HOW TO CONFESS… | Nguyễn Thị Minh Ngọc

Nguyễn Thị Minh Ngọc

thơ Nguyễn Thị Minh Ngọc
Nguyễn Thị Phương Trâm dịch

how to confess your love and not lose it
grill other people on how to for the first time love
the unknown doors to brave new worlds
words
vernacular of the flesh
wordless gaze
forget them
run
and that includes death
and still most unfamiliar is affection
the unmet gaze of those we love
dumb anxieties may it be a mean or kind dream

ah who am I to say
to have lived this long to never again love
head first into a river called life
like a fish out of water
craving for death
the way the marriage bed had denied me
as we laugh and cry half a lifetime withered away
by the games we play
cross stitches of pride over shame and humiliation
ignoring the sting of bindii
under foot mistaking it for a lover
love came out of nowhere
over the mountains
through the ravines of a life spent
may it be life or death matter - no
the enthusiasm for oblivion

discerning the bitter struggle
smells of an impending storm
hid behind mirrors of illusions
the way storms are imprisoned
in the smallness of one's fist
as the clouds in the sky would hid
the affections reflected
a fox with nine tails abstained
from worldly interactions for 999 years
and 364 days and its tails are dripping
teary still
cunning enough to get marry
to avoid being strike down by lightning
cunning enough to get marry
as a glorify way to confess
love
regardless of a love that is not real
regardless of the agony of true pain
regardless of how harden humanity had become
in its wisdom water could still break
a misguided spirit guardian howling in the dark
enough fret to trouble the moon

LÀM THẾ NÀO…

 
Làm thế nào để tỏ tình mà tình không biến mất
tra vấn tha nhân bài học vỡ lòng yêu
Những cánh cửa đời xa lạ biết bao-
lời,
ngôn ngữ thân xác,
mắt câm,
quên nó đi,
chạy,
và cả chết…
Nhưng xa lạ nhất vẫn là tình
Người mà ta không dám ngó vào mắt khi đối diện
ngẩn ngơ lo cơn mộng dữ hay lành

Ôi ta,
sống đến đây tưởng như không bao giờ yêu được nữa
lao vào dòng sống ngày mỗi ngày
như cá lao mình khỏi nước
nhìn cái chết thèm thuồng
như nhìn chiếc giừơng cưới luôn chối từ ta
tàn nửa đời trộn cười khóc làm trò chơi
đan xéo lòng kiêu nhòa nỗi nhục
giả dại hôn ngọn cỏ châm đau mà ngỡ người tình
Chợt tình đến,
ngang tàng núi non,
lạnh lẽo huyệt thẳm
mòn sống,
thờ ơ chết,
nồng nhiệt với hư vô

Cảm được vị đắng nhọc nhằn,
mùi giông sắp đến
đành nhốt tình sau tấm gương bóng ảo chờn chờn
như nhốt bão trong lòng tay nhỏ
như vùa mây đỉnh trời che kính chiếu yêu
hồ ly tu 999 năm 364 ngày,
đuôi còn nhỏ lệ
mưu toan kết hôn chạy trốn sét trời
mưu toan kết hôn như để tỏ tình
Yêu,
bất chấp tình ảo
bất chấp nỗi đau đớn thật
bất chấp ngọc người ngàn năm tri thức tan bóng nước
Tịch tà lạc bóng
âm âm tiếng hú gợn nhàu trăng



Nguyễn Thị Minh Ngọc

Director Nguyễn Thị Minh Ngọc, born 5 August 1953 in Bà Rịa, Vietnam. She graduated from stage directing in 1980, trained as an actor at the Ho Chi Minh City School of Theater and Cinema and Tran Huu Trang Theater. She was a student of director Nguyen Tuong Tran (second generation disciple of Konstantin Stanislavski), trained as a cải lương performer with People’s Artist Phung Ha, and she trained many renowned native and international drama and cải lương artists like: Meritorious Artist Huu Chau, Huu Nghia, Hong Dao, Quang Minh, Meritorious Artist Huu Quoc, Meritorious Artist My Hang, Luong My, Mai Lan, Hoa Hiep, Xuan Trang, Thanh Phuong.

She taught the subjects of Screenwriting, Drama Theory and History of Vietnamese Theatre at several colleges and universities, co-founded the Experimental Directing Club (1985), staged about 30 traditional and contemporary plays, wrote about 70 traditional and contemporary plays for the stage and about 30 scripts for cinema, hundreds of episodes for television, several research works on theatre and reformed opera, attended many festivals, seminars, composed and researched on theatre and education in the country and in Australia, England, France, Germany, Tanzania, Norway, Sweden, Philippines, USA, Indonesia, and was the stage personality of the year 2004 voted by Vietnam Television.

She was an actress for the stages: 5B Vo Van Tan, Idecaf… The roles that the audience remembers: Otilia, The Chicken Raising Girl & The Old Girl (Du Luan Quan Chung), Aunt Ba Kim Duyen (Ngoi Nha Khong Dan Men), Grandma (Cau Dong), Grandma Ca & Grandma To Gia (Long Dang Do Cao), Grandma (Tam Nguoi Dan Ba), Crazy Audience (Thuong Hoai Ngan Nam), Grandma Hanh Ngo (Mot va cua toi?). The most recent role was Grandma Vu in the MV Tan Vo with Dam Vinh Hung and Nhan Phuc Vinh.[1] The performance “The Last Romantic” is a 60-minute solo performance made up of ten tragicomic monologues that Nguyen Thi Minh Ngoc used to illustrate her talks about theater at universities in and outside the country.

In addition, she is also a member of the Writers, Theater, and Cinema Associations, and is one of the 20 outstanding writers of Ho Chi Minh City selected by the Ho Chi Minh City Writers Association.

She is the first Vietnamese woman to bring Vietnamese works to the off-off Broadway stage in New York as an author, director and actress, including: Lost Woman (2008) and We Are… (2011). She was selected as the highlight of the Vietnamese International Film Festival (VIFF) in the US (2007).

In addition to documentaries about Nguyen Thi Minh Ngoc produced by VTV, HTV, Binh Duong, and Long An television stations, in 2015, director Hung Phuong made the documentary “Nguyen Thi Minh Ngoc – The Treasure Keeper of Gold and Jade” 19’36” long and won first prize in the “I Preserve Beauty” contest.


Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.

the words in gold | Lê Vĩnh Tài

Manly beach, Australia. Photography: Nguyễn Thị Phương Trâm

A short story in Vietnamese by Lê Vĩnh Tài
Translator: Nguyễn Thị Phương Trâm

I bled listening to you talk, do you remember. You would tell us these amazing fairy tales about the words in gold.

When I left after your stories, the sea was completely placid. It was nothing but a red reflection due to the dull greyish boat’s headlights. A glare here and there from the water was just enough for me to work out the shape of a person.

I don’t remember exactly. The features of his face change constantly in my mind, including his fancy pompous getup and demeanour. Except for a cold heart that was ever unchanging. I was chilled to the bone. I don’t know why I listened to you so intently, the discourse in your words was made of gold. Or perhaps I was simply mad. I would wake up the next morning with wrists laden in gold bangles and bracelets made out of words in gold.

I know you’re not an ordinary thief. You’re someone who’s looking for gold. Or perhaps you’re the last prospector at sea? You want people to dig a tunnel with you through the aching loneliness of the sea, and of course, there will be diggings in the streets. Not a simple job. I realised after attaining the words in gold, I will always be red. Oh forgive me, victims of my beloved sea. I can but console myself, if something went wrong, and the price of gold is not so hot right now.

Like me, you will not sell the gold you just gathered. Those with hundreds of rings, necklaces, alluring bracelets often sell them without knowing the true value of their gold.

Gold is someone else’s pain, but in contrast a source of your joy. Gold is also the air I breathe, inhaling it through the nights I dance in the moonlight, unlike our ancestors who stayed up only to sharpen their swords.

Now and then I would ponder about the fate of my treasure trove full of gold. I decided, once there was enough, I will forge a bust of myself from pure gold, unadulterated, brilliant gold, take it out on a boat and drop it into the sea. It makes us happy when no one dares lay their eyes on it. In order to confirm that there will always be words of gold deep within your heart and mine.

But different is our relationship with the sea, it will be a bond of agony for us all, dragging on and on brilliantly, endlessly, forever blue…

___

June 2021

NHỮNG CHỮ VÀNG… 

Bạn nhớ không, tôi đã chảy máu khi ngồi nghe bạn phát biểu. Bạn hay kể một câu chuyện cổ tích tuyệt vời về những chữ bằng vàng.  

Khi tôi quay về sau khi nghe bạn nói chuyện đêm hôm ấy, biển vắng tanh. Nó chỉ được chiếu sáng bởi ánh sáng màu đỏ quạch của đèn pha sứt mẻ từ những con thuyền màu xám xịt. Chút ánh sáng lẻ loi hắt lên từ những vũng nước, vừa đủ cho tôi nhìn thấy, hình như có một dáng người. 

Tôi không thể nhớ chính xác được. Hắn ta luôn luôn thay đổi gương mặt trong bộ nhớ của tôi, cả thứ trang phục cầu kỳ đỏm dáng. Chỉ có trái tim băng giá của hắn thì không bao giờ thay đổi. Tôi thấy lạnh buốt. Không biết lý do tại sao tôi lắng nghe bạn, với bài phát biểu viết bằng những chữ vàng. Hay chỉ đơn giản là tôi đã phát điên. Tôi thức dậy vào sáng hôm sau với hai cổ tay đeo đầy những vòng vàng làm bằng những con chữ.

Tôi biết bạn không phải là một tên trộm thông thường. Bạn là một người tìm vàng. Hay là một thợ mỏ cuối cùng còn lại trên mặt biển? Bạn muốn mọi người cùng với bạn đào một đường hầm trong sự cô độc đớn đau của biển, và chắc chắn rồi đây sẽ phải đào trên đường phố. Không phải là dễ dàng. Có được những chữ vàng, tôi mới nhận ra mình vẫn mãi mãi màu đỏ. Tha thứ cho tôi, những nạn nhân trên biển thân yêu của tôi. Và tôi tự an ủi mình rằng, nếu có gì không tốt thì chỉ tại lúc này vàng chưa sốt giá.

Cũng như tôi, bạn không bao giờ bán những chữ vàng bạn mới thu được. Những kẻ có hàng trăm chiếc nhẫn, dây chuyền, vòng đeo tay quyến rũ thường hay bán đi vì không hiểu giá trị của chữ vàng.

Vàng là nỗi đau của ai đó, nhưng là niềm vui của bạn. Vàng cũng là không khí của tôi, tôi hít thở mỗi đêm khi phải nhảy múa dưới trăng, không như ngày xưa tiền nhân chỉ biết thức đêm mài kiếm. 

Đôi khi tôi suy nghĩ về số phận kho vàng của tôi. Cuối cùng, khi đã tích lũy đủ, tôi sẽ làm một bức tượng bán thân của mình từ vàng ròng, tinh khiết và vàng rực rỡ, và tôi sẽ chở ra bằng thuyền để ném nó xuống biển. Nó làm chúng ta vui khi không còn ai dám nhìn nó. Để biết rằng luôn luôn có những chữ vàng trong thâm tâm của bạn và tôi. 

Nhưng tình yêu với biển thì khác, nó sẽ cùng với nỗi đau, cùng với mọi người, kéo dài và xanh biếc, mãi mãi…


Lê Vĩnh Tài, the poet and translator born in 1966 in Buon Ma Thuot, Daklak, Vietnam. The retired doctor is still a resident of the Western Highlands and a businessman in Buon Ma Thuot.

Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.

Butterflies high in the mountain | Nguyễn Văn Thiện

2014 Spring in Seoul. Photography: Nguyễn Thị Phương Trâm

A short story in Vietnamese by Nguyễn Văn Thiện
Translator: Nguyễn Thị Phương Trâm 
Published first on litviet.net

The highland is entering the season of rain, beginning the season of rain also means the beginning of the butterfly season. So many untold numbers of butterflies and I am incredibly free. In the morning with nothing to do, I go to watch the butterflies, in the afternoon with nothing to do, I chase after the butterflies, in the evening with nothing to… Life is just an epic journey in play. But I’m a coward, going up the mountain I can’t go alone, I ask my whole childhood and senior years to come along.

In me are three of us: I am now an adult, and I am as before a child, and I am as will be geriatric. The three of us play together amicably, protecting, like father and sons, like three brothers or grandpa and grandsons. The child exclaimed happily: Oh, it’s so beautiful, they have both yellow and white! The adult with a smirk on his face looking at pearly colour petals, while the old man is sombre, staring at something far in the distance on the top of the mountain. The child was skipping along and whistling, the adult strolls, as the old man bent over meandering his way. The three of us decided to climb Mount Chư Mang together.

Halfway up the incline, the geriatric stays back to rest, massaging his knees cursing under his laborious wheeze. The child side step happily skipped away into the distance. Left is the adult, calmly continuing his way forward. On Mount Chư Mang there’s a fresh spring that runs the four seasons continuously, continually bubbling. I lifted my nostrils inhaling etching the direction. There are so many butterflies up there—the lazy wings brilliant butterflies all day sipping water singing and dancing. Life is full of joy. My head was hurrying my footsteps—the higher up the climb, my skin, a layer of cool goosebumps. At the start, there were three of us, now, no way near, I’m alone. Lonely, I called out: Child, where have you disappeared! Old man, hurry up I’m waiting! Only the moaning of the mountain returns in reply. Then there was a sound echoing from the top, some inviting laughter or challenge.

Dusk, the light roast gold the extending limbs of blooming crepe myrtle. The child lifted his eyes. A lounge of mountain lizards moving from branch to branch. Each lizard jaw held onto the other tail in a long line. The child, animated by it, stopped to watch, distracted. He forgets the road ahead is still very long, the water spring is still way ahead at the top of the mountain, very far away! But butterflies, to a child, it’s just another game, at the moment he likes this game of biting the tail in front of the mountain lizards. The mountain lizards invited the child to join, he enthusiastically joined in. He bites the tail of the one in front, holds out his hand to hold onto the head of the one from behind, jumping from branch to branch. In the meantime, the geriatric is tired, meandering the path, nearly there, nearly there, he audibly pushed himself in every step.

I came upon the spring of cold water at dusk. In a little bit, the shadow of night falls. Squatting by a boulder, scooping up the water washed my face. No butterflies. Perhaps, after a long day of frolicking those pretty butterflies have returned to reside on the spines of leaves for the night. I fished out many wings from the water, brought it to my nose; a bewildering fragrant. The scent of trees and grass, water, or is it of the wind, of the earth, of Mount Chư Mang? I carefully layered each pair of wings on a boulder, to make a mat, a blanket, and fell asleep. Have you ever fallen asleep in such a way? It’s amazing. A peaceful sleep, dreamless, no nightmares, no grinding teeth, no snoring nor mumbling. And in the morning, when the sunlight is bright on my face, I step down from the boulder by the spring, my body completely light.

I’m only but a – third left!

No head, no chest, no stomach, just legs stuck onto the crease of my loins, like a body ravaged by a wild cat, half-swallowed, left behind the bottom part. I walked away as light as though I’m flying. And at that moment, the butterflies appear. We danced, and we sang. In the end, to live is to play, the butterflies whispered into my ears.

While I slept beneath the infinite wings, the old man crawled into a hollow of a tree. He’s all scrunched up waiting for nightfall. He couldn’t sleep, he complains as he tucked into a meal of fat gold ants to tame the hunger, like a Komodo dragon feasting on a mountain of termites. Those cheeky ants played death so they can slide smoothly into the stomach of the man, and build a nest. Then in a frenzy, the ants gnawed the geriatric from the inside out. By the morning, nothing was left of the old man’s body, but his hairy head.

The geriatric also only has a – third left!

The lounge of lizards played non-stop without ever a sign of tiring, moving from branch to branch all night, laughing all night. The child was never bored. He laid the length of the tree branch, the lizards crowding him, bit off his hands, his head, his butt and dragged it away, biting and laughing merrily. When morning came, the lizards left. The child’s head has been bitten off together with his legs.

The child, in the same scenario, now also has only a – third left!

At the top of the mountain, when it rains, it’s unbelievably cold — especially if you’re no longer whole, as the three of us. Hence, we looked for each other amidst the vast emptiness. Child, which direction are you lost? Hey adult, where are you having fun? Old man, hurry up I’m waiting? Our voices were echoing, like butterflies in song, like the weeping of a mountain. In the end, we found each other, out of breath, tattered, exhausted, unfished.

The old man whining censures:

“You guys, now I’m only this much left!”

The child all confused:

“They, they bit everything off, there’s only this much left!”

The adult conceptualise: 

“Heck what has happened to us, life is now only a third.”

Three times one part three shall become a whole, I decided. That’s it, and we decided to unite as one. The body of the child with the head of the geriatric and the pair of my present legs, buckling, distorted, hard to look at, but what could we do! As long as we’re whole, to continue on our way.

In the morning with nothing to do, I go to watch the butterflies, in the afternoon with nothing to do, I chase after the butterflies, in the evening with nothing to…

It’s a mere epic search for play./

[May 2019]

Bướm trên núi cao

Tây nguyên chớm vào mùa mưa, chớm mùa mưa cũng là bắt đầu mùa bướm. Bướm nhiều vô kể, mà tôi thì rảnh vô cùng. Buổi sáng, không biết làm gì, tôi đi xem bướm, buổi chiều, không biết làm gì, tôi đuổi theo bướm, buổi tối cũng không biết làm gì… Đời chỉ là một cuộc rong chơi. Nhưng tôi vốn nhát, khi lên núi không dám đi một mình, tôi rủ cả tuổi thơ và tuổi già của tôi cùng đi luôn thể.

Trong tôi có ba đứa: Tôi hiện tại tráng niên và tôi ngày xưa tuổi nhỏ và tôi ngày sau tuổi già. Ba đứa chơi với nhau hòa thuận, đùm bọc, yêu thương như ba cha con, ba anh em hoặc ba ông cháu. Tôi tuổi thơ reo vui: Ồ, đẹp quá đi, lũ chúng nó đều có màu vàng và màu trắng! Tôi tráng niên nhếch mép nhìn theo những cánh hoa màu ngọc, trong khi tuổi già trầm ngâm nhìn cái gì xa xôi trên đỉnh núi. Tuổi thơ vừa đi vừa nhảy vừa huýt sáo, tráng niên bước chậm rãi, tuổi già lọ mọ dò đường. Ba đứa chúng tôi rủ nhau lên núi Chư Mang…

Lên đến nửa dốc, tuổi già ngồi nghỉ lại, vừa đấm vào gối vừa lầm bầm than thở hoặc chửi rủa. Tuổi thơ tung tăng rẽ dọc rẽ ngang rồi mất hút. Chỉ còn lại tráng niên điềm tĩnh bước. Trên núi Chư Mang có một khe nước mát lạnh, nước chảy bốn mùa, dầm dề phồn thực. Tôi ngửa mũi khịt khịt đánh hơi tìm hướng để đi. Trên ấy tha hồ bướm. Những cánh bướm sặc sỡ lười biếng suốt ngày uống nước và múa hát. Đời vui biết mấy. Đầu giục chân bước nhanh. Càng lên cao càng lạnh đến sởn da gà. Khi đi có ba người, bây giờ, nơi lưng chừng dốc, chỉ còn lại một tôi. Cô đơn quá, tôi gọi: Tuổi thơ ơi, mày lạc đâu rồi! Tuổi già ơi, nhanh lên tôi đợi! Chỉ có tiếng núi hú hét đáp trả, chỉ có tiếng lá rì rào đáp trả. Có tiếng gì từ trên đỉnh cao xanh vọng xuống, như một tiếng cười mời mọc hoặc thách đố.

Xế chiều, nắng vàng rộm trên vạt bằng lăng trổ bông. Tuổi thơ ngước mắt lên nhìn. Nó thấy một bầy thằn lằn núi đang chuyền cành. Con nọ cắn vào đuôi con kia thành một hàng dài. Tuổi thơ thích quá đứng hẳn lại xem và cổ vũ. Nó quên rằng, đoạn đường phía trước còn rất dài, khe nước ở tít mãi trên đỉnh núi cơ, xa lắm! Với lại, bướm, đối với tuổi thơ, chỉ là một trò chơi xa lạ, nó thích trò cắn đuôi của bọn thằn lằn núi. Bọn thằn lằn mời tuổi thơ chơi, nó nhiệt tình tham gia ngay. Nó cắn miệng vào đuôi một con phía trước, tay đưa ra sau nắm đầu một con khác, rồi chuyền cành. Trong khi đó, tuổi già mỏi mệt dò đường, sắp đến rồi, sắp đến rồi, ông ta vừa bước vừa tự động viên…

Tôi bước đến gần khe nước lạnh vào cuối chiều. Chỉ một chút nữa thôi là bóng đêm sẽ đổ xuống. Ngồi bên tảng đá, vục nước rửa mặt. Không có bướm. Có lẽ, những bạn bướm xinh đẹp sau một ngày múa hát mệt mỏi đã tìm về ngủ sau vòm lá. Tôi vớt được từ dưới suối rất nhiều đôi cánh, đưa lên mũi ngửi, rất thơm. Hương thơm của cỏ cây, của nước, hay của gió, của đất trời, của núi Chư Mang? Tôi tỉ mẩn xếp những đôi cánh lại trên tảng đá, làm chiếu, làm chăn, và ngả lưng nằm ngủ. Bạn đã bao giờ ngủ như thế này chưa? Tuyệt lắm. Giấc ngủ bình yên, không hề chiêm bao, không hề mộng mị, không nghiến răng, kéo gỗ hay chép miệng. Và sáng ra, trở dậy khi nắng bừng trước mặt, tôi bước xuống khỏi tảng đá bên suối, thấy mình nhẹ bẫng.

Tôi chỉ còn lại một – phần – ba!

Không còn đầu, không còn ngực, không còn bụng, chỉ còn đôi chân dính vào khớp háng, như một xác người bị hổ vồ, nuốt dở, còn sót lại phần dưới. Tôi bước đi nhẹ bẫng như bay. Và khi đó, các bạn bướm bắt đầu xuất hiện. Chúng tôi nhảy múa và hát tưng bừng. Cuối cùng, sống cũng chỉ để chơi thôi, các bạn bướm thơm lừng ghé vào tôi nói nhỏ.

Khi tôi ngủ trong vô vàn cánh bướm thì tuổi già chui vào một hốc cây. Ông ta ngồi thu lu trong đó đợi đêm tàn. Tuổi già thật khó ngủ, ông ta than thở như vậy và thò tay nhặt những con kiến vàng béo ngậy bỏ vào miệng cho đỡ đói. Ông nguyền rủa đứa nào rủ rê ông đi chơi xa rồi bỏ ông lại một mình. Suốt đêm như thế, tuổi già ăn hết nguyên một tổ kiến vàng, như một con kỳ đà ăn tổ mối… Những chú kiến vàng láu lỉnh không kém, chúng giả vờ chết để trôi tuột vào miệng tuổi già, rồi làm tổ trong đó. Rồi chúng hè nhau gặm ngược trở ra. Cho đến sáng, tuổi già đã bị kiến gặm gần hết, chỉ còn lại cái đầu hoa râm.

Tuổi già cũng chỉ còn lại một – phần – ba!

Lũ thằn lằn núi chơi không biết mệt, chúng chuyền cành trong đêm khuya, cười đùa trong đêm khuya. Tuổi trẻ chơi không biết chán. Nó nằm dài trên cành cây, bọn thằn lằn bu quanh, cắn tay cắn chân cắn đầu cắn đít nó lôi đi, vừa cắn vừa cười nắc nẻ. Đến khi trời sáng rõ, lũ thằn lằn núi bỏ đi. Tuổi trẻ đã bị cắn đứt đầu và đứt hai chân.

Tuổi trẻ, thật trùng hợp, bây giờ cũng chỉ còn lại một – phần – ba!

Trên đỉnh núi cao, khi trời đổ mưa, lạnh không kể xiết. Nhất là khi chúng tôi không còn nguyên vẹn nữa. Vì vậy, chúng tôi gọi tìm nhau giữa muôn trùng hoang vắng. Tuổi trẻ ơi, mày đi lạc phương nào? Tráng niên ơi, mày chơi ở đâu? Tuổi già ơi, nhanh lên tôi đợi? Tiếng chúng tôi vang vọng, như tiếng bướm hát ca, như tiếng núi khóc than. Cuối cùng, chúng tôi cũng tìm thấy nhau, phờ phạc, rách nát, mệt nhoài, dang dở.

Tuổi già lên tiếng trách móc:

“Mả mẹ mày, giờ tao chỉ còn lại chừng này!”

Tuổi trẻ hoang mang:

“Mả mẹ nó, chúng cắn đứt hết, chỉ còn lại chừng này!”

Tuổi tráng niên bâng khuâng:

“Mả mẹ chúng mình, đời còn lại một phần ba”

Ba lần một phần ba sẽ là một nguyên, tôi khẳng định. Thế rồi, chúng tôi thống nhất ráp lại với nhau. Phần thân mình tuổi trẻ gắn với cái đầu tuổi già và đôi chân tôi hiện tại, cọc cạch lắm, vênh lắm, kệch cỡm lắm, khó coi lắm, nhưng biết làm sao được! Miễn là, tôi vẫn vẹn nguyên, tiếp tục lên đường.

Buổi sáng, không biết làm gì, tôi đi xem bướm, buổi chiều, không biết làm gì, tôi đuổi theo bướm, buổi tối cũng không biết làm gì…

Chẳng qua là một cuộc rong chơi./

Nguyễn Văn Thiện
Born: 1975
Home town: Anh Sơn – Nghệ An
Master in Comparative Literature and Critical Theories
Currently a high school teacher, and a prolific writer.
Editor of Chư Yang Sin (Đắk Lắk) Art and Literary Journal.

Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.

CONTRITION | Lê Vĩnh Tài

Sông Hương, Huế, Việt Nam Winter 2025. Photography Nguyễn Thị Phương Trâm

A short story in Vietnamese by Lê Vĩnh Tài
Translator: Nguyễn Thị Phương Trâm

1.

She walked through fire for him, a stranger with a blistering scaly chameleon soul. Her act has nothing to do with composing poetry, but escaped from her choking proletarian sadness were the disturbing memoirs, with her, the books of fiction stood up.

The acquaintance, or stranger right there, a blistering scaly chameleon soul, couldn’t sleep under all the whirlwind and clay mixed in with the mud and blood in her groundwater. She made a promise with the moon high up in the sky and decided to bring home the whirlwind and the battling flicker of fire.

All the memoirs in her house were set on fire as she followed the moon, except for an abandoned newspaper clipping. Other than the battling flicker of a flame and wavering judgement, he lectured about redemption, though openly he was secretive. Her newspaper article is now an abandoned grey mountain side chapel. The mountain, where it was green, has turned red and yellow, the colour had to be gold not yellow. Before he was satisfied. Even better, if it was diamond. She lectured about redemption, but instead he fell into the pits of ever changing despair from a hymn, he was so disappointed about how far she had strayed. 

Yellow is the colour of jealousy she said, before she proceeded to walk through fire because of him.

2.

She said: it’s noisy, it’s too noisy. 

She said: they were my saviours, how could they do this to me?

Quietly I talked to her as I stared at the dining table and its vacant chair. On death row no one has to pay for their last meal. Because you will pay with your body, until you’re destroyed because no one could ever return a soul that has been stolen. They will leave behind the shell of a ghostly spirit, and you will suddenly find that your you are black and blue, bleeding out just enough blood before you crumble.

She said again just then: it’s too noisy.

September 2022

_

SÁM HỐI

1.

nàng đã băng qua lửa vì hắn, một kẻ xa lạ với tâm hồn tắc kè hoa bị rạn nứt. Nàng không làm thơ, nàng đã vượt qua sự u uất vô sản bằng những bài bút ký lầm lạc, nàng đứng lên cùng với những quyển tiểu thuyết.

người dưng, hay kẻ xa lạ vẫn còn đó, một linh hồn tắc kè hoa bị rạn nứt, hắn không ngủ yên dưới những chấn động của gió và đất sét pha bùn và máu trong mạch nước ngầm của nàng. Nàng đã hứa với mặt trăng ở trên cao và đã dẫn về nhà sự chấn động của gió và những nhịp đập chập chờn của lửa.

những bài bút ký bị cháy khi nàng đi theo mặt trăng, nhà của nàng chỉ còn một bài báo bị bỏ hoang. Ngoài những nhịp đập chập chờn của lửa và bản án mờ nhạt, hắn đã rao giảng về sự cứu rỗi, nhưng lại tỏ ra bí mật. Bài báo của nàng bây giờ như một nhà thờ màu xám bị bỏ hoang nơi vách núi. Núi, nơi ấy màu xanh thành màu đỏ và màu vàng chính là vàng chứ không phải màu vàng. Vậy thì hắn mới chịu. Kim cương càng tốt. Nàng đã rao giảng về sự cứu rỗi, nhưng hắn lại rơi vào những vực sâu đầy biến động của một bài thánh ca và trách móc nàng đã sai lầm.

màu vàng chỉ là sự ghen tị, nàng nói và sau đó đã vượt qua lửa vì hắn.

2.

nàng nói: ồn ào quá, nó quá ồn ào.

nàng nói: họ đã cứu tôi, nhưng tại sao lại xảy ra chuyện này?

tôi thì thầm với nàng khi nhìn vào một chiếc bàn ăn vẫn còn trống một ghế. Bữa ăn cuối cùng của tử tội không ai phải trả tiền. Vì cơ thể của bạn sẽ trả, cho đến khi bạn tan nát vì không ai có thể trả lại linh hồn đã bị đánh cắp của bạn. Họ để lại vỏ bọc của một hồn ma, bạn tình cờ bầm tím, khi bạn chảy máu vừa đủ để gục xuống.

Nàng vẫn nói: nó quá ồn ào.


Lê Vĩnh Tài, the poet and translator born in 1966 in Buon Ma Thuot, Daklak, Vietnam. The retired doctor is still a resident of the Western Highlands and a businessman in Buon Ma Thuot.

Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.

sips of blood | Nguyễn Văn Thiện

A short story in Vietnamese by Nguyễn Văn Thiện
Translator: Nguyễn Thị Phương Trâm 
Art: Đinh Trường Chinh

There was no story left to tell. A few days ago, a thief from my place stole all my stories; I lost sleep and I was exhausted. Without the stories, I was a person without a soul. You wouldn’t understand, it’s a long story about the mead, about a familiar mountain and river. The thieves dared took from me these stories. I don’t have a gun, a knife, or any bamboo spear. I was weak; I sat like a little girl wide-eyed as the bullies took her favourite doll. I sat there crying alone!

I resented them, swearing but not too loudly, mumbling quietly, and demolished. Truthfully, the thieves couldn’t care less about my stories,  but amongst the street rats, one of them turned around and challenged me: “What did you just say?”. Mustering up a bit of courage, I raised my voice: “Return my stories to me!”. He drew closer: “What stories? You want to tell us a story?”. Wiping off the tears, I nodded. And the entire gang stopped. Their leader threatened: “you have to tell me a story, a story completely different from the ones I stole from you!”.

Surrounded by knives, and swords, I thought, today was the day I die! Collecting all the courage I possessed, I began: “My nation is the shape of a turtle’s claw, curved and very sharp!”. The general threw his head back in a fit of laughter: ”Oh, that smooth claw, I bought that thing a long time ago!”.

One of the gang members muttered something into their leader’s ear, and they sneered.

“Are you trying to scare us with that tale, know this, even the golden turtle had a price, let alone that smooth claw of yours! Tell me something I don’t know!”. As he spoke, the leader un-scabbard his sword. My feet froze. I said:” When I was little, I grew up by a river full of buried sharp wooden spikes! The enemy ships were destroyed as they entered, for miles and miles the river was bright red with the spilt blood, and the stench pervaded for a thousand autumns…”.

The thieves began to lose their patience, some eyes rolled back as though they were having a seizure. One of them said: “Tell us a different story, that shit, let me tell you, we already own!”.

Up to this point, I was truly baffled, they seemed to know everything, there was nothing they had not bought or were they lying to scare me? They spoke amongst themselves before they all sat down in a circle. A thief with a baby face pulled out a flask of wine from his pocket, poured me a cup, and said: “Our leader thinks you’re the dumbest storyteller he’s ever met, he’s going to give you a flask of this precious wine, finish drinking it then you may continue to serve him with your stories!”

It was definitely poison I thought, and perhaps this was how I’m going to die! I lifted the cup to my lips, the liquid was red and sticky, metallic, horrid, and sickly sweet. Blood! They consume blood! Blood from where? 

One of them pinned me to the ground and forced it down my throat. I heard the blood gurgling from my lips down into my stomach, invading the six principal organs. Is it the blood from the tale of the homeland I just mentioned?

After I had finished drinking the blood, I was tipsy, light-headed, and drunk. When drunk, people forget their fear. I said, “Our blood is the blood of heroes, nurtured and cared for thousands of years, fragrant like the essence from the herbs on Mount Chư Mang! There were those ill-famed thieves who had fought for a taste of it and died with eyes wide open. The traitors denied burial; their bodies festered, rotted ripped apart by vultures”.

A thief laughed with his mouth, half-open, “ Your blood, I’ve also gone and bought!”. He opened his pocket as he spoke, “A pocket full of money!” The gangster said, “This idiot, must be the most stupid storyteller we’ve ever met!”. After he spoke, he stood up, and lit a fire. Mount Chư Mang was in flames; Kroa streams burned, the mead was on fire, the fire spread wildly, gained violent momentum. Then one after the other they left, passing around the flask of blood as they walked away, laughing. Besides the leader and his gang, there were very familiar faces; I’d met time and again. They, with zero remorse, followed the thieves, palms open begging for their sip of blood, as they drank, they laughed, and sang. I screamed amidst the flames: Why did you sell the claw of the golden turtle?”. They did not answer. I continued to shout: “Why did you sell the sharp spikes, our last point of defense in the river from the enemy?” Not a word from them. I screamed again, “Who gave you permission to sell the blood of our heroes?”. They laughed even louder and left, they walked away, guzzling the blood. 

One after the other, they followed each other, no longer bothered with me. I sat amongst burning flames, listening to the numbing blaring thunder coursing through my veins. Everything will turn to dust, including the stories I told. Including mount Chư Mang, including where I’m sitting, including all the thieves that had just left, all shall be ashes. Gone forever were the stories told, the same notes, nothing shall be left for the children of tomorrow.

—–

June 2018

Những ly rượu máu

Truyện ngắn Nguyễn Văn Thiện

       Không có chuyện gì để kể nữa rồi. Có một gã trộm cướp đã lẻn vào nhà và ngang nhiên thò tay nẫng mất câu chuyện của tôi. Mấy ngày rồi, tôi buồn ủ rũ. Không còn chuyện gì để kể, tôi như người mất hồn. Bạn không biết đâu, đó là một câu chuyện dài về thảo nguyên, về ngọn núi dòng sông thân thuộc. Thế mà tên tướng cướp kia, lại dám cướp ngang. Tôi không có súng để bắn, không có dao để đâm, cũng không có chông tre lưỡi lê lưỡi mác. Tôi mềm yếu, đành như cô bé ngồi nhìn con búp bê thương yêu của mình bị kẻ mạnh hơn cướp mất. Rồi ngồi khóc một mình!

       Tôi căm hận, nguyền rủa, nhưng không dám nói to, chỉ lẩm bẩm một mình, đả đảo… Thực tình, tên tướng cướp không thèm để ý lời tôi, nhưng trong bọn lâu la đi theo, có một đứa nghe, bèn quay lại hỏi: “Mày vừa nói gì?”. Tôi làm liều hét lớn: ” Trả câu chuyện lại cho tao?”. Hắn nhe nanh: “Câu chuyện hả? Mày thích kể chuyện đúng không?”. Tôi chùi nước mắt, gật đầu. Thế là cả nhóm đứng lại. Tướng cướp nói: “Mày phải kể cho tao nghe một câu chuyện, một câu chuyện hoàn toàn khác với câu chuyện mà tao vừa lấy, hiểu chưa, hoàn toàn khác!”.

       Xung quanh tôi là những gương mặt ác ôn với dao kiếm tua tủa. Tôi nghĩ, cuối cùng, hóa ra là mình chết theo kịch bản này! Lấy hết can đảm, tôi kể: “Quê hương tôi hình một chiếc móng rùa, cong cong nhưng rất sắc!…”. Tên tướng giặc ngửa cổ cười sằng sặc: “Tưởng gì, cái móng vuốt đó, tao mua lâu rồi!”.

       Một tên lâu la ghé tai nói nhỏ với gã tướng cướp, rồi cả hai đứa gật đầu cười với nhau.

       “Tao biết mày kể chuyện đó để hăm dọa tụi tao, nhưng nói cho mày biết, cả con rùa vàng tụi tao còn mua được, huống chi cái móng vuốt của mày! Thôi, mày kể chuyện khác!”. Vừa nói, gã tướng cướp vừa rút gươm ra. Tôi thấy hai bàn chân lạnh toát. Tôi kể: “Tuổi thơ tôi, sinh ra và lớn lên trên những dòng sông chôn đầy cọc nhọn! Thuyền quân cướp đi vào tan xác, máu đỏ vạn dặm, tanh để nghìn thu…”.

       Bọn cướp, lúc này có vẻ không còn kiên nhẫn được, có đứa mắt vằn lên như say rượu. Một đứa nói: “Mày kể chuyện khác đi, bãi cọc đó, nói cho mày biết, tụi tao cũng mua luôn rồi!”.

       Đến đây thì tôi thực sự hoang mang, sao cái quái quỷ gì chúng nó cũng biết, cũng mua được hết, hay chúng xạo để dọa tôi? Bọn chúng nói gì đó với nhau rồi lần lượt ngồi lại, vòng tròn. Một tên cướp mặt non choẹt rút trong túi áo ra một chai rượu, rót cho tôi một ly, nói, thủ lĩnh thấy mày là đứa kể chuyện đần độn nhất mà ngài từng gặp, ngài ban cho mày một ly rượu quý, uống xong để kể tiếp hầu chuyện ngài!

       Tôi nghĩ, rượu độc đây mà, có lẽ chúng sẽ giết tôi bằng cách này! Tôi đưa ly rượu lên miệng, đỏ lòm, tanh lợm. Máu! Chúng uống máu! Máu ở đâu ra?

Một gã đè tôi ra đổ ly rượu vào miệng tôi. Tôi nghe máu chạy rần rật từ miệng xuống dạ dày, lan sang lục phủ ngũ tạng. Hay là máu trong câu chuyện về quê hương mà tôi đang kể?

       Sau khi uống cạn ly máu, tôi say, chếnh choáng như say rượu. Khi say, người ta quên sợ. Tôi kể: “Máu của chúng tôi là dòng máu anh hùng, được chưng cất từ hàng ngàn năm, thơm như dầu thảo mộc trên núi Chư Mang! Có những tên cướp khét tiếng hung hãn sau khi uống máu vào thi say và chết trợn mắt. Còn những kẻ phản bội thì sau khi chết không được chôn, xác thối rữa làm mồi cho diều quạ”.

       Tên tướng cướp cười nửa miệng: “Máu của tụi mày, tao cũng mua nốt!”. Nói rồi hắn mở túi ra: Nguyên một túi tiền đầy ắp! Mấy tên lâu la nói: “Thằng này, đúng là đứa kể chuyện đần độn nhất mà chúng ta từng gặp!”. Nói rồi, chúng nó đứng dậy, thản nhiên châm lửa đốt. Núi Chư Mang cháy phừng phừng, suối Kroa cháy, thảo nguyên cháy, lửa lan mỗi lúc mỗi nhanh, dữ dội, cuồng loạn. Rồi chúng nó kéo nhau đi, vừa đi vừa chia nