rõ cho tôi biết đời sống hiện tại của Châu? Tôi có biết cô ấy đang là một diễn viên nổi tiếng, nhưng còn mơ hồ lắm về đời riêng. Hẳn là cô ấy đã lấy chồng? Hẳn là cô ấy đang hạnh phúc?”

Tôi giữ đúng lời hứa với Châu là không nói gì ngoài hai chữ “sống được”. Rồi mở to mắt nhìn Phiêu. Ðọc đi, hãy đọc trong mắt tôi những lời không nói được. Châu những đêm một bóng ngồi đợi người đàn ông chưa được gọi là chồng. Châu ngồi co ra dưới mưa dầm bán vé số. Châu diễn kịch hài, kịch bi, lúc khóc, lúc cười. Châu tươi cười nhận hoa tươi ngập tay từ những người hâm mộ. Châu những đêm diễn xong lang thang không biết về đâu. Châu kể chuyện tiếu lâm gây cười suốt chuyến xe lưu diễn. Châu mệt nhoài thiếp ngủ, mặt trong veo thanh thản như đang được ngủ giấc cuối cùng. Và cạnh đó, song song tồn tại với Châu, người trưởng đoàn năm nào cũng thăng tiến trên con đường quan chức. Ông ta vẫn tiếp tục thay thủy thủ đoàn không thương tiếc để còn được nắm chắc tay lái của chiếc thuyền bị tấp vào một dòng sông kiệt nước từ lâu…

Soi lại bóng mình trong đôi mắt nhỏ, thanh, dài sắt của Phiêu, bỗng nhiên tôi nhớ lại bạn xưa Trâu Nước. Ðó là một trong những người bạn mà khi mất đi bạn mới thấy thiệt thòi biết bao khi không còn anh ta bên cạnh, mặc dầu lúc anh ta còn lẽo đẽo bên cạnh để chìu chuộng những điều trái tính trái nết của bạn thì bạn chỉ thấy vướng víu làm sao.

Melbourne đang là đêm và cái cảm giác bềnh bồng trên mây vẫn còn vây bọc lấy tôi. Ở Việt Nam bây giờ đang là chiều. Và còn chỗ ở của Trâu Nước lúc này, chẳng biết có thấy được trăng không? Hay mặt trời đang lặn, mọc? Chúng tôi ngồi yên lặng, đối diện nhau như vậy với những lời không nói được ứa tràn ngập mắt. Cho đến khi tiếng loa báo chiếc máy bay của tôi chuẩn bị bay tiếp, Phiêu mới rút hai tay ra khỏi găng, đặt trên bàn:

“Ở Việt Nam, đôi tay này thường để khảy đàn, tuốt gươm khi đóng Roméo, Hamlet… Sang đến đây thì chai dầy đi vì nhiều thứ khác: làm farm, lột sò, lái xe, phục vụ nhà hàng, may vá, bấm computer…”

Tôi cũng rút một tay ra khỏi găng để bắt tay Phiêu, nghe nhịp thổn thức trên đường đi của máu trong bàn tay nháp, nóng. Thời tiết bên ngoài nghe nói đã sụt vài độ, dưới không.

Sau đó, ở những thành phố khác của Úc, vẫn có những người bạn của Phiêu chăm sóc tôi mọi mặt nhưng Phiêu không gọi điện thoại cho tôi sau lúc không giờ nữa. Một chiều ở Canberra, một người bạn gái của Phiêu, Noel, đưa tôi lên một đỉnh núi trông xuống thành phố là đà trong mù sương. Noel kêu thích Phiêu lắm nhưng không hiểu nổi những nóng, lạnh bất chợt của bạn mình. Cô đọc cho tôi nghe những bài thơ của Phiêu mà tôi đều thấy thấp thoáng dáng của Châu.

Xa tít xa, ở một đỉnh núi khác, là chiếc tháp truyền hình nổi tiếng của Canberra. Bỗng tưởng như có tiếng quạ đen ríu rít xoãi cánh làm cầu. Và từ chiếc lồng thủy tinh trên tháp ấy bước ra một ả Chức, lướt trên Ô kiều, băng băng chạy đến với chàng Ngưu. Họ sẽ làm gì, đầu tiên, khi lại được chạm vào nhau, trên đầu những con quạ đen tốt bụng đó? Tôi nhắm mắt. Dường như không đương nổi sức nặng của hai người, chiếc cầu quạ gãy. Dường như không thắng nổi sức hút của lòng đất, họ rơi, theo chiều thẳng… Nhưng hãy cố xoay ngang, để thấy họ đang trôi…

*

Khi tôi rời Úc, người ta đưa cho tôi một tờ giấy của Phiêu vừa fax tới:

“Dầu muốn dầu không, Châu cũng là Miss Sài-gòn đối với tôi từ những ngày trước đến nay. Qua chị, tôi thấy một Sài gòn năng nổ, sống động nhưng vẫn còn nhiều phức tạp và vẫn chưa xóa được đâu những gì đó hoài nhớ trong mình. Qua mắt chị, tôi thấy Châu xưa đã bớt là hiện tại.

Cám ơn chiếc áo dài, cám ơn cái bắt tay… để tôi an tâm lên núi làm farm.

Hãy gởi thiệp cưới cho tôi khi có dịp. Ðể tôi còn một duyên cớ, trở về…”

*

Hơn nửa năm, sau khi từ Úc trở về, tôi vẫn chưa gởi được thiệp cưới cho Phiêu. Người chuẩn bị làm bạn đời của tôi khá thân với người đang sống chung với Châu. Hằng đêm, họ vẫn gặp nhau ở một câu lạc bộ vui chơi, nơi có những khuôn mặt đam mê hốc hác. Ðiểu này xảy ra có lẽ phần lớn do những người phụ nữ như Châu và tôi. Chúng tôi đã không giúp được cho bạn mình xóa hẳn cảm giác cô đơn. Chúng tôi không thích hợp trong vai những người vợ bình thường. Và càng không được như Chức Nữ, mỗi năm, được nắm lấy hạnh phúc thật của mình, dù chỉ một lần, trên nền quạ đen muồi bên dưới, và trong những cơn tầm tả mưa ngâu.

1994

Just like that, like a dream, I was standing amongst men and women of different colour skin, language. The first night in a strange country, as though to recognise how easy it was, for anyone to find their special wings. In the Indigenous Australian theatre the performers were huddled together laughing, skin pale and blue due to the cold, no different to the people I met in Pleiku when I was small. A woman with a face like Buddha, her Chinese attire encouraged conversation followed by disappointment because she couldn’t speak English and her interpreter was late. People from North and South Korea coldly stared at each other. A young Japanese woman, after sometime on the topic of Kobo Abé, gave me her card, and it turned out that she was a delegate from the United States.

My first impression of Australia was Adelaide, a beautiful city and its kind inhabitant. I missed home as soon as I got back to my hotel room perhaps because of the extreme cold and unfamiliar cuisines. First thing was to call Liên, who was a thousand miles away, but Liên will message our other friends. And the first call was followed immediately by a call from Quang, Vũ, Khiêm, Philip, Phượng and Bằng, then Dung and Lân. They all asked me to stay a few weeks after the conference since there might never be another opportunity for us to see each other again. Hearing that I had to go home to straight away to prepare for my imminent wedding, Quang burst out laughing, asked if it was the same guy “Fifteen years side by side and all that loving is just as new?” Eleven years three months and two days I corrected him. In the wistful tone of a wife like any other wife, I can accept all criticism, except for when it comes to children and marriage. The watch clocked zero hours, talk more tomorrow.

The phone rang at three. I picked up, on the other end of the line were sobs. The surreal sound of a man crying in the middle of the night felt as though it came from another world. I turned the light on and surround me was the odd contrast of smiling photographs. We were assigned to rooms in the student dormitories. They were on their summer holiday. The owner of my room had all kinds of art photographs, magazines books, musical instruments, shoes, personal affects on display. The crying did not stop for a whole minute. An unfamiliar voice spoke up:

“I’m Phiêu!”

It was suddenly clear! Before my trip to Australia, Châu asked me to check on Phiêu, without giving me an address or phone number. Châu impressed that Phiêu when he was in Vietnam he had roles like Hamlet, Othello, Khuất Nguyên, Từ Hải v…v… I did also just now asked Quang about him, Quang said the name was familiar and said he’ll pass it down the grape vine. It’s a small world. Before taking my flight, Châu reiterated, if Phiêu ask tell Phiêu that I’m fine. That’s it! Don’t add a modicum of anything else.

Lucky, so far Phiêu had not asked about Châu and he seemed as though he was a completely different man to the one who had been crying. Phiêu asked if I need anything? A translator? How are you getting around? Do you need someone to drive you? Warm clothes? Places you should go to get inspiration to write? I said I just miss Vietnamese food, “rau muống dằm cà” would be perfect.

I was joking, but after a meeting, I was told a couple have been waiting for me for almost an hour, they wanted to take me home for “rau muống dằm cà”. Đức and Hiền, the couple were friends of Phiêu. I dragged Julie along. Julie is the author of a couple of plays about Vietnam, Julie have been to Vietnam a couple of times, she adored Vietnamese women. A couple degrees not quite minus, the morning glory had never tasted better. Fish sauce included. An abundant assortment of unfamiliar to familiar vegetables, kinh giới, tía tô, rắp cá, dill, the leaves were bigger but the flavours were just as amazing as those back home. Especially the chilies.


Director Nguyễn Thị Minh Ngọc, born 5 August 1953 in Bà Rịa, Vietnam. She graduated from stage directing in 1980, trained as an actor at the Ho Chi Minh City School of Theater and Cinema and Tran Huu Trang Theater. She was a student of director Nguyen Tuong Tran (second generation disciple of Konstantin Stanislavski), trained as a cải lương performer with People’s Artist Phung Ha, and she trained many renowned native and international drama and cải lương artists like: Meritorious Artist Huu Chau, Huu Nghia, Hong Dao, Quang Minh, Meritorious Artist Huu Quoc, Meritorious Artist My Hang, Luong My, Mai Lan, Hoa Hiep, Xuan Trang, Thanh Phuong.

She taught the subjects of Screenwriting, Drama Theory and History of Vietnamese Theatre at several colleges and universities, co-founded the Experimental Directing Club (1985), staged about 30 traditional and contemporary plays, wrote about 70 traditional and contemporary plays for the stage and about 30 scripts for cinema, hundreds of episodes for television, several research works on theatre and reformed opera, attended many festivals, seminars, composed and researched on theatre and education in the country and in Australia, England, France, Germany, Tanzania, Norway, Sweden, Philippines, USA, Indonesia, and was the stage personality of the year 2004 voted by Vietnam Television.

She was an actress for the stages: 5B Vo Van Tan, Idecaf… The roles that the audience remembers: Otilia, The Chicken Raising Girl & The Old Girl (Du Luan Quan Chung), Aunt Ba Kim Duyen (Ngoi Nha Khong Dan Men), Grandma (Cau Dong), Grandma Ca & Grandma To Gia (Long Dang Do Cao), Grandma (Tam Nguoi Dan Ba), Crazy Audience (Thuong Hoai Ngan Nam), Grandma Hanh Ngo (Mot va cua toi?). The most recent role was Grandma Vu in the MV Tan Vo with Dam Vinh Hung and Nhan Phuc Vinh.[1] The performance “The Last Romantic” is a 60-minute solo performance made up of ten tragicomic monologues that Nguyen Thi Minh Ngoc used to illustrate her talks about theater at universities in and outside the country.

In addition, she is also a member of the Writers, Theater, and Cinema Associations, and is one of the 20 outstanding writers of Ho Chi Minh City selected by the Ho Chi Minh City Writers Association.

She is the first Vietnamese woman to bring Vietnamese works to the off-off Broadway stage in New York as an author, director and actress, including: Lost Woman (2008) and We Are… (2011). She was selected as the highlight of the Vietnamese International Film Festival (VIFF) in the US (2007).

In addition to documentaries about Nguyen Thi Minh Ngoc produced by VTV, HTV, Binh Duong, and Long An television stations, in 2015, director Hung Phuong made the documentary “Nguyen Thi Minh Ngoc – The Treasure Keeper of Gold and Jade” 19’36” long and won first prize in the “I Preserve Beauty” contest.


Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.

NGUYỄN THỊ MINH NGỌC

Nguyễn Thị Minh Ngọc. foto by Lân Trần

Tác Phẩm Nguyễn Thị Minh Ngọc
Nguyễn Thị Phương Trâm dịch


Director Nguyễn Thị Minh Ngọc, born 5 August 1953 in Bà Rịa, Vietnam. She graduated from stage directing in 1980, trained as an actor at the Ho Chi Minh City School of Theater and Cinema and Tran Huu Trang Theater. She was a student of director Nguyen Tuong Tran (second generation disciple of Konstantin Stanislavski), trained as a cải lương performer with People’s Artist Phung Ha, and she trained many renowned native and international drama and cải lương artists like: Meritorious Artist Huu Chau, Huu Nghia, Hong Dao, Quang Minh, Meritorious Artist Huu Quoc, Meritorious Artist My Hang, Luong My, Mai Lan, Hoa Hiep, Xuan Trang, Thanh Phuong.

She taught the subjects of Screenwriting, Drama Theory and History of Vietnamese Theatre at several colleges and universities, co-founded the Experimental Directing Club (1985), staged about 30 traditional and contemporary plays, wrote about 70 traditional and contemporary plays for the stage and about 30 scripts for cinema, hundreds of episodes for television, several research works on theatre and reformed opera, attended many festivals, seminars, composed and researched on theatre and education in the country and in Australia, England, France, Germany, Tanzania, Norway, Sweden, Philippines, USA, Indonesia, and was the stage personality of the year 2004 voted by Vietnam Television.

She was an actress for the stages: 5B Vo Van Tan, Idecaf… The roles that the audience remembers: Otilia, The Chicken Raising Girl & The Old Girl (Du Luan Quan Chung), Aunt Ba Kim Duyen (Ngoi Nha Khong Dan Men), Grandma (Cau Dong), Grandma Ca & Grandma To Gia (Long Dang Do Cao), Grandma (Tam Nguoi Dan Ba), Crazy Audience (Thuong Hoai Ngan Nam), Grandma Hanh Ngo (Mot va cua toi?). The most recent role was Grandma Vu in the MV Tan Vo with Dam Vinh Hung and Nhan Phuc Vinh.[1] The performance “The Last Romantic” is a 60-minute solo performance made up of ten tragicomic monologues that Nguyen Thi Minh Ngoc used to illustrate her talks about theater at universities in and outside the country.

In addition, she is also a member of the Writers, Theater, and Cinema Associations, and is one of the 20 outstanding writers of Ho Chi Minh City selected by the Ho Chi Minh City Writers Association.

She is the first Vietnamese woman to bring Vietnamese works to the off-off Broadway stage in New York as an author, director and actress, including: Lost Woman (2008) and We Are… (2011). She was selected as the highlight of the Vietnamese International Film Festival (VIFF) in the US (2007).

In addition to documentaries about Nguyen Thi Minh Ngoc produced by VTV, HTV, Binh Duong, and Long An television stations, in 2015, director Hung Phuong made the documentary “Nguyen Thi Minh Ngoc – The Treasure Keeper of Gold and Jade” 19’36” long and won first prize in the “I Preserve Beauty” contest.


Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.