drink till the end | Đinh Trường Chinh

In Vietnamese by Đinh Trường Chinh
Translator: Viet Pham

A portrait of Viet Pham by Đinh Trường Chinh

vài nét
và bạn tôi, anh Việt.
Phạm Trọng Việt.

vẽ nhanh, nên tôi không vẽ ra được một Phạm Việt như nhiên.

biết nhau đã rất lâu, lâu lắm, và trao đổi riêng thường xuyên nhiều năm qua. có lẽ tôi là một (trong những) người “xúi” anh vào cõi phây bút ta bà này.

anh thường gọi tôi là sáu xu (6xu) và tôi gọi anh Phạm Thiên Mạc (một bút hiệu xa xưa bên VN của anh).

chiều nay tôi rót nửa ly rượu, cùng anh Việt. anh là một tửu đồ, như tôi. anh khen tửu lượng tôi khá . khá, với anh, nghĩa là “rất khá” 🙂

trên fb anh thi thoảng đăng tranh tôi vẽ (dĩ nhiên, không cần nói trước) và dịch đôi bài thơ, đoạn thơ qsn hạp goût anh.

anh Việt đã từng vào chùa “giảng kinh”, nghĩa là anh đã thấm nhuần “chánh niệm”, nên tôi không ngạc nhiên những chọn lựa của anh trên đời này.

ngoài kiến thức rất lớn về văn học, lịch sử (đặc biệt là chiến tranh thế chiến thứ 2 và chiến tranh Việt Nam), âm nhạc, … trên hết anh là người của gia đình đúng nghĩa. anh gọi mình là một “nông dân” , và tôi cũng là một nông dân. những người nông dân đi qua cuộc đời và lượm lặt những cái đẹp trên đường đi, giữa cánh đồng mênh mông này …

đăng lại một bài thơ dịch bởi VP:

uống hết tháng
uống hết ngày

drink till the end
of month, of day

niềm vui cùng
nỗi buồn này
cũng tan

this joy and sorrow
would go away

uống
giọt lệ lẫn
tiếng cười

drink
a laugh
and a tear

uống cái không
uống chút lười
tháng
năm

the nothingness
the laziness
month
year

uống bóng ta
giữa vách nằm

drink the shadow
on the wall

uống cơn mơ thức
sủi tăm
giữa mùa

the dreams
awakening
amid nightfall …

(thơ đtc, dịch Việt Phạm)

sketch.14.9.2025.đtc


Đinh Trường Chinh, the poet, and artist was born in 1970 in South Vietnam. The poet currently works in IT in Virginia, U. S. A.

Viet Pham, translator and poet, passed away today, September 2025.  The world will miss his compassion and sense of humour..

WHERE PEOPLE WILL NEVER UNDERSTAND | Du Tử Lê

chán. art by Đinh Trường Chinh

A poem in Vietnamese by Du Tử Lê
Translator: Nguyễn Thị Phương Trâm

where people will never understand
a gaze all but like the East sea
where the rain-the old-me were in passing
a barely established paradise

where people will never understand
hair all but like the forest trees
clouds shading the way for the canopy
and those secluded paths

where people will never understand
where someone to me is all but like a scar
nights looking down at cold idle hands
where you use to sit is now nothing

where people will never understand
where someone to me is all but like a mirror
see me dangling by the neck on a tree
with the long shadow of self pity

where people will never understand
where someone to me is all but like a dewdrop
in their heart is the red flower
the nation: I see within you

where people will never understand
where someone to me is all but like birdsongs
follow the storms settled in the street
how to forget: something you have taught me

where people will never understand
where someone to me is all but like forever young
night after night cries to sleep
for their mother far far away

where people will never understand
where someone to me is all but like so much sadness within them
knows that our heart to the end can and will still feel the cold
suffocating nihilism with waves after waves of sadness, that is so old

where people will never understand
I beg you that someone please
revive
me.

Ở CHỖ NHÂN GIAN KHÔNG THỂ HIỂU…

ở chỗ nhân gian không thể hiểu
đôi mắt người hồ như biển đông
có mưa-tôi-cũ về ngang đó
tự buổi thiên đàng chưa lập xong

ở chỗ nhân gian không thể hiểu
mái tóc người hồ như rừng cây
có mây che lối về cho lá
và những con đường thật riêng tây

ở chỗ nhân gian không thể hiểu
tôi có người hồ như vết thương
có đêm ngó xuống bàn tay lạnh
và chỗ em ngồi đã bỏ không

ở chỗ nhân gian không thể hiểu
tôi có người hồ như tấm gương
thấy tôi thắt cổ trên cành khuyết
và bóng đo dài nỗi tủi thân

ở chỗ nhân gian không thể hiểu
tôi có người hồ như hạt sương
có bông hoa đỏ chiều tâm khúc
tôi thấy từ em: một quê hương

ở chỗ nhân gian không thể hiểu
tôi có người hồ như tiếng chim
theo cơn bão rớt về ngang phố
tôi học từ em: niềm lãng quên

ở chỗ nhân gian không thể hiểu
tôi có người hồ như ấu thơ
đêm đêm khóc vụng cùng chăn gối
và thấy buồn như mẹ ở xa

ở chỗ nhân gian không thể hiểu
tôi biết người mang một nỗi buồn
biết ta cuối kiếp tim còn lạnh
cùng nỗi sầu bay đầy hư không

ở chỗ nhân gian không thể hiểu
tôi xin người sớm phục sinh tôi.


Du Tử Lê, born 1942, Kim Bang, Ha Nam, Vietnam. The poet was the author of more than 70 publications. He graduated from Saigon University of Literature, and he was an intern at a newspaper in Indianapolis, Indiana (1969). The poet died in 2019, in Garden Grove, California, United States.

Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.

A BARGAIN | Bùi Giáng

Bùi Giáng by Đinh Trường Chinh

forget about the lost causes, I must
return to the bargain at hand before I die

– Love dear! I call you home
Home dear I say! Love you are my home
now all this banter back and forth
you love stay I’ll go

I beg your pardon: – stay why
if you go I’ll go with you
I am your wife

VỀ BUÔN BÁN

Giã từ cõi mộng điêu linh
Tôi về buôn bán với mình phôi pha

– Mình ơi! tôi gọi bằng nhà
Nhà ơi! tôi gọi mình là nhà tôi
Bây giờ xuôi ngược đôi nơi
Thôi mình ở lại tôi dời chân đi

Thưa rằng: – ở cái quái gì
Chàng đi thiếp cũng xin đi với chàng


Bùi Giáng (1926-1998) was born in Thanh Châu, Duy Xuyên, the province of Quảng Nam, Vietnam. He passed away at Chợ Rẫy Hospital in Saigon, Vietnam. Self-taught at a late age in life. The prolific poet and translator were fluent in French, English, and Kanji. With many published translations like Hamlet by Shakespeare, The Little Prince by Saint Exupéry, Campus…

Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.

Trong vẻ đẹp em sẽ đi | Lord Byron

Julia Thanh Thuỷ

Tác giả: Lord Byron (George Gordon)
Trâm dịch

[tặng Julia Thanh Thuỷ]

như màn đêm trong vẻ đẹp em sẽ đi
leo những con dốc trên những làn mây
giữa bầu trời đầy sao vì tất cả những gì
tốt đẹp nhất của bóng tối và ánh sáng
sống lại trong bóng trong mắt em
mềm và dịu dàng hơn nắng
sự làm màu của ban ngày mà bầu trời mãi phủ nhận

nếu có thêm một màu một tia nắng
thì sẽ giảm đi nửa phần duyên dáng thật khó diễn tả là em
một dòng chảy một mái tóc thăm thẳm màu của trời đêm
một ánh sáng dịu dàng khuôn mặt thể hiện nào
tư duy thanh thản ngọt ngào
tinh khiết thân thương

và trên hai gò má ấy, vầng trán ấy
sự bình thản dịu dàng nhưng mãi hùng hồn
một nụ cười thuyết phục sắc thái rạng rỡ
những ngày tháng sống trong hạnh phúc
một tâm hồn đã chấp nhận tất cả
một trái tim với tình yêu trong sáng!

She Walks in Beauty

By Lord Byron (George Gordon)

She walks in beauty, like the night
Of cloudless climes and starry skies;
And all that’s best of dark and bright
Meet in her aspect and her eyes;
Thus mellowed to that tender light
Which heaven to gaudy day denies.

One shade the more, one ray the less,
Had half impaired the nameless grace
Which waves in every raven tress,
Or softly lightens o’er her face;
Where thoughts serenely sweet express,
How pure, how dear their dwelling-place.

And on that cheek, and o’er that brow,
So soft, so calm, yet eloquent,
The smiles that win, the tints that glow,
But tell of days in goodness spent,
A mind at peace with all below,
A heart whose love is innocent!


George Gordon Byron [1788-1824], Nam tước Byron đời thứ 6, là một nhà thơ người Anh. Ông là một trong những nhân vật chủ chốt của phong trào Lãng mạn, và được coi là một trong những nhà thơ vĩ đại nhất của Anh.

Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.

The old professor | Mai Thảo

Thu. Photography Nguyễn Thị Phương Trâm

A short story in Vietnamese by Mai Thảo
Translator: Nguyễn Thị Phương Trâm
[a body of work in progress – unedited]

Bài thơ hữu tả

Anh luôn đứng bên tả ngạn
em thì lì mãi bên hữu ngạn
con sông dài miên man những bài thơ
đương nhiên là lúc nào em cũng phải
không đúng sao?
——
Văn của anh Mai Thảo giàu ngôn ngữ quá đi. Cảm giác học không kịp những từ ngữ quên cả thở..
🙂

Người thầy học cũ

Y gặp lại người thầy học cũ một ngày mưa lớn. Con đê chạy dọc hữu ngạn sông Đáy chỗ đó là giữa quãng Ba Thá, Vân Đình. Đường lầy. Kẻ đi ngược, người về xuôi. Cuộc kháng chiến gian khổ thu lại trong giây phút gặp gỡ bất thình lình một nỗi tủi mừng rưng rưng và cái hình ảnh buốt lạnh của con đường dài thẳm, trùng điệp hầm hố dưới mưa bụi trắng xóa. Xa xa dấu vết những làng xóm tiêu hủy còn lại.

Hai thầy trò nắm chặt tay nhau, mưa vẫn đổ lớn – cùng chạy đến trú dưới một gốc cây. Nhiều năm tháng qua đi từ ngày bỏ trường lăn mình vào cuộc đời, bây giờ Y đã lớn, đứng cạnh thầy cao hơn thầy hẳn một cái đầu. Thầy thì tuổi già đã làm cho thân hình nhỏ lại. Nhưng giữa hai người vẫn không có sự thay đổi. Người thầy vẫn vững chãi và tự tin hơn. Thái độ gương mẫu và che chở bên trong cửa lớp ngày nào Y vẫn nhận được.

“Thầy ở đâu xuống?”

“Tôi ở Ba Thá xuống”.

“Thầy vẫn dạy học”.

Người thầy học cười hiền lành:

“Phải, tôi vẫn dạy học nhưng trường làng vừa bị bom đốt cháy chiều hôm qua. Hôm nay tôi phải về Ty báo cáo. Ty ở dưới Vân Đình. Tôi mất hết, chỉ chạy được những cái này.

Những cái này: một cái bị cói, mấy bộ quần áo nâu và một cái gậy trúc.

Y nhìn cái cơ nghiệp nhỏ nhoi vô nghĩa, những đồ tùy thân cuối cùng còn sót lại của một cuộc đời đạo đức và liên tưởng tới hai hình ảnh: vị chân tu của một thời đại nào đi truyền bá trong khổ hạnh những tư tưởng đẹp cho nhân loại và hình ảnh một con đường mưa bay, buổi chiều xuống trên liên khu rộng lớn, người thầy học cũ lại một mình bước đi trên con đường đó mang trên mớ tóc bạc cái nghề đạm bạc cao quý, mang nặng nó trong đêm tối và mưa bão.

Mưa vẫn đổ lớn. Hai thầy trò đứng sát vào nhau hơn. Thầy nhìn trò, gật đầu:

“Các anh đổi thay nhiều lắm. Trưởng thành cả rồi. Nhưng mà ở đâu và bao giờ các anh vẫn nhận ra tôi, tôi vẫn nhận ra các anh. Anh thì vẫn còn nguyên vẹn cái nhìn lơ đãng ra ngoài cửa lớp những buổi trưa mùa hạ”.

Y trả lời:

“Vâng, con vẫn thế. Con vẫn nhớ con như thế”.

Giọng thầy trầm trầm trong tiếng mưa đổ rào rào:

“Chúng ta vẫn thế”.

Đôi mắt sâu của thầy nhìn xuôi theo con đường dài, qua màn mưa về tận cuối đường, xa hơn cái xa của cuối đường:

“Chiến tranh đổi thay hình thể những ngả đường trên đó chúng ta đi. Tất cả trở nên khó khăn cực nhọc và chua xót hơn cũ. Những ụ đất. Những hầm hố. Những chiếc cầu đổ. Hình như mưa bão cũng nhiều hơn”.

Và thầy thở dài:

“Chúng ta là những con người cũ đang tập đi trên những con đường mới”.

Rồi thầy quay lại hỏi:

“Còn anh, bây giờ anh làm gì?”

“Thưa thầy con đi buôn”.

“Đi buôn?”

“Con bỏ học từ sau Cách mạng tháng Tám. Thuyền hàng của con chắc bây giờ đang ngược dòng đi lên ở giữa khoảng Rót Rét. Con sẽ đón thuyền ở vùng Bương Cấn và nếu đêm nay ngớt mưa sẽ đi thẳng tới Phú Thọ”.

Người thầy “Thế à” một tiếng nhỏ rồi không nói gì nữa. Tính thầy vẫn ít nói. Mưa ào ào trên đầu. Trước mắt họ dòng sông Đáy đục đỏ chảy đi hung dữ. Bãi xa mịt mùng bên kia. Người học trò đứng lùi lại phía sau và nhìn thấy sát tầm mắt, những sợi tóc bạc gió thổi lay tạt trên khuôn mặt mà trông nghiêng vẫn đựng đầy cái vẻ trầm lặng cũ, những ngày xưa nhìn xuống Y trên một nền bảng đen. Những kỷ niệm những hình ảnh của một lớp học vừa trở về lướt thướt và buốt lạnh trên khoảng đường này. Những chùm hoa mùa hạ đỏ chói chang trên góc cửa sổ, sự hé mở của những giấc mộng ban đầu nở từ những chùm hoa rực rỡ ấy, nhịp bồng bềnh đẩy đưa của tâm hồn chạy đến những chân trời những thế giới hoang vu. Cánh bướm mỏng của niềm rung động mới. Những tấm kính sáng trong. Tiếng giảng bài trầm trầm đi giữa hàng ghế. Tà áo thâm và cái đỉnh mũ trắng. Những bực gạch mưa làm mòn cạnh đi lên từng cửa lớp. Lối kiến trúc cổ kính của một mái trường xây cất trên nếp thành đổ nát cũ lượn vòng giữa những hàng cây và những ao đầm. Thành phố ở dưới với tiếng hú dài của một tiếng còi tàu kéo theo những vệt khói còn treo lâu trên nền trời. Ý niệm thứ nhất về không gian trong chuyến đi tưởng tượng. Vụ hè sắp tới thấp thoáng hình ảnh con đường mất hút dưới nắng.

*

Y nhớ thầy đã về sau một buổi tựu trường có nhiều thuyên chuyển. Cũng một buổi sáng mưa lớn. Có tiếng giày từ ngoài hành lang đi tới. Thầy vào, đứng lại một giây nhìn mọi người, nói: “Chào các anh”, đoạn đi thẳng lên bục cao. Giờ học thứ nhất được dành cho sự làm quen nhau. Người thầy bày tỏ nỗi vui riêng sau mười mấy năm ở rừng được đổi về một trường thành phố.

Thầy nói: “Trường cũ ở sát biên giới Hoa – Việt, học trò nửa Kinh nửa thiểu số. Trên ấy đêm rừng dài và buổi sáng nào cũng dầy đặc sương trong lớp học vừa mở cửa. Rừng thì trùng điệp ở chung quanh. Sân trường đôi khi còn in những dấu chân thú dữ. Và rét thì rét ghê rét gớm. Các học trò chân tay cũng cóng buốt và mặt mũi xám tái lại. Phải đóng kín cửa cho hơi nóng truyền đi một lúc sau mới làm việc được”.

Hình ảnh của một lớp học biên giới được gợi lên bằng giọng nói đặc biệt trầm trầm. Cái lối kể chuyện của thầy cũng khác. Và ngay lập tức, trong số bốn mươi lăm học trò chăm chú lắng nghe, từ một chỗ ngồi tận đáy lớp nhìn lên, Y cảm thấy mến yêu ngay người thầy học mới. Một nỗi mến yêu đặc biệt chưa từng có. Tưởng như một khám phá, một đổi thay lớn.

Trong một cuộc đời học trò, từng năm học đi lên, mỗi năm lại gặp một người thầy, nhưng trong tất cả những người thầy đó, thường vẫn chỉ có một người mà về sau lúc đã giã từ cửa lớp, ở mãi chỗ sâu xa cách biệt trong cuộc đời, mỗi lần nhớ lại là người học trò lại nhớ trước nhớ ngay đến người thầy ấy. Tại sao? Có thể vì một nét mặt, một giọng nói, được khắc sâu hơn vào dĩ vãng. Có thể vì một sự bắt buộc nào đó, trừu tượng và siêu hình, khiến cho tương quan tình cảm vượt khỏi mức bình thường, chứa đựng một ý nghĩa rộng lớn hơn.

Bài luận đầu tiên của Y được nhiều điểm nhất lớp. Một sự lạ. Ba hôm sau khi thầy trả bài, gọi đến tên, ngợi khen và mỉm cười bảo Y hãy đọc cho cả lớp nghe một đoạn văn hay, Y đứng dậy, tờ giấy trên tay run run và giây phút đó đã là cả một dấu son rực rỡ trong cái lịch sử học trò của Y từ trước đến nay vốn rất tầm thường tăm tối.

Y lười và lơ đãng. Trên tất cả các môn học, điểm số bao giờ cũng ở dưới cùng. Một sự đội sổ toàn diện. Suốt đời Y nhớ mãi cái giờ học lịch sử ấy của một tên học trò đội sổ ngồi tối tăm ở cuối lớp, lần đầu đứng lên ngượng nghịu, hồi hộp đọc cho cả một lớp im sững thán phục cái thành công thứ nhất của đời mình. Ngồi xuống còn cảm động.

Cả lớp không tìm hiểu được nguyên nhân sự đổi thay đột ngột này. Chính Y cũng không hiểu. Y đã viết bài luận ấy cho một người xem, nó là cái biểu tỏ cụ thể của một tình cảm chân thật và tốt đẹp gửi đến cho một người thầy đã tả được một cái trường học biên giới bằng “những dấu chân thú dữ” và “sương trắng dầy đặc cửa lớp buổi sớm”.

*

Mưa vẫn đổ lớn.

Buổi chiều như đã muốn đến từ bãi sông bên kia. Trời thấp và xám. Con thuyền đầy hàng ngược dòng ở giữa khoảng Rót Rét bồng bềnh trong ướt lạnh còn là điểm vui ấm bé nhỏ so với tâm sự của người thầy mất trường, không biết sẽ về một nơi nào trong mưa bay.

Hai người cùng cúi đầu suy nghĩ. Thầy nói:

“Anh vừa nói hiện anh đi buôn đấy nhỉ?”

“Dạ”.

“Các anh làm thật nhiều nghề. Mỗi người một đường. Cuối tháng trước tôi có gặp một anh không rõ đã học tôi năm nào, làm khẩn hoang ở một đồn điền Nho Quan. Vùng ấy lam chướng, nước độc, rất có hại cho sức khỏe. Trông anh ta xanh yếu đáng ngại. Cứ như anh đi đây đi đó trên một con thuyền, có lẽ lại hay hơn”.

“Kể thì mấy năm nay, từ ngày ra trường con chưa từng có dịp được đi nhiều, thấy nhiều như bây giờ. Nhưng nghề buôn không phải là một chí hướng thích hợp. Nhiều lúc con vẫn cảm thấy đang làm một việc vô ích”.

Người thầy đáp:

“Tôi biết. Nhưng chúng ta bây giờ thường vẫn phải làm ngay cái việc nhìn thấy trong tầm tay với mà không có quyền từ chối, lựa chọn. Thế hệ các anh biết bao nhiêu người hiện đang đứng lạc vị trí, băn khoăn tìm đường. Ở tuổi các anh thật đau đớn. Chúng tôi thì không nói làm gì. Nhiều lúc cực nhọc vất vả, tôi vẫn thầm cảm ơn trời còn cho mình được cầm cái thước kẻ giảng bài. Tôi làm gì khác được nếu thôi dạy học?”

Thầy cười khẽ:

“Thói quen của nghề nghiệp đấy: Thấy các anh là hỏi về dự định vào đời. Không thích đi buôn, anh muốn làm gì?”

“Có một lần trong giờ luận, thầy nói đùa con có thể trở thành nhà văn, con vẫn ao ước thực hiện được câu nói đùa ấy”.

“Thế ư! Tôi không nhớ nữa, nhưng nếu có nói thì nói thực đâu phải đùa. Phải rồi, Việt văn là môn học xưa kia anh ham thích nhất”.

Giọng thầy trở nên ân cần:

“Cố gắng đi. Biết đâu chẳng một ngày tôi được đọc văn của một người học trò cũ là anh. Niềm an ủi lớn nhất của một người thầy vẫn là được thấy người học trò cũ của mình đi vào tương lai trên lối đi đã được phác định từ trong cửa lớp”.

Mưa bỗng ngớt đi, tiếng đổ ào ạt dừng lại. Mé sông bên kia, bờ bãi mịt mùng ban nãy nổi lên dần dần. Nhưng vòm trời thì vẫn thấp nặng và nghi ngút hơi nước. Trận mưa lớn vừa ngớt chỉ để sửa soạn cho một trận mưa lớn khác sắp đổ xuống.

Hai người ra khỏi gốc cây. Người thầy nhìn lên trời:

“Đã có thể đi được rồi. Tôi phải đi xuống Ty bây giờ cho kịp”.

Thầy quay lại, cánh tay gầy yếu đặt lên vai người học trò cũ:

“Lâu lắm mới gặp nhau tôi cám ơn các anh còn nhớ đến tôi. Các anh bây giờ đã khôn lớn cả, đã tự trưởng thành trong những kinh nghiệm, tôi cũng không có điều gì phải khuyên bảo nữa. Thôi anh ở lại”.

Giây phút giã từ này thật là cảm động.

“Con ân hận không được gặp thầy lâu. Con theo thuyền độ nửa tháng bán hàng xong rồi sẽ trở lại vùng này. Xin thầy địa chỉ để con được lại thăm trường mới”.

Người thầy gạt đi:

“Chính tôi hiện giờ cũng không biết rồi sẽ được thuyên chuyển đi đâu. Liên khu trong, một trường mới mở trong núi hay là nghỉ dạy vĩnh viễn không chừng. Chắc khó gặp lại, anh còn nhớ đến tôi là đủ và đừng băn khoăn về vấn đề tìm thăm tôi”.

Người thầy bước đi, cái bị cói nằm trên bờ vai gầy, gậy trúc chống xuống đường lầy. Y chạy theo thầy:

“Con đi buôn cũng không đến nỗi túng thiếu lắm. Thật tình không dám nghĩ đến chuyện trả ơn, nhưng con có giúp thầy được điều gì không?”

Người thầy lắc đầu mỉm cười:

“Tôi một thân một mình cũng không cần gì. Cám ơn anh. Thôi anh trở lại”.

Y đứng sững giữa con đê nhìn theo bóng dáng cổ kính của người thầy. Cái bị cói, cái gậy trúc, những sợi tóc bạc cứ nhỏ dần mãi. Rồi những cái điểm bé nhỏ ấy nhòa đi sau màn mưa.

Y gặp lại người thầy học cũ của Y lần ấy là lần cuối cùng. Bán xong chuyến hàng, Y lên bộ về thẳng Vân Đình. Hỏi thăm Ty Học chính ở đó, Y được biết người ta đã nói với thầy là các trường bị phá hủy gần hết, phải đợi một thời gian để lập trường mới và người thầy đã bỏ đi không để lại địa chỉ.

*

Đến nay đã mười tám năm.

Viết văn, tôi thực hiện được cái ước vọng duy nhất của thuở nhỏ. Trong số những nguyên nhân thầm kín thúc đẩy tôi, tôi ghi nhận lời thầy khuyên nhủ cố gắng ngày nào trên quãng đường lầy.

Sự đổi thay quyết định một đời người thường vì những nguyên nhân nhỏ. Ở đây có thể vì lời khuyên của một người tôi kính yêu.

Từ đó tôi không gặp lại thầy, cũng không trở lại một cửa lớp nào nữa. Nhưng kỷ niệm còn giữ được của buổi học ấy, nỗi cảm động đứng giữa hàng ghế đọc bài luận ấy cho cả lớp nghe – nhớ lại – vẫn đưa tôi trở về được với cái thế giới học trò. Nó nằm trong chu vi một lớp học, nhưng rộng và riêng biệt đúng như một thế giới. Chùm hoa phượng, những phiến kính sáng trong, cái đỉnh mũ trắng, những ngày hè chói nắng. Câu văn đầu tay vụng dại, bỡ ngỡ. Trên tất cả, khuôn mặt trầm lặng của thầy ngó xuống như một nỗi bình yên.

Bây giờ đôi khi ngừng tay trên một trang bản thảo, lúng túng trước một danh từ, một ý tưởng diễn đạt khó khăn, tôi lại thấy những hàng chữ dập dập xóa xóa trước mắt bỗng phảng phất giống với trang giấy nháp của bài luận cũ. Hình ảnh người thầy lúc đó lại hiện lên. Tôi muốn được gặp lại, để nói, ít nhất cũng một lần, với thầy:

“Những trang giấy này có được một phần lớn nhờ thầy”.

Nhưng mà những dòng chữ tôi viết bây giờ chắc không bao giờ được biết tới những dòng mực đỏ phê điểm ấy nữa. Buổi gặp mặt cuối cùng. Con đường xa hút dưới mưa trắng. Số tuổi chất nặng lên cuộc đời đã xế chiều. Giọng nói trầm trầm ấy đã chìm lặng, tôi linh cảm như vậy. Cái gậy trúc ấy chắc đã rời khỏi cánh tay gầy yếu, rơi xuống một nơi nào đó, ở ngoài kia.

It poured the day he saw the old professor. The dike ran along the right bank of Sông Đáy between Ba Thá and Vân Đình. A turbid and muddy trail. Human traffic going with and against each other. A struggle condensed into a fleeting moment of bashfulness, shame and brimming joy along with the image of a cold and unending long trek, pounding and drowning in the bleary white dusty rain the time they had bumped into each other. Remnants of dying villages in the distant.

Teacher and student holding onto each others hand, and the rain continued to pour – together ran for cover under a tree. The years rolling along past us by as we dived head first in to life, now fully grown, next to his teacher he is a head taller. The shrinkage of age makes his teacher appeared even smaller. But between them nothing has changed. As always the teacher is both more firm more confident compared to his student. The exemplary attitude and protection inside the classroom that he as a student received day after day.

“Sir, where are you staying now?”

“Ba Thá”

“You still teach”.

The professor smiled kindly:

“Yes, I still teach but yesterday afternoon the school was bombed. I’m heading for Ty now to make an official report. Ty is a district down from Vân Đình. I’ve lost everything, except for what is here.”

What is here: a sack, a couple of sets of brown clothes and a bamboo stick.

He looks at the small, meaningless career, the last remaining belongings of a moral life, and thought of two images: a humble and meagre ascetic of a certain era imparting beautiful thoughts to humanity in asceticism, and the image of a rain drenching windy path, the afternoon setting upon a large inter-region, the old teacher walking alone on that road, the simplicity of a noble profession is the heavy burden on his silvery hair in the dark stormy night.

The rain continued to pour. The student and teacher gravitated towards each other. Nodding, the old professor looks at his student:

“You gentlemen have changed a lot. All grown up. But it does not matter where I am you still recognise me, and I all of you. You still have exactly the same absent-minded look when you sat in my class looking out the classroom window during those summers in the middle of the day”.

His reply:

“Yes, I remember the way I used to be in class. That has not changed”.

The bass of professor’s warm voice discernable through the consistent clatter of the pouring rain:

“No, nothing has changed”.

The professor’s deep set eyes follows the long path through the rain to the end, further than the end of the road:

“War changes the path we take on the road. Every thing becomes bitter, harder than before. The earthly mounds. Pits and tunnels. Broken bridges. And the storms, there seem to be more of them”.

The professor sigh:

“We are the old ways learning how to walk on a new path”.

Before he turn to look at his student:

“And you, what are you doing now?”

“Buôn sir”

“Buôn?”

“I left school after Cách Mạng Tháng Tám. The stuff I want to smuggle is going up the river around Rót Rét. I will meet up with them at Bương Cấn and tonight once the rain ease I will head for Phú Thọ”.

The professor said two words quietly “I see” and that was that. His professor is by nature a quiet man. The rain poured over head. In front of them is the angry red and murky water of Sông Đáy. Unreachable is the other side of the bank. Taking a few steps back, standing behind his teacher, his eyes focused more intently on the strands of grey hair stirred by the wind on the familiar grave focused features of a face he had seen a past long gone standing against the black background of a chalk board. The smooth and luke warm memories and images of a time in a classroom came rushing back frame by frame on the small patch of the thoroughfare at the side of the road. Bunches of summer flowers in a brilliant red perched on the window sill, and as each cluster of flowers bloomed came the rushing was a peek of new dream, the light tempo of a time when the spirit was swept away to wild unexplored places far and beyond. Over new horizons were the fragile quiver of butterfly wings. Lucid panes of glass. Low timbre sound of our lessons pacing steadfast between the classroom’s chairs lined up in neat rows. Deep set hem topped with a white hat. Blocks of bricks worn out at the edges by the rain formed the steps up into each classroom. Bygone architecture of a school built on the ruble of an old citadel weaves through the rows of trees and scattered ponds. A city under the long howl of a ferry tailed by a trail of smoke that lingered in the sky. The first idea conjured, the air of an imaginary journey. Flickering images of a path lost in the sunlight of an impending summer.

He remembered the opening day the old teacher turned up after one transfer after the other. It also poured that particular morning. The sound of shoes approaching along the corridor. The professor stepped into the classroom and paused for a second, said: “Good morning gentlemen”, as he head straight for the raised lectern. The first hour was reserved for getting to know each other. The professor shared a private joy, he was happy about the transfer to a school in town after the ten years he had spent in the jungle.

He said: “The last school was right by the border of Vietnam and China, my students were half Kinh and half from a collective of small indigenous groups. Up there in the jungle, the nights are long and in the morning each time I opened the classroom door, the classroom would be filled with thick fog. The jungle surrounds it was thick with trees and more trees, the trees went on and on as though there were no end. On the school yard you can find paw prints of ferocious creatures and wild animals. And when it was cold it was extremely cold. The students’ hands and feet were cold and their faces were pale and blue because it was so cold. The doors and windows must be shut tightly so our body heat could circulate before we could even do anything”.

The images of a classroom at the border materialized via a warm and bass tone that was distinctively unique to the old professor. The way he tell his story, the way he phrase each sentence was also different. And immediately, amongst the forty five students listening, from a seat at the back of the classroom he looked up, found instantly the fondness and respect for his new teacher. A kind of fondness that was new to him. It was like a new discovery, a phenomenon, a change.

The life of a student, going up a class each year, there’s a new teacher, but amongst those teachers, often once after closing the door finally to that class, tucked away separately as life goes on, comes back immediately vividly in the memory of a student that particular teacher. Why? Perhaps its a certain feature of their face, voice, edged deeper in the past. Perhaps because its tided up to something, may it be abstract or pictorial, the emotional attachment surpasses the norm, denoting richer, more meaning.

He came first on his first essay in class. An odd occurance. He got his paper back three days later, when his name was called, by the compliments and smile he was asked to please read the best paragraph out loud, standing up, his hand shook as he held onto the piece of paper and those minutes were the rosiest highlight in the history of the years he spent in school where beyond that point into the past were mostly mediocrity and darkness.
He was lazy and careless. Always last no matter what subject. A complete change. For the rest of his life he will never forget the complete change in the brooding student who sat at the back of the class during that history lesson, the awkwardness of having to standing up for the first time, the anxiousness and excitement of reading and sharing his first success with the full attention and admiration of the whole class. That feeling stayed with him as he sat down.
The class could not find any reason for this sudden change. He, himself could not understand. He wrote that essay for one person to read, it specifically express the sincere and fine emotions reserved for a teacher who describe a school at the border as "paw prints of ferocious creatures and wild animals" and "in the morning each time I opened the classroom door, the classroom would be filled with thick fog".

*

The rain continued to come down heavily.

The afternoon had turned up on the other side of the river bank. The sky is low and grey. The boat full of goods heading up the river around Rót Rét where the water was a bit rough in the cold and wet is the highlight of a small and warm memory compare to the confiding fact that the teacher had loss his school, not knowing where he will end up in this rain this wind.

They both nod their head in deep thought. The professor said:

“You just said you’re in the middle of smuggling something?”

“Yes sir”.

“You gentlemen have so many professions. Each person on their own path. The end of last month I saw a student I can’t remember which year I had taught him reclaiming land on a plantation in Nho Quan. A filthy area where the water is poisoned, very bad for your health. He was pale and weak, he did not look well. You travelling back and forth on a boat, would perhaps be a much better idea”.

“The last couple of years, since the day I left school there were not enough opportunity for me to move around, unlike now. But smuggling is not a suitable direction. Sometimes I feel like what I’m doing is all for nothing”.

The professor reply:

“I inderstand. But more than often we would find ourself doing what is in reach where we do not have a choice but accept. You generation is full of men who are not in the right position, not sure which path to take. It’s painful being your age. As for us there’s no point talking about it. Often it is so hard, I would still find myself quietly thank heaven for letting me hold that ruler and lecture. What else can I do if it’s not teaching?

The professer laughed softly:

“It’s a habit of the job: Seeing you gentleman all I want to do is ask what you want to do with your life. If you don’t like the smuggling, what do you want to do?”

“Once during a discussion, you were joking about me becoming a writer, I still have that laughable dream of becoming a writer”.

“Oh! I can’t remember, but if it was something I said than it wouldn’t have been a joke. That’s right, Vietnamese literature in those days was a subject you loved the most”.

The professor’s voice grew more earnest:

“Keep at it. You’ll never know one day I might find myself reading something written by one of my students and that student is you. The be biggest consolidation to a teacher is their student who could take a path that had taken shape in the classroom”.

The rain easing suddenly, the loud clatter of pouring rain stopped. The other side of the river, the bank materilises slowly from behind the thick curtains of rain. But the horizon remained low and laden with water vapours. The heavy down pour stopped in time to prepare for another down pour.

The two of them left the cover of the tree. The professor look up at the sky:

“It should be fine now. I better head for Ty before it’s too late”.

The professor turn around, places a frail hand on his old student’s shoulder:

“It has been a while since I’ve seen any of you gentlemen. Thank you for thinking of me. You gentlemen are now wise adults, via your experience grew up, I don’t have any advice left to give you. Stay safe”.

An emotion goodbye.

“I wish I had more time with you professor. I’ll follow the boat and in around half a month I will be back around here again. May I please have the address of your new so I can get another chance to see you”.

The professor cast the idea aside:

“I, myself do not know where I’m going. Further in there’s a new school in the mountain or I might stop teaching altogether. I will be hard for us to meet again, you still remember now an then that is enough no need to feel bad about not visiting me”.

The professor left, carrying the sack on his thin shoulders, supported by the bamboo stick deep in the muddy water, he ran after his teacher:

“Buôn, I do okay. Honestly I’m not trying to repay you in any way, but can I help you in anyway at all professor?”

The professor shook his head smiling:

“I live alone, I do not need anything. Thank you son. You should go back”.

He stood there frozen in the middle of the dike straining his neck trying to follow the figure from a bygone era disappear into the rain. The sack, bamboo stick, the strands of grey hair grew smaller and smaller like forever. Then those smallest distinguishable features too fade away into a curtain of rain.
That was the last time he saw his teacher. Selling the last boat of goods, he went straight back to Vân Đình. Found out that Ty Học was actually there, they told his professor that most of the schools have been destroyed, it will a while before there will be any new school and the professor left after that not leaving an address behind.

*

Eighteen years later.

Writing, that childhood dream, I have fulfilled. Amongst the hidden reasons that pushed me, I noted the professor’s advice to keep trying everyday on that muddy dike.

The decision that could change a person’s life often are the small reasons. Here perhaps because it was the advise from a person I respect.

I never saw the professor again from that day on. But the memory of that class, how moving it was to stand in the middle of the class reading the essay to the whole class – the thought of it again – takes me back to the years I was a student.


Mai Thảo [1927-1998] real name is Nguyen Dang Quy, another pen name: Nguyen Dang, he was born on June 8, 1927 in Con market, Quan Phuong Ha commune, Hai Hau district, Nam Dinh province (originally from Tho Khoi village, Gia Lam district, Bac Ninh province, the same hometown and related to the painter Le Thi Luu), his father was a merchant and wealthy landowner. Mai Thao absorbed his mother’s love of literature from Bac Ninh. As a child, he studied at a village school, went to Nam Dinh high school and then Hanoi (studied at Do Huu Vi school, later Chu Van An). In 1945, he followed the school to Hung Yen. When the war broke out in 1946, the family evacuated from Hanoi to Con market, in the “House of the Salt Water Region”, from then on Mai Thao left home to Thanh Hoa to join the resistance, wrote for newspapers, participated in art troupes traveling everywhere from Lien Khu Ba, Lien Khu Tu to the Viet Bac resistance zone. This period left a deep mark on his literature. In 1951, Mai Thao abandoned the resistance and went into the city to do business. In 1954, he migrated to the South. He wrote short stories for the newspapers Dan Chu, Lua Viet, and Nguoi Viet. He was the editor-in-chief of the newspapers Sang Tao (1956), Nghe Thuat (1965), and from 1974, he oversaw the Van newspaper. He participated in the literature and art programs of radio stations in Saigon from 1960 to 1975. On December 4, 1977, Mai Thao crossed the sea. After 7 days and nights at sea, the boat arrived at Pulau Besar, Malaysia. In early 1978, he was sponsored by his brother to go to the United States. Shortly after, he collaborated with Thanh Nam’s Dat Moi newspaper and several other overseas newspapers. In July 1982, he republished the Van magazine, and was editor-in-chief until 1996, when due to health problems, he handed it over to Nguyen Xuan Hoang; Two years later he died in Santa Ana, California on January 10, 1998.

Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.

The moon in my childhood | Mai Thảo

A short story in Vietnamese by Mai Thảo
Translator: Nguyễn Thị Phương Trâm

[Published on Văn Nghệ BIỂN KHƠI]
[Tôi xin tặng bản dịch này cho anh Nguyễn Hưng Quốc , with whom I have found the courage to translate Mai Thảo. Thank you anh!]

Alone, Chu heads for the road. Tonight again their date did not work out as planned. Hiền said she was tired, sorry but Chu knew she was lying. Exhaustion is a woman’s form of evasion.

Hiền’s bedroom was on the third floor, in the middle of town. The window looks down into the main road. A multi-level house, accessed by a private balcony, with an elevator that takes you up, the whole bottom floor is divided into various stores. Glass panels lit up splendidly by neon lights during the day. At night, gloomy light filters through the iron grilled roller door at exactly after six in the afternoon when the live-in security guard would pull them down to lock up. Chu turned up in the middle of the commotion as doors came down amid the silence. The security guy at the door opened it up again to look out. His tired eyes watch Chu pay the taxi driver.

“I want to see Miss Hiền”.

“Miss Hiền is never home at this hour”.

Chu steps onto the pavement, looking up he smiles before adding:

“The light is on in her room. Just let me go up and we’ll see”.

The small room occupied by the guard and his family is a small space that sinks below the level of the main road. Strewn cups and ceramic tea pot. His wife leaning against their bed head, sitting still, in a state of rest not sure if she is asleep or not. The child fast asleep on an old grass mat across the patterned tile floor. Chu turns his head to look at the sleeping child, he smiles as he enters the dark hallway. The child and the mat reminds him of the small verandah of an ancestral home divided like in nature, three leaves, three rooms and two fruits. In his childhood, Chu remembered the night he had waited for a long time on the verandah of that house, watching Hiền sleep soundly in the moonlight. Now, parts of his life have been replaced with messy complications, so many one-ways standing in his way back to the past, Chu can only remember a few scattered memories like that. The dark corridor he is now in triggers no memory. People miss little, in the middle of a city. Limited emotions are confined by barriers like walls and rooftops, dry like bougainvillea. The short walk to the elevator had barely enough room for the return of old images. They are somewhere. Out of town. In the past. But then he can come here, to this place. Chu pressed the button to open the elevator door with the single image: Hiền sleeping soundly in the moonlight. The lonely image, passes by, floating, like a deserted island in the middle of a boundless pool of yellow. Chu finds himself unexpectedly sad. He lowers his head. Inside the narrow elevator shaft like a box, whoosh it takes him up.

Hiền’s room, Chu has to walk back and forth a few times before he can find the number. Here a couple of times already, and still the identical rooms get him mixed up. The doors are painted in a milky white colour. The room number pops up in copper. Chu’s hand gravitates towards his collar, he fiddles with the top button of his shirt as he readjust his cravat.

“Hi Chu, I didn’t know it was you. Where are you heading?”

Where else? Chu thought as he stepped into the room. The full-length tall boy mirror throws Chu’s outline right back at Chu standing there looking lost looking into a room dressed as opulent as the beauty of a young woman. The full face of the city zoomed in in full focus. Gleaming highways. Traffic slithering along, slips away like snakes. Low benches covered with large flowers. The lines of Hiền’s eyebrows are defined by the infinite sharp flick of her eyeliner. Heeding Hiền’s invitation, Chu sits down on one of the chairs. Unable to compose himself all of a sudden. He needed a minute to focus on his composure. To face a woman who is supposed to be Hiền. A childhood friend who he used to watch sleep in the village moonlight. Another memory came to Chu: that night Chu woke Hiền. The moonlight cuts a cool line through the paved yard. Two kids holding each other’s hand heading for Chu’s home. Another roomy paved yard. Huddled together were husbandry laborers threshing rice. The smells in the dark were more playful than during the day. Soon dawn will bring with it the preparations for the harvest, plots of fat and ripe ears of rice, cheerful voices rising louder and louder, one song after the other, the notes of their voices flying higher and higher, to after settle, perched upon the stalks of a golden harvest. The shuffling and fluttering sound of rice threshing went on and on. Until the moment Chu had taken Hiền home, the moonlight had remained consistently brilliant. The husbandry laborers would still be at it, threshing the rice.

Still in her shorts, though Hiền had already finished her makeup before Chu showed up. Cheeks roughed, her eyes appeared deeper under darkened lashes, Chu can already see in her eyes the twinkle of an evening of festivities. It’s life here, at nightfall. The party is for a Hong Kong movie actress, a famous singer from the Philippines, just flown in from Tokyo. Rows of seats placed in a line. The festivities are full of noise and more noise with all the possible unnecessary hollow praises and formalities. The fires would burn brightly before it would dim in the dance studio. The dance floor polished, the music chirpy. A mesmerizing dizzy air. All of it crosses his mind. The moonlight grew colder and packed away in a corner of his mind. Chu walks over and places a hand on the edge of the table, he leans in and looks down. He begins to regret the idea of looking for Hiền because the moon is shining in the street. He stands there for a while. When he turns around to look at Hiền, she has not moved from where she is standing. She sounds a little embarrassed:

“Sit down, don’t you want to sit down for a bit? It’s odd, you’re standing there like that”.

“Did I disturb you Hiền?”

“No. Is there a place you want to take me”.

“No,” Chu replied.

He feels that he has nothing. He has not a single thing. The evening moon over there means nothing and it is very far away from here, this place. He walks over to the window and looks down. To see how much more meaningless it is. The moonlight in pieces over the canopy, falling, slips through the gaps of the leaves. The weak yellow light is more imagined than real in the street. In the surrounding area in all four directions, at the same height as a wilderness of windows, the lights flicker far and not so far away, giving the city its chaotic depths and heights piles and piles piled on top of each other. Chu closes the window before he turns his back to the window:

“On the way here, I was hoping we could go for a walk. But it looks like you’re busy. Maybe another time. I’m going to go”.

Hiền could not hide the joy in her voice:

“I’m actually not busy, but I was going to have a nap and you turned up”.

Chu nod:

“Okay, I’m going to go”.

The bright light of those evenings. Noisy parties. The club’s dance floor vibrating and feet weaved together breathing down one’s neck:

“How brilliant is the moon tonight Chu?”

Chu’s hand is still on the window sill, with the window doors still slightly ajar.

“Why don’t you come and open the window and see for yourself”.

After that he nodded his goodbye to Hiền and left. Hiền did not move from where she had been standing. The elevator making a racket, the elevator drops through freely to abruptly stop in front of the hallway. It is not long before Chu finds himself in the street, like how just a moment not long ago he had entered, alone.

*

Hiền stood still for a while at the same spot after Chu left. The room feels significantly bigger. Chu’s presence though only for a short period completely changed the air of her room. His eyes were strangely sad. Hiền thought quietly as she walked toward her dressing table. She sat down quietly, she studied her features for a moment. The mirror reflects the lines of bright red lips. Ever lightly Hiền puckered her lips. The slight movement wakes up the colour on her lips, the shimmer. Hiền put another layer of rouge on the apple of her cheeks, stood up, walked over to the closet. The dress she had planned to wear tonight is a deep red with large embroidered flowers. Hiền opens her handbag and takes out the business card Đoàn gave her, she studies it again. Đoàn is a new friend, rich, who has been to France, only to frequent the nightclubs and coastlines to sunbake, where year after year it would attract tourists from large cities from all around the world. Đoàn have only been back for the last six months. The business card had a few lines quickly scribbled on it:

“Hiền, at eleven I will send a car to pick you up. Don’t forget, we’ll go to the dance at Liễu Guest House maybe? Then we can do whatever”.

Whatever. It is how Đoàn entertains life, how all of Hiền’s new friends live, the people in her life right now, a thoughtless self-destructive way of life without an objective or care in the world. Whatever. Hiền had fallen, fallen profoundly into this way of life. Whatever. Meaning whatever new interest might come next, new dance floor, new party or festivity, join other sightseers, life squashed and crunched up into a ball, thrown into an air of commotion and boisterous laughter, blinding flamboyant colours.

Following Đoàn’s advice, Hiền sold her house in the suburb to rent this apartment in the middle of the city. It has already been 4 or 5 months. Her new life has pushed away old memories together with old friends. This number of friends includes Chu. Not once did Chu say or indicate that Chu had ever loved her. But Hiền can feel it, her woman’s intuition dictates it when it comes to things like this, the way Chu feels about her is no longer finite, no longer confined in the past. Nor did Hiền question it. More so was that she did not want to ask. A luxurious lifestyle of changeable temperament, affecting a woman’s general view of life and the future. Hiền is apprehensive when it comes to love, serious commitment, solemn and upright like Chu. She avoids thinking about anything that would last, anything permanent. Things that make her look ordinary. What she likes to have is a very elegant bedroom. A cupboard full of the latest imported fashion. Opulence is a life she wants to live. And the ability to pertain all of it, what she likes. This is one of the reasons amongst lots of other reasons that had led Hiền toward her decision to distance herself from Chu even though her heart remains not far off. People like Chu can disappear for years, live a thousand miles away, and they might be on another path, but is impossible to cast aside. A frequent conflicting state of mind: compared to Hiền’s new friends, Chu lacks in many aspects but then again Chu on the other hand. Chu can not be compared to anyone. Chu stands alone, that image of solitude is not only truly cold but also truly beautiful. Pride is the reason for Hiền’s embarrassment each time she thinks of Chu. But right now. Even though Chu is no longer here. Chu’s last words remained:

“Why don’t you come and open the window and see for yourself”.

Hiền pushes the window open. Night descending for a while, layers of cold air settling one on top of each other. The moon perched far away, all the way on the other side, on top of the trees. The face of the moon is plump and round with a kind and bewildered countenance of a farmer’s first trip into town. The odd comparison makes her smile. Hiền conjurs up Chu’s voice in her mind, his solemn face just now, before he left.

The sadness comes back as she contemplates her position. The grand nights and all those glittery lights add up to barely enough light to light the soul. Dark and desolate in parts like the street corners no one ever ventures into. A few years back, a period of time when they had often met up regularly last. Chu was true to his words, Chu is someone who will always speak the truth – Hiền, you have a spirit that is as bright as the full moon on the brightest moonlit night. After more self reflection, that assessment is no longer true. It has changed. This spirit has a kind of light that is nothing but a flicker of brilliance the moment just before the street lamps were turned off. The lamp housing directs the light downward. To where there is nothing worth seeing. Hiền lifts her chin. Her eyes scanned the top of the trees and higher, higher than the canopy where the white clouds and alas they caught the sight of a moon with a round face. Still the same moon as before, the same as yesterday’s afternoon, but it feels now to Hiền completely different. The way one can be distracted walking in the street and only after a second look recognize a familiar face. Always from way up there, still always from way up there is Chu’s moon, and always Chu’s moon has the ability to find Hiền. But Hiền have never found her way up there, never found a way up.

*

Hiền did not see Đoàn enter. Hiền turned startled by Đoàn’s hand on her shoulder.

“Baby girl in red”.

Đoàn laughed, taking a couple of steps back before he lit a cigarette, inhales. Speaks in a style that is Đoàn:

“I believe Liễu did something rather silly this afternoon so I must take you there. Liễu will definitely regret it, but the boys, they will definitely agree. I don’t know if I should take you there Hiền, all those hundreds and hundreds of eyes in one place. I might have to fight hundreds of them off all at once”.

“I don’t want to go”.

Đoàn’s eyes opened wider as he laughed.

“I was joking, let’s go. It’s time. We shouldn’t make these people wait.

Hiền reiterate:

“Đoàn, I truly do not want to go”.

Đoàn is surprised only after the second reply. The cigarette is barely on his lips, surprised to the extent where him didn’t know whether he had already taken a puff of the cigarette or not.

Hiền takes her time approaching Đoàn.

“Please apologise to Liễu and the others for me. Just tell them that I will join you some other time”.

“Why”, Đoàn snapped. “You women are so strange, always changing your mind at the last minute”.

Hiền laughed:

“There’s nothing strange about women, so don’t ask me why. I myself do not know. Perhaps I am still a girl from a small country town. It is best you should not try to understand this girl from a small country town. I know that you are always good to me, you should go, it’s getting late. I’m fine at home alone. I put on this red dress because I knew that it would stand out next to the purple you have on. I had all the intention of going with you. But now suddenly I no longer want to go, that’s truly all there is to it Đoàn”.

The man shrugs his shoulders as he heads out.

“Đoàn”.

He turns around. The sound of Hiền’s voice did not sound real. Hiền is saying something that has no meaning to Đoàn, something that only she could understand:

“Don’t be upset with me, I will join you some other time. But please don’t come and get me on a night when there’s a moon. You must remember to never come and get me the nights when there’s a moon”.

*

The door slammed shut, the man had left, Hiền quietly turned to look at her reflection on the tall boy’s mirror. Slowly she unbuttons the row of buttons, slips her arms out of the sleeves of the red dress letting it fall to the ground. Her hands reach for the handles of the tall boy to open it. A colourful row of dresses and áo dài hung neatly together in a generous space opens up inside the tall boy. Hiền raises her hands higher to choose another dress from the hanger. Her eyes are misty. The light blue silk áo dài is what she wanted in the end and she puts it on. She returns to the dressing table, picks up a cloth to remove her lipstick, tucks her handbag in a draw. Hiền hands holding nothing as she heads for the door, she switches off the light, closes the door, walks towards the elevator. The elevator takes her to the bottom floor. Hiền meanders the dark hallway toward the front door. The security guard has not gone to sleep. He had just pulled down the iron shutters.

“Miss Hiền. Mr. Đoàn was just here to pick you up, you’re not going with him? He had only just left”.

“No, I’m not joining Mr. Đoàn. But can you help me open the shutters so I can leave”.

The iron shutters are again rolled up.

“Will you be back soon, I can wait”, enquired the security guard.

Hiền take a look outside. It’s very late but the moon will be bright the whole night. She shakes her head:

“You should retire for the night. I don’t know when I will be back, it might be a while. I’ll wake you when I’m back, don’t worry”.

Out in the street, Hiền stopped to look up. Her eyes look at the moon not to admire its pretty light, more so as a guide. Which direction should she take. She ponders as she walks: He’s probably there, at those places and nowhere else. There are four gardens in town. Four generous spaces with rock benches and pebble paths, with moonlight over them, wholesome and boundless. Hiền’s footsteps are brisk but unhurried. The moon is now brilliant over the city, it’s round and it’s high up there, it’s perched at the top of the sky for a long time now. Walking on the sidewalk beneath the canopies of the trees, eaves, feels as though she is walking on someone’s paved yard, towards the verandah of someone’s ancestral home. An old bed. A very white, very big yard. Sounds of the threshing of rice at the start of the harvest. Falling shadows of husbandry laborers. Generous moonlight drapes across their shoulders their backs, and undressed arms.

Dancing and flying on the late night footpath is the long flap of Hiền’s delicate áo dài spun in silk. Hiền head for the first garden. It is more than likely that Chu is lying on a rock bench, looking up. Hiền will stop at the entrance into the garden. She will take her time walking over to Chu. Approach Chu the way she used to when they were children. She will quietly tell him:

“Chu, can you sit up. Can fall asleep in your arms and when I’m sound asleep in the moonlight you can watch me sleep the way you used to”.

Vầng trăng thơ ấu

Chu đi xuống mặt đường, một mình. Một lần nữa cuộc đi chơi tay đôi đêm nay lại không thành. Hiền kêu mệt, xin lỗi, nhưng Chu biết Hiền nói dối. Mệt mỏi chỉ là một cớ để thoái thác của người đàn bà.

Buồng riêng của Hiền ở từng lầu thứ ba, giữa trung tâm thành phố. Cửa sổ trông xuống đại lộ. Căn nhà nhiều từng, vào bằng hành lang riêng, có thang máy đưa lên, cả một từng dưới ngăn chia thành những khu cửa hàng. Ban ngày màu sắc lộng lẫy trong những ô kính chạy dọc theo những hình đèn nêông. Ban đêm, bóng tối âm u lọt qua mấy tấm cửa sắt cứ đúng sáu giờ chiều là người gác cửa đã buông xuống. Chu đến giữa lúc tiếng sắt kêu trong im lặng. Người gác cửa mở cửa ngó ra. Y mệt mỏi nhìn Chu đang trả tiền xe.

“Tôi muốn lên thăm cô Hiền”.

“Giờ này cô ấy làm gì có nhà”.

Chu đi ra ngoài hè đường ngước mắt nhìn lên. Chàng mỉm cười nói với người gác già:

“Cửa sổ còn sáng đèn. Ông cứ để tôi lên”.

Gian buồng nhỏ của gia đình người gác cửa chìm thấp hơn mặt đường. Chiếc bình tích và những cái chén lăn lóc. Vợ người gác ngồi tựa lưng vào thành giường, yên lặng không biết thức hay ngủ. Dưới nền đá hoa, một đứa trẻ ngủ rất say trên chiếc chiếu cũ. Chu mỉm cười nhìn lại đứa trẻ đoạn đi vào hành lang tối. Manh chiếu và đứa trẻ nhỏ vừa gợi lại cho chàng hình ảnh một đầu mái hiên của một căn nhà cổ, ba gian hai chái. Ngày nhỏ, Chu nhớ có một đêm chàng đã đứng lại rất lâu ở cái đầu mái hiên ấy, ngắm Hiền ngủ bằn bặt dưới ánh trăng. Bây giờ, cuộc đời đổi thay với những khúc những nếp rối rắm, có rất nhiều khoảng ngõ cụt đứng chắn lối trở về dĩ vãng, Chu chỉ nhớ lại được vỏn vẹn có thế. Cái hành lang tối chàng đang đi vào không gợi nhớ. Người ta không nhớ nhung nhiều, giữa thành phố. Tình cảm chứa nén trong giới hạn nhất định của những bờ tường những mái nhà, khô lại như những bông hoa giấy. Đoạn đường ngắn dẫn đến trước thang máy không đủ không khí cần thiết cho những hình ảnh cũ được trở về. Hình như chúng ở đâu. Ngoài ngoại ô. Trong ngày xưa. Nhưng chúng đến được ở đây. Chu bấm nút điện mở cửa vào thang với một hình ảnh duy nhất: Hiền nằm ngủ êm đềm dưới ánh trăng. Hình ảnh cô đơn trải đi, lênh đênh, giống như một hòn đảo hoang giữa màu vàng rời rợi không bờ bến. Tự nhiên Chu thấy buồn lạ lùng. Chàng cúi đầu xuống. Khung thang hẹp như một cái hộp vùn vụt đưa chàng lên.

Buồng Hiền ở, Chu đi đi lại lại mấy lần mới tìm thấy số. Đến đây đã một vài lần, tuy vậy những căn buồng giống nhau vẫn làm chàng nhầm lẫn. Cửa sơn màu trắng sữa. Số buồng bằng đồng nổi. Chu đưa tay nắn lại cái nút cà vạt cũ.

Có tiếng chân bên trong, rồi Hiền mở cửa, hiện ra trên một nền ánh sáng xanh dịu. Nàng nhìn Chu ngạc nhiên:

“Kìa anh Chu, em lại tưởng ai. Anh đi đâu thế?”

Còn đi đâu nữa. Chu vừa nghĩ thầm vừa đi vào. Tấm gương lớn ở phía tủ áo hắt trả lại bóng Chu đứng ngỡ ngàng trước một căn phòng trang trí cũng lộng lẫy như sắc đẹp của người thiếu nữ. Bộ mặt thành phố chỉ thu nhỏ lại ở đây. Đại lộ chói sáng. Những đoàn xe nhiều màu trườn đi như những con rắn. Những bông hoa lớn bọc trên những thành ghế thấp. Đường lông mày của Hiền với những cái đuôi kẻ nhọn và dài vút như một lưỡi dao. Theo lời Hiền mời, Chu ngồi xuống một thành ghế. Chàng tự cảm thấy khó chịu vì chợt thấy mất hẳn bình tĩnh. Vì cần phải có một phút định thần. Vậy mà người đàn bà trước mặt chỉ là Hiền. Chỉ là người bạn thuở nhỏ đã ngủ thiếp dưới ánh trăng thôn quê. Chu nhớ được thêm: đêm ấy chàng đã đánh thức Hiền dậy. Trăng sáng xanh cắt vạch trên mặt sân gạch. Hai đứa trẻ dắt tay nhau trở về nhà Chu. Cũng lại một khoảng sân gạch thật rộng nữa. Những người tá điền đứng quây vào nhau đập lúa. Đêm mùa vui hơn ngày. Sớm mai lại là cánh đồng ướt sương với những thửa ruộng lúa chín mẩy hạt, điệu hò tiếng hát cất lên, bay đi, đậu xuống những thân lúa. Tiếng đập thóc rào rào. Đến lúc Chu đưa Hiền về, trăng vẫn sáng lắm. Những người tá điền vẫn đập lúa.

Chu nghĩ rằng giữa hai người tuy vậy vẫn chẳng có gì thay đổi và không ai cấm chàng có một câu nói một cử chỉ thân mật như ngày trước. Nhưng đến lúc chàng quay trở lại nhìn Hiền thì chàng lại biết ngay, hết sức rõ rệt, là cử chỉ ấy sẽ không được biểu tỏ, câu nói ấy sẽ không được nói ra. Gặp lại nhau, cuộc sống đã làm họ thành những người lớn. Với những vấn đề những tâm trạng của người lớn. Họ cùng ở giữa thành phố. Nhà Hiền gần đại lộ quá.

Còn mặc quần ngắn, nhưng Hiền đã trang điểm xong trước khi Chu đến. Hai gò má hồng đỏ, cặp mắt sâu hơn giữa những lông mi đã được đánh thẫm lại, Chu nhìn vào đã thấy thấp thoáng cái bóng dáng tưng bừng của những buổi dạ hội. Cuộc sống ở đây, khi đêm xuống. Bữa tiệc tiếp đón một nữ tài tử điện ảnh đến từ Hương Cảng, một nữ danh ca từ Phi Luật Tân, từ Đông Kinh vừa ghé xuống phi trường thành phố. Những dãy ghế kê thành hàng. Bữa tiệc ồn ồn ào ào với những nghi lễ phiền toái những lời chúc tụng kênh kiệu. Ánh lửa lòa sáng rồi lại mờ tối của một tiệm khiêu vũ. Sàn nhảy loang loáng, âm nhạc líu ríu. Không khí ngà ngà mê mê. Chu nghĩ đến tất cả những thứ đó. Một ánh trăng lạnh đọng lại trong óc. Chu đi lại về phía bàn phấn chống tay nhìn xuống. Chàng bắt đầu thấy hối hận về việc đã đến tìm Hiền mà nguyên nhân chỉ vì đêm nay thành phố có trăng thôi. Như thế một lúc lâu. Quay lại Hiền vẫn đứng ở chỗ cũ. Giọng nàng ngượng ngùng:

“Anh ngồi chơi chứ đứng đây ư? Lạ quá đi mất”.

“Hiền bận gì không?”

“Không anh ạ. Anh định rủ em đi đâu bây giờ”.

“Không” Chu trả lời.

Chàng thấy mình không có gì hết. Không có một tí gì hết. Đêm trăng trên kia vô nghĩa và cách biệt với nơi này. Chàng đi ra cửa sổ nhìn xuống. Càng cảm thấy tất cả sự vô nghĩa đó. Những mảnh trăng mờ mờ gãy vỡ giữa những bóng lá. Ánh sáng vàng yếu tầm thường của nó chỉ có thể đoán thấy mà không nhìn thấy trên mặt đường. Bốn phía xung quanh, ngang từng cao của rừng cửa sổ, những ánh đèn trập trùng xa xa gần gần làm cho đêm thành phố có chiều sâu và những tầm cao thấp chồng chất hỗn loạn lên nhau. Chu khép cửa quay trở vào:

“Lúc đến đây anh định rủ Hiền xuống phố đi bộ một lát. Nhưng thôi để lúc khác vậy. Chắc em bận, anh đi về”.

Giọng nói của Hiền vui mừng không giấu được:

“Bận thì không bận, nhưng em mệt đang muốn nằm nghỉ một lát thì anh đến”.

Chu gật đầu:

“Thôi anh về”.

Những buổi dạ hội sáng chói. Những bữa tiệc ồn ào. Sàn nhảy của một tiệm khiêu vũ sóng sánh âm nhạc và những bước chân người đan chen quấn quít phía sau lưng:

“Ở ngoài trăng sáng lắm phải không anh Chu?”

Bàn tay Chu nằm nguyên trên thành cửa đã mở hé.

“Em mở cửa sổ mà xem”.

Sau đó chàng tỏ dấu chào Hiền rồi đi khỏi. Hiền vẫn đứng nguyên ở chỗ cũ. Tiếng thang máy ầm ầm chuyển động, khung thang đổ xuống như lao rồi đứng sững lại trước hành lang. Một lát sau Chu đã ở ngoài đường, như lúc chàng vào, một mình.

*

Chu bỏ đi khá lâu rồi Hiền vẫn đứng nguyên không cử động. Căn buồng rộng hẳn ra. Sự có mặt của Chu dù chỉ là chốc lát đã thay đổi cái không khí của nó. Đôi mắt anh ấy buồn lạ. Hiền nghĩ thầm như vậy và đi lại phía bàn phấn. Nàng ngồi xuống im lặng, tự ngắm mình một lúc lâu. Tấm gương hắt trả một đường môi đỏ. Hiền khẽ nhếch mép. Vết son động đậy, ánh ánh. Hiền thoa phấn lại một lần nữa, đứng dậy đi về phía tủ áo. Chiếc áo nàng đã chọn cho đêm nay, màu nó đỏ sẫm với những bông hoa thật lớn. Hiền mở sắc tay lấy ra tấm danh thiếp của Đoàn gởi đến từ chiều, đọc lại. Đoàn là một người bạn mới, nhà giàu, đã sang Pháp nhưng chỉ để đến những hộp đêm và phơi nắng ở những miền duyên hải, năm này qua năm khác tụ hội những đoàn du lịch đến nghỉ mát từ khắp các ngả thành phố lớn của thế giới. Đoàn về nước được sáu tháng. Danh thiếp ghi mấy hàng chữ viết vội:

“Mười một giờ anh sẽ đưa xe đến đón Hiền. Nhớ chứ, buổi họp mặt có khiêu vũ ở khách thính của Liễu? Chúng mình sẽ đến đó rồi liệu sau”.

Rồi liệu sau. Tất cả lối sống của Đoàn, của những người bạn mới Hiền vẫn gặp, vẫn đi chơi với họ, cái lối sống tự hủy hoại không suy nghĩ và chẳng có một vấn đề nào đặt ra là thế. Rồi liệu sau. Hiền đã ngã vào, ngã thật sâu vào lối sống đó. Rồi liệu sau. Nghĩa là rồi lại đến khách thính khác, đi xuống những sàn nhảy, tới những buổi dạ hội những bữa tiệc, nhập vào những cuộc du lịch, tất cả cuộc sống vo tròn lại, ném vào cái không khí ồn ào những chuỗi cười lớn, lộng lẫy màu sắc nhức mắt.

Theo lời khuyên của Đoàn, Hiền đã bán căn nhà ở ngoại ô và thuê căn gác này ở giữa thành phố. Cũng đã được 4, 5 tháng. Cuộc sống mới đẩy nàng đi xa nếp sống cũ cùng những kỷ niệm với những người bạn cũ. Trong số những người này có Chu. Chưa một lần nào Chu nói hoặc có những cử chỉ nói Chu yêu nàng. Nhưng Hiền đã cảm thấy, nhờ linh khiếu đặc biệt của người đàn bà về vấn đề này, tình cảm Chu đối với nàng không đứng lại trong giới hạn cũ nữa. Hiền cũng không hỏi. Đúng hơn không muốn hỏi. Nếp sống xa hoa thay đổi tâm tính, đến cả những nhận xét quan niệm chung của người đàn bà về tương lai và cuộc đời. Hiền sợ tình yêu, thứ tình yêu trang nghiêm, đứng đắn của Chu. Nàng tránh nghĩ đến bất cứ những cái gì bền chặt, có tính chất quyết định. Thấy là mình đã trở nên tầm thường. Thích có một cái buồng ngủ thật đẹp chẳng hạn. Thích có một cái tủ đựng tất cả các thứ hàng áo mới nhập cảng. Thích được sống lộng lẫy. Và thực hiện bằng được tất cả những ý thích đó. Điều này chính là một trong rất nhiều nguyên nhân khiến Hiền tự ý xa Chu tuy thâm tâm vẫn không xa hẳn. Những người như Chu có thể khuất bóng hàng năm, xa cách hàng nghìn cây số, đi trên một con đường khác, nhưng Hiền vẫn không quên được. Một tâm trạng trái ngược mâu thuẫn: nhiều khi thử so sánh với những người bạn mới, Hiền thấy Chu thua kém họ nhiều thứ nhưng Chu đứng riêng một phía. Không thể so sánh được Chu với bất cứ một người nào. Chu đứng một mình, cái hình ảnh cô đơn ấy thật lạnh và thật đẹp. Sự kiêu hãnh của Hiền lại chính là nguyên nhân làm hổ thẹn mỗi khi chợt nghĩ đến Chu. Như bây giờ. Chu đi rồi. Câu nói cuối cùng của Chu vẫn còn lại:

“Hiền mở cửa mà xem”.

Hiền mở cửa. Đêm xuống lâu, những đợt lạnh dần dần dâng lên trong không khí. Trăng đậu thật xa, phía bên kia, trên một ngọn cây. Khuôn trăng thành phố tròn và phúc hậu từ khuôn mặt của người nhà quê mới ra tỉnh. Hiền mỉm cười về sự so sánh ngộ nghĩnh. Nàng nghĩ lại giọng nói khuôn mặt Chu ban nãy lúc Chu trang nghiêm bỏ đi.

Nhưng rồi nghĩ đến mình, buồn lại đến. Những đêm thật lộng lẫy vậy mà mấy mươi thứ ánh sáng cộng lại vẫn không sáng hết được tâm hồn. Hoang tối nhiều khoảng vẫn còn như những ngả phố vắng không có ai đi qua. Trước đây mấy năm, nhớ là thời kỳ cuối cùng hai người vẫn gặp nhau. Chu vẫn nói thành thật, Chu bao giờ cũng thành thật trong lời nói – tâm hồn Hiền sáng như một đêm trăng sáng. Tự soi ngắm lại, nhận xét ấy không còn đúng nữa. Nó đã đổi khác. Tâm hồn chỉ còn sáng cái ánh sáng lúc vụt tắt của một ngọn điện treo ngang cột đèn. Chao đèn hướng ánh sáng xuống những khoảng thấp ở dưới. Chẳng có gì đáng nhìn. Hiền ngước mắt. Cái nhìn đi từ những ngọn cây lên cao hơn, tới những đám mây màu trắng và sau cùng nó bắt gặp một vầng trăng thật tròn. Vẫn vầng trăng ban nãy, của chiều hôm trước, nhưng Hiền đã thấy nó khác hẳn. Giống như khuôn mặt người đi đường nhìn thờ ơ không chú ý đến lúc ngó kỹ lại mới chợt nhận ra một người thân. Ánh trăng Chu đến với nàng từ trên ấy, vẫn từ trên ấy. Nhưng Hiền đã không lên được tới đó, không lên được tới đó.

*

Đoàn vào mà Hiền vẫn không biết. Đoàn để tay lên vai làm Hiền giật mình quay lại.

“Cô bé áo đỏ”.

Đoàn cười rồi lùi lại châm thuốc lá hút. Đoàn nói kiểu cách:

“Anh nghĩ rằng Liễu đã làm một việc rất dại dột khi nhắc anh chiều nay thế nào cũng phải đưa em tới. Chắc Liễu sẽ hối hận, nhưng bọn đàn ông thì bằng lòng. Anh không biết anh có nên đưa Hiền đến cái chỗ có trăm mắt đổ dồn vào đó không. Chắc anh sẽ phải chống đỡ trên hàng trăm mặt trận một lúc.

“Em không đi đâu”.

Đoàn mở to mắt rồi cười phá lên.

“Nói đùa đấy, thôi đi. Đến giờ rồi. Chúng mình không nên làm cho thiên hạ đợi.

Tiếng Hiền nhắc lại:

“Anh Đoàn, em không đi thật mà”.

Bấy giờ Đoàn mới ngạc nhiên thật. Điếu thuốc lá đưa gần tới môi, sự ngạc nhiên làm Đoàn quên là phải hút hoặc phải hạ tay xuống.

Hiền thong thả đi lại trước mặt Đoàn.

“Anh xin lỗi chị Liễu và các anh ấy hộ em. Và nói hộ để hôm khác em sẽ đến cùng với anh”.

“Tại sao như vậy”, Đoàn hỏi bực tức. “Đến phút cuối cùng mới thay đổi ý kiến, đàn bà các em lạ thật”.

Hiền buồn cười:

“Đàn bà chẳng có gì lạ lùng cả đâu, anh cũng đừng hỏi em tại sao. Chính em cũng không hiểu. Có lẽ tại trong em vẫn còn một người con gái quê mùa. Người con gái quê mùa ấy anh không nên biết thì hơn. Anh vẫn tốt với em lắm xin anh đừng hỏi gì nữa và đi đi kẻo muộn. Em ở nhà một mình được rồi. Anh xem em đã mặc áo hoa đỏ này vì biết trước sẽ rất nổi bên cạnh màu tím của anh. Em vẫn định đi với anh đấy chứ. Tự nhiên không muốn đi nữa, có thế thôi anh Đoàn ạ”.

Người đàn ông nhún vai lắc đầu đi ra phía trước.

“Anh Đoàn”.

Y quay trở lại. Giọng Hiền mơ màng. Hiền nói một câu mà Đoàn không hiểu được riêng chỉ có nàng hiểu:

“Đừng giận em nhé, để hôm khác em sẽ lại đi chơi với anh. Nhưng anh đừng đến đón vào những đêm có trăng. Anh nhớ đừng đến đón vào những đêm có trăng”.

*

Tiếng cửa sập mạnh, người đàn ông bỏ đi rồi, Hiền quay trở lại phía trước tủ áo yên lặng ngắm bóng mình trong gương. Rồi nàng từ từ tháo hết hàng khuy áo, tháo khỏi tay chiếc áo màu đỏ chói để mặc nó rớt xuống mặt đất. Nàng với tay mở tủ. Dãy áo nhiều màu xếp sát nhau trong khoang tủ rộng hiện ra. Hiền với tay chọn một chiếc áo khác. Mắt nhìn mơ màng. Cuối cùng nàng chọn tấm áo lụa trơn màu xanh nhạt từ từ mặc vào. Trở lại bàn phấn, lấy khăn lau hết sáp môi, cất cái sắc tay vào ngăn kéo. Hiền đi tay không ra cửa, tắt đèn, đóng cửa lại, đi về phía thang máy. Thang máy đưa nàng xuống từng dưới. Hiền lần theo hành lang tối đi ra phía cửa. Người gác già còn thức. Y vừa hạ cái lưới sắt xuống.

“Kìa cô Hiền. Ông Đoàn vừa đến đón, cô không đi với ông ấy sao? Ông ấy vừa ở đây ra thôi”.

Hiền mỉm cười trước đôi mắt ngạc nhiên của người gác già. Nàng nói dịu dàng:

“Không, tôi không đi với ông Đoàn. Nhưng bây giờ nhờ ông mở hộ cửa cho tôi ra ngoài”.

Tấm lưới sắt lại kéo lên.

“Thế cô có về ngay không để tôi chờ, người gác hỏi”.

Hiền nhìn ra ngoài. Đã khuya lắm nhưng trăng đêm nay sẽ sáng trọn đêm. Nàng lắc đầu:

“Ông cứ đi ngủ. Chưa biết lúc nào tôi về, có lẽ còn lâu lắm. Tôi về tôi sẽ gọi ông dậy, không sao đâu”.

Ra đến ngoài đường, Hiền đứng lại nhìn lên. Đôi mắt nhìn trăng không phải để tìm một ánh sáng đẹp, còn như muốn dò hỏi một lối đi. Đoạn nàng tiến bước. Vừa đi Hiền vừa nghĩ: Phải rồi anh ấy chỉ có thể ở những nơi đó. Thành phố cả thảy có bốn vườn hoa. Bốn khoảng rộng với những chiếc ghế đá những con đường lát sỏi tráng, ánh trăng đang chiếu xuống đó, mênh mông và đầy. Hiền bước nhanh nhưng cũng không thấy vội vã lắm. Trăng sáng bây giờ trên thành phố, nó tròn nó cao thế kia, nó còn đậu ở đỉnh trời thật lâu. Đi trên bờ hè dưới bóng cây những mái hiên, mà Hiền có cảm tưởng như đang đi về một khoảng sân gạch nào, tới một đầu thềm một ngôi nhà cổ nào. Chỗ nằm ngủ cũ. Khoảng sân rộng, trắng xóa. Tiếng đập lúa đêm đầu mùa. Bóng những người tá điền đổ xuống. Trăng trải chan hòa trên những bờ vai bờ lưng, những cánh tay để trần.

Tấm áo lụa của Hiền mỏng nhẹ một vạt dài bay múa trên đường khuya. Hiền bắt đầu đi về lối vườn hoa thứ nhất. Chắc Chu đang nằm ngửa trên một tấm ghế đá, nhìn lên. Hiền sẽ đứng lại ở đầu lối vào vườn hoa. Nàng sẽ đi thong thả lại bên Chu. Gần chàng, như hồi nhỏ. Nàng sẽ nói với chàng dịu dàng:

“Anh Chu, anh ngồi dậy. Em sẽ nằm gối đầu lên cánh tay anh và em sẽ ngủ thiếp đi như ngày nào dưới ánh trăng kia cho anh xem”.


Mai Thảo [1927-1998] real name is Nguyen Dang Quy, another pen name: Nguyen Dang, he was born on June 8, 1927 in Con market, Quan Phuong Ha commune, Hai Hau district, Nam Dinh province (originally from Tho Khoi village, Gia Lam district, Bac Ninh province, the same hometown and related to the painter Le Thi Luu), his father was a merchant and wealthy landowner. Mai Thao absorbed his mother’s love of literature from Bac Ninh. As a child, he studied at a village school, went to Nam Dinh high school and then Hanoi (studied at Do Huu Vi school, later Chu Van An). In 1945, he followed the school to Hung Yen. When the war broke out in 1946, the family evacuated from Hanoi to Con market, in the “House of the Salt Water Region”, from then on Mai Thao left home to Thanh Hoa to join the resistance, wrote for newspapers, participated in art troupes traveling everywhere from Lien Khu Ba, Lien Khu Tu to the Viet Bac resistance zone. This period left a deep mark on his literature. In 1951, Mai Thao abandoned the resistance and went into the city to do business. In 1954, he migrated to the South. He wrote short stories for the newspapers Dan Chu, Lua Viet, and Nguoi Viet. He was the editor-in-chief of the newspapers Sang Tao (1956), Nghe Thuat (1965), and from 1974, he oversaw the Van newspaper. He participated in the literature and art programs of radio stations in Saigon from 1960 to 1975. On December 4, 1977, Mai Thao crossed the sea. After 7 days and nights at sea, the boat arrived at Pulau Besar, Malaysia. In early 1978, he was sponsored by his brother to go to the United States. Shortly after, he collaborated with Thanh Nam’s Dat Moi newspaper and several other overseas newspapers. In July 1982, he republished the Van magazine, and was editor-in-chief until 1996, when due to health problems, he handed it over to Nguyen Xuan Hoang; Two years later he died in Santa Ana, California on January 10, 1998.

Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.

Butterflies high in the mountain | Nguyễn Văn Thiện

2014 Spring in Seoul. Photography: Nguyễn Thị Phương Trâm

A short story in Vietnamese by Nguyễn Văn Thiện
Translator: Nguyễn Thị Phương Trâm 
Published first on litviet.net

The highland is entering the season of rain, beginning the season of rain also means the beginning of the butterfly season. So many untold numbers of butterflies and I am incredibly free. In the morning with nothing to do, I go to watch the butterflies, in the afternoon with nothing to do, I chase after the butterflies, in the evening with nothing to… Life is just an epic journey in play. But I’m a coward, going up the mountain I can’t go alone, I ask my whole childhood and senior years to come along.

In me are three of us: I am now an adult, and I am as before a child, and I am as will be geriatric. The three of us play together amicably, protecting, like father and sons, like three brothers or grandpa and grandsons. The child exclaimed happily: Oh, it’s so beautiful, they have both yellow and white! The adult with a smirk on his face looking at pearly colour petals, while the old man is sombre, staring at something far in the distance on the top of the mountain. The child was skipping along and whistling, the adult strolls, as the old man bent over meandering his way. The three of us decided to climb Mount Chư Mang together.

Halfway up the incline, the geriatric stays back to rest, massaging his knees cursing under his laborious wheeze. The child side step happily skipped away into the distance. Left is the adult, calmly continuing his way forward. On Mount Chư Mang there’s a fresh spring that runs the four seasons continuously, continually bubbling. I lifted my nostrils inhaling etching the direction. There are so many butterflies up there—the lazy wings brilliant butterflies all day sipping water singing and dancing. Life is full of joy. My head was hurrying my footsteps—the higher up the climb, my skin, a layer of cool goosebumps. At the start, there were three of us, now, no way near, I’m alone. Lonely, I called out: Child, where have you disappeared! Old man, hurry up I’m waiting! Only the moaning of the mountain returns in reply. Then there was a sound echoing from the top, some inviting laughter or challenge.

Dusk, the light roast gold the extending limbs of blooming crepe myrtle. The child lifted his eyes. A lounge of mountain lizards moving from branch to branch. Each lizard jaw held onto the other tail in a long line. The child, animated by it, stopped to watch, distracted. He forgets the road ahead is still very long, the water spring is still way ahead at the top of the mountain, very far away! But butterflies, to a child, it’s just another game, at the moment he likes this game of biting the tail in front of the mountain lizards. The mountain lizards invited the child to join, he enthusiastically joined in. He bites the tail of the one in front, holds out his hand to hold onto the head of the one from behind, jumping from branch to branch. In the meantime, the geriatric is tired, meandering the path, nearly there, nearly there, he audibly pushed himself in every step.

I came upon the spring of cold water at dusk. In a little bit, the shadow of night falls. Squatting by a boulder, scooping up the water washed my face. No butterflies. Perhaps, after a long day of frolicking those pretty butterflies have returned to reside on the spines of leaves for the night. I fished out many wings from the water, brought it to my nose; a bewildering fragrant. The scent of trees and grass, water, or is it of the wind, of the earth, of Mount Chư Mang? I carefully layered each pair of wings on a boulder, to make a mat, a blanket, and fell asleep. Have you ever fallen asleep in such a way? It’s amazing. A peaceful sleep, dreamless, no nightmares, no grinding teeth, no snoring nor mumbling. And in the morning, when the sunlight is bright on my face, I step down from the boulder by the spring, my body completely light.

I’m only but a – third left!

No head, no chest, no stomach, just legs stuck onto the crease of my loins, like a body ravaged by a wild cat, half-swallowed, left behind the bottom part. I walked away as light as though I’m flying. And at that moment, the butterflies appear. We danced, and we sang. In the end, to live is to play, the butterflies whispered into my ears.

While I slept beneath the infinite wings, the old man crawled into a hollow of a tree. He’s all scrunched up waiting for nightfall. He couldn’t sleep, he complains as he tucked into a meal of fat gold ants to tame the hunger, like a Komodo dragon feasting on a mountain of termites. Those cheeky ants played death so they can slide smoothly into the stomach of the man, and build a nest. Then in a frenzy, the ants gnawed the geriatric from the inside out. By the morning, nothing was left of the old man’s body, but his hairy head.

The geriatric also only has a – third left!

The lounge of lizards played non-stop without ever a sign of tiring, moving from branch to branch all night, laughing all night. The child was never bored. He laid the length of the tree branch, the lizards crowding him, bit off his hands, his head, his butt and dragged it away, biting and laughing merrily. When morning came, the lizards left. The child’s head has been bitten off together with his legs.

The child, in the same scenario, now also has only a – third left!

At the top of the mountain, when it rains, it’s unbelievably cold — especially if you’re no longer whole, as the three of us. Hence, we looked for each other amidst the vast emptiness. Child, which direction are you lost? Hey adult, where are you having fun? Old man, hurry up I’m waiting? Our voices were echoing, like butterflies in song, like the weeping of a mountain. In the end, we found each other, out of breath, tattered, exhausted, unfished.

The old man whining censures:

“You guys, now I’m only this much left!”

The child all confused:

“They, they bit everything off, there’s only this much left!”

The adult conceptualise: 

“Heck what has happened to us, life is now only a third.”

Three times one part three shall become a whole, I decided. That’s it, and we decided to unite as one. The body of the child with the head of the geriatric and the pair of my present legs, buckling, distorted, hard to look at, but what could we do! As long as we’re whole, to continue on our way.

In the morning with nothing to do, I go to watch the butterflies, in the afternoon with nothing to do, I chase after the butterflies, in the evening with nothing to…

It’s a mere epic search for play./

[May 2019]

Bướm trên núi cao

Tây nguyên chớm vào mùa mưa, chớm mùa mưa cũng là bắt đầu mùa bướm. Bướm nhiều vô kể, mà tôi thì rảnh vô cùng. Buổi sáng, không biết làm gì, tôi đi xem bướm, buổi chiều, không biết làm gì, tôi đuổi theo bướm, buổi tối cũng không biết làm gì… Đời chỉ là một cuộc rong chơi. Nhưng tôi vốn nhát, khi lên núi không dám đi một mình, tôi rủ cả tuổi thơ và tuổi già của tôi cùng đi luôn thể.

Trong tôi có ba đứa: Tôi hiện tại tráng niên và tôi ngày xưa tuổi nhỏ và tôi ngày sau tuổi già. Ba đứa chơi với nhau hòa thuận, đùm bọc, yêu thương như ba cha con, ba anh em hoặc ba ông cháu. Tôi tuổi thơ reo vui: Ồ, đẹp quá đi, lũ chúng nó đều có màu vàng và màu trắng! Tôi tráng niên nhếch mép nhìn theo những cánh hoa màu ngọc, trong khi tuổi già trầm ngâm nhìn cái gì xa xôi trên đỉnh núi. Tuổi thơ vừa đi vừa nhảy vừa huýt sáo, tráng niên bước chậm rãi, tuổi già lọ mọ dò đường. Ba đứa chúng tôi rủ nhau lên núi Chư Mang…

Lên đến nửa dốc, tuổi già ngồi nghỉ lại, vừa đấm vào gối vừa lầm bầm than thở hoặc chửi rủa. Tuổi thơ tung tăng rẽ dọc rẽ ngang rồi mất hút. Chỉ còn lại tráng niên điềm tĩnh bước. Trên núi Chư Mang có một khe nước mát lạnh, nước chảy bốn mùa, dầm dề phồn thực. Tôi ngửa mũi khịt khịt đánh hơi tìm hướng để đi. Trên ấy tha hồ bướm. Những cánh bướm sặc sỡ lười biếng suốt ngày uống nước và múa hát. Đời vui biết mấy. Đầu giục chân bước nhanh. Càng lên cao càng lạnh đến sởn da gà. Khi đi có ba người, bây giờ, nơi lưng chừng dốc, chỉ còn lại một tôi. Cô đơn quá, tôi gọi: Tuổi thơ ơi, mày lạc đâu rồi! Tuổi già ơi, nhanh lên tôi đợi! Chỉ có tiếng núi hú hét đáp trả, chỉ có tiếng lá rì rào đáp trả. Có tiếng gì từ trên đỉnh cao xanh vọng xuống, như một tiếng cười mời mọc hoặc thách đố.

Xế chiều, nắng vàng rộm trên vạt bằng lăng trổ bông. Tuổi thơ ngước mắt lên nhìn. Nó thấy một bầy thằn lằn núi đang chuyền cành. Con nọ cắn vào đuôi con kia thành một hàng dài. Tuổi thơ thích quá đứng hẳn lại xem và cổ vũ. Nó quên rằng, đoạn đường phía trước còn rất dài, khe nước ở tít mãi trên đỉnh núi cơ, xa lắm! Với lại, bướm, đối với tuổi thơ, chỉ là một trò chơi xa lạ, nó thích trò cắn đuôi của bọn thằn lằn núi. Bọn thằn lằn mời tuổi thơ chơi, nó nhiệt tình tham gia ngay. Nó cắn miệng vào đuôi một con phía trước, tay đưa ra sau nắm đầu một con khác, rồi chuyền cành. Trong khi đó, tuổi già mỏi mệt dò đường, sắp đến rồi, sắp đến rồi, ông ta vừa bước vừa tự động viên…

Tôi bước đến gần khe nước lạnh vào cuối chiều. Chỉ một chút nữa thôi là bóng đêm sẽ đổ xuống. Ngồi bên tảng đá, vục nước rửa mặt. Không có bướm. Có lẽ, những bạn bướm xinh đẹp sau một ngày múa hát mệt mỏi đã tìm về ngủ sau vòm lá. Tôi vớt được từ dưới suối rất nhiều đôi cánh, đưa lên mũi ngửi, rất thơm. Hương thơm của cỏ cây, của nước, hay của gió, của đất trời, của núi Chư Mang? Tôi tỉ mẩn xếp những đôi cánh lại trên tảng đá, làm chiếu, làm chăn, và ngả lưng nằm ngủ. Bạn đã bao giờ ngủ như thế này chưa? Tuyệt lắm. Giấc ngủ bình yên, không hề chiêm bao, không hề mộng mị, không nghiến răng, kéo gỗ hay chép miệng. Và sáng ra, trở dậy khi nắng bừng trước mặt, tôi bước xuống khỏi tảng đá bên suối, thấy mình nhẹ bẫng.

Tôi chỉ còn lại một – phần – ba!

Không còn đầu, không còn ngực, không còn bụng, chỉ còn đôi chân dính vào khớp háng, như một xác người bị hổ vồ, nuốt dở, còn sót lại phần dưới. Tôi bước đi nhẹ bẫng như bay. Và khi đó, các bạn bướm bắt đầu xuất hiện. Chúng tôi nhảy múa và hát tưng bừng. Cuối cùng, sống cũng chỉ để chơi thôi, các bạn bướm thơm lừng ghé vào tôi nói nhỏ.

Khi tôi ngủ trong vô vàn cánh bướm thì tuổi già chui vào một hốc cây. Ông ta ngồi thu lu trong đó đợi đêm tàn. Tuổi già thật khó ngủ, ông ta than thở như vậy và thò tay nhặt những con kiến vàng béo ngậy bỏ vào miệng cho đỡ đói. Ông nguyền rủa đứa nào rủ rê ông đi chơi xa rồi bỏ ông lại một mình. Suốt đêm như thế, tuổi già ăn hết nguyên một tổ kiến vàng, như một con kỳ đà ăn tổ mối… Những chú kiến vàng láu lỉnh không kém, chúng giả vờ chết để trôi tuột vào miệng tuổi già, rồi làm tổ trong đó. Rồi chúng hè nhau gặm ngược trở ra. Cho đến sáng, tuổi già đã bị kiến gặm gần hết, chỉ còn lại cái đầu hoa râm.

Tuổi già cũng chỉ còn lại một – phần – ba!

Lũ thằn lằn núi chơi không biết mệt, chúng chuyền cành trong đêm khuya, cười đùa trong đêm khuya. Tuổi trẻ chơi không biết chán. Nó nằm dài trên cành cây, bọn thằn lằn bu quanh, cắn tay cắn chân cắn đầu cắn đít nó lôi đi, vừa cắn vừa cười nắc nẻ. Đến khi trời sáng rõ, lũ thằn lằn núi bỏ đi. Tuổi trẻ đã bị cắn đứt đầu và đứt hai chân.

Tuổi trẻ, thật trùng hợp, bây giờ cũng chỉ còn lại một – phần – ba!

Trên đỉnh núi cao, khi trời đổ mưa, lạnh không kể xiết. Nhất là khi chúng tôi không còn nguyên vẹn nữa. Vì vậy, chúng tôi gọi tìm nhau giữa muôn trùng hoang vắng. Tuổi trẻ ơi, mày đi lạc phương nào? Tráng niên ơi, mày chơi ở đâu? Tuổi già ơi, nhanh lên tôi đợi? Tiếng chúng tôi vang vọng, như tiếng bướm hát ca, như tiếng núi khóc than. Cuối cùng, chúng tôi cũng tìm thấy nhau, phờ phạc, rách nát, mệt nhoài, dang dở.

Tuổi già lên tiếng trách móc:

“Mả mẹ mày, giờ tao chỉ còn lại chừng này!”

Tuổi trẻ hoang mang:

“Mả mẹ nó, chúng cắn đứt hết, chỉ còn lại chừng này!”

Tuổi tráng niên bâng khuâng:

“Mả mẹ chúng mình, đời còn lại một phần ba”

Ba lần một phần ba sẽ là một nguyên, tôi khẳng định. Thế rồi, chúng tôi thống nhất ráp lại với nhau. Phần thân mình tuổi trẻ gắn với cái đầu tuổi già và đôi chân tôi hiện tại, cọc cạch lắm, vênh lắm, kệch cỡm lắm, khó coi lắm, nhưng biết làm sao được! Miễn là, tôi vẫn vẹn nguyên, tiếp tục lên đường.

Buổi sáng, không biết làm gì, tôi đi xem bướm, buổi chiều, không biết làm gì, tôi đuổi theo bướm, buổi tối cũng không biết làm gì…

Chẳng qua là một cuộc rong chơi./

Nguyễn Văn Thiện
Born: 1975
Home town: Anh Sơn – Nghệ An
Master in Comparative Literature and Critical Theories
Currently a high school teacher, and a prolific writer.
Editor of Chư Yang Sin (Đắk Lắk) Art and Literary Journal.

Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.

sips of blood | Nguyễn Văn Thiện

A short story in Vietnamese by Nguyễn Văn Thiện
Translator: Nguyễn Thị Phương Trâm 
Art: Đinh Trường Chinh

There was no story left to tell. A few days ago, a thief from my place stole all my stories; I lost sleep and I was exhausted. Without the stories, I was a person without a soul. You wouldn’t understand, it’s a long story about the mead, about a familiar mountain and river. The thieves dared took from me these stories. I don’t have a gun, a knife, or any bamboo spear. I was weak; I sat like a little girl wide-eyed as the bullies took her favourite doll. I sat there crying alone!

I resented them, swearing but not too loudly, mumbling quietly, and demolished. Truthfully, the thieves couldn’t care less about my stories,  but amongst the street rats, one of them turned around and challenged me: “What did you just say?”. Mustering up a bit of courage, I raised my voice: “Return my stories to me!”. He drew closer: “What stories? You want to tell us a story?”. Wiping off the tears, I nodded. And the entire gang stopped. Their leader threatened: “you have to tell me a story, a story completely different from the ones I stole from you!”.

Surrounded by knives, and swords, I thought, today was the day I die! Collecting all the courage I possessed, I began: “My nation is the shape of a turtle’s claw, curved and very sharp!”. The general threw his head back in a fit of laughter: ”Oh, that smooth claw, I bought that thing a long time ago!”.

One of the gang members muttered something into their leader’s ear, and they sneered.

“Are you trying to scare us with that tale, know this, even the golden turtle had a price, let alone that smooth claw of yours! Tell me something I don’t know!”. As he spoke, the leader un-scabbard his sword. My feet froze. I said:” When I was little, I grew up by a river full of buried sharp wooden spikes! The enemy ships were destroyed as they entered, for miles and miles the river was bright red with the spilt blood, and the stench pervaded for a thousand autumns…”.

The thieves began to lose their patience, some eyes rolled back as though they were having a seizure. One of them said: “Tell us a different story, that shit, let me tell you, we already own!”.

Up to this point, I was truly baffled, they seemed to know everything, there was nothing they had not bought or were they lying to scare me? They spoke amongst themselves before they all sat down in a circle. A thief with a baby face pulled out a flask of wine from his pocket, poured me a cup, and said: “Our leader thinks you’re the dumbest storyteller he’s ever met, he’s going to give you a flask of this precious wine, finish drinking it then you may continue to serve him with your stories!”

It was definitely poison I thought, and perhaps this was how I’m going to die! I lifted the cup to my lips, the liquid was red and sticky, metallic, horrid, and sickly sweet. Blood! They consume blood! Blood from where? 

One of them pinned me to the ground and forced it down my throat. I heard the blood gurgling from my lips down into my stomach, invading the six principal organs. Is it the blood from the tale of the homeland I just mentioned?

After I had finished drinking the blood, I was tipsy, light-headed, and drunk. When drunk, people forget their fear. I said, “Our blood is the blood of heroes, nurtured and cared for thousands of years, fragrant like the essence from the herbs on Mount Chư Mang! There were those ill-famed thieves who had fought for a taste of it and died with eyes wide open. The traitors denied burial; their bodies festered, rotted ripped apart by vultures”.

A thief laughed with his mouth, half-open, “ Your blood, I’ve also gone and bought!”. He opened his pocket as he spoke, “A pocket full of money!” The gangster said, “This idiot, must be the most stupid storyteller we’ve ever met!”. After he spoke, he stood up, and lit a fire. Mount Chư Mang was in flames; Kroa streams burned, the mead was on fire, the fire spread wildly, gained violent momentum. Then one after the other they left, passing around the flask of blood as they walked away, laughing. Besides the leader and his gang, there were very familiar faces; I’d met time and again. They, with zero remorse, followed the thieves, palms open begging for their sip of blood, as they drank, they laughed, and sang. I screamed amidst the flames: Why did you sell the claw of the golden turtle?”. They did not answer. I continued to shout: “Why did you sell the sharp spikes, our last point of defense in the river from the enemy?” Not a word from them. I screamed again, “Who gave you permission to sell the blood of our heroes?”. They laughed even louder and left, they walked away, guzzling the blood. 

One after the other, they followed each other, no longer bothered with me. I sat amongst burning flames, listening to the numbing blaring thunder coursing through my veins. Everything will turn to dust, including the stories I told. Including mount Chư Mang, including where I’m sitting, including all the thieves that had just left, all shall be ashes. Gone forever were the stories told, the same notes, nothing shall be left for the children of tomorrow.

—–

June 2018

Những ly rượu máu

Truyện ngắn Nguyễn Văn Thiện

       Không có chuyện gì để kể nữa rồi. Có một gã trộm cướp đã lẻn vào nhà và ngang nhiên thò tay nẫng mất câu chuyện của tôi. Mấy ngày rồi, tôi buồn ủ rũ. Không còn chuyện gì để kể, tôi như người mất hồn. Bạn không biết đâu, đó là một câu chuyện dài về thảo nguyên, về ngọn núi dòng sông thân thuộc. Thế mà tên tướng cướp kia, lại dám cướp ngang. Tôi không có súng để bắn, không có dao để đâm, cũng không có chông tre lưỡi lê lưỡi mác. Tôi mềm yếu, đành như cô bé ngồi nhìn con búp bê thương yêu của mình bị kẻ mạnh hơn cướp mất. Rồi ngồi khóc một mình!

       Tôi căm hận, nguyền rủa, nhưng không dám nói to, chỉ lẩm bẩm một mình, đả đảo… Thực tình, tên tướng cướp không thèm để ý lời tôi, nhưng trong bọn lâu la đi theo, có một đứa nghe, bèn quay lại hỏi: “Mày vừa nói gì?”. Tôi làm liều hét lớn: ” Trả câu chuyện lại cho tao?”. Hắn nhe nanh: “Câu chuyện hả? Mày thích kể chuyện đúng không?”. Tôi chùi nước mắt, gật đầu. Thế là cả nhóm đứng lại. Tướng cướp nói: “Mày phải kể cho tao nghe một câu chuyện, một câu chuyện hoàn toàn khác với câu chuyện mà tao vừa lấy, hiểu chưa, hoàn toàn khác!”.

       Xung quanh tôi là những gương mặt ác ôn với dao kiếm tua tủa. Tôi nghĩ, cuối cùng, hóa ra là mình chết theo kịch bản này! Lấy hết can đảm, tôi kể: “Quê hương tôi hình một chiếc móng rùa, cong cong nhưng rất sắc!…”. Tên tướng giặc ngửa cổ cười sằng sặc: “Tưởng gì, cái móng vuốt đó, tao mua lâu rồi!”.

       Một tên lâu la ghé tai nói nhỏ với gã tướng cướp, rồi cả hai đứa gật đầu cười với nhau.

       “Tao biết mày kể chuyện đó để hăm dọa tụi tao, nhưng nói cho mày biết, cả con rùa vàng tụi tao còn mua được, huống chi cái móng vuốt của mày! Thôi, mày kể chuyện khác!”. Vừa nói, gã tướng cướp vừa rút gươm ra. Tôi thấy hai bàn chân lạnh toát. Tôi kể: “Tuổi thơ tôi, sinh ra và lớn lên trên những dòng sông chôn đầy cọc nhọn! Thuyền quân cướp đi vào tan xác, máu đỏ vạn dặm, tanh để nghìn thu…”.

       Bọn cướp, lúc này có vẻ không còn kiên nhẫn được, có đứa mắt vằn lên như say rượu. Một đứa nói: “Mày kể chuyện khác đi, bãi cọc đó, nói cho mày biết, tụi tao cũng mua luôn rồi!”.

       Đến đây thì tôi thực sự hoang mang, sao cái quái quỷ gì chúng nó cũng biết, cũng mua được hết, hay chúng xạo để dọa tôi? Bọn chúng nói gì đó với nhau rồi lần lượt ngồi lại, vòng tròn. Một tên cướp mặt non choẹt rút trong túi áo ra một chai rượu, rót cho tôi một ly, nói, thủ lĩnh thấy mày là đứa kể chuyện đần độn nhất mà ngài từng gặp, ngài ban cho mày một ly rượu quý, uống xong để kể tiếp hầu chuyện ngài!

       Tôi nghĩ, rượu độc đây mà, có lẽ chúng sẽ giết tôi bằng cách này! Tôi đưa ly rượu lên miệng, đỏ lòm, tanh lợm. Máu! Chúng uống máu! Máu ở đâu ra?

Một gã đè tôi ra đổ ly rượu vào miệng tôi. Tôi nghe máu chạy rần rật từ miệng xuống dạ dày, lan sang lục phủ ngũ tạng. Hay là máu trong câu chuyện về quê hương mà tôi đang kể?

       Sau khi uống cạn ly máu, tôi say, chếnh choáng như say rượu. Khi say, người ta quên sợ. Tôi kể: “Máu của chúng tôi là dòng máu anh hùng, được chưng cất từ hàng ngàn năm, thơm như dầu thảo mộc trên núi Chư Mang! Có những tên cướp khét tiếng hung hãn sau khi uống máu vào thi say và chết trợn mắt. Còn những kẻ phản bội thì sau khi chết không được chôn, xác thối rữa làm mồi cho diều quạ”.

       Tên tướng cướp cười nửa miệng: “Máu của tụi mày, tao cũng mua nốt!”. Nói rồi hắn mở túi ra: Nguyên một túi tiền đầy ắp! Mấy tên lâu la nói: “Thằng này, đúng là đứa kể chuyện đần độn nhất mà chúng ta từng gặp!”. Nói rồi, chúng nó đứng dậy, thản nhiên châm lửa đốt. Núi Chư Mang cháy phừng phừng, suối Kroa cháy, thảo nguyên cháy, lửa lan mỗi lúc mỗi nhanh, dữ dội, cuồng loạn. Rồi chúng nó kéo nhau đi, vừa đi vừa chia nhau bầu máu, vừa uống vừa cười hả hê. Ngoài tên thủ lĩnh và bọn lâu la, có cả những gương mặt rất quen, tôi đã từng gặp nhiều lần. Chúng cam tâm đi theo lũ cướp, ngửa tay xin từng ly máu đỏ bầm, uống, và cười, và hát. Tôi hét trong lửa cháy: “Tại sao chúng mày bán móng vuốt rùa vàng?”. Chúng nó không trả lời. Tôi hét tiếp: “Tại sao chúng mày bán cọc nhọn trừ giặc ở trên sông?”. Chúng nó vẫn không hé răng. Tôi hét nữa: “Ai cho tụi mày bán dòng màu anh hùng cho giặc cướp?”. Chúng nó cười sằng sặc và bỏ đi, vừa đi vừa chia nhau uống máu.

       Chúng kéo nhau đi rồi, không thèm để ý đến tôi nữa. Tôi ngồi giữa mênh mông lửa cháy, nghe gió gầm bão giật tái tê trong huyết quản của mình. Tất cả rồi sẽ thành tro bụi, cả câu chuyện đau thương mà tôi vừa kể. cả núi Chư Mang, cả chỗ tôi đang ngồi, cả chỗ bọn cướp mới đi qua, rồi tro bụi hết. Chỉ còn lại muôn đời những câu chuyện kể, trùng trùng, điệp điệp, để lại cho con cháu mai sau.


Nguyễn Văn Thiện
Born: 1975
Home town: Anh Sơn – Nghệ An
Master in Comparative Literature and Critical Theories
Currently a high school teacher, and a prolific writer.
Editor of Chư Yang Sin (Đắk Lắk) Art and Literary Journal.

Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.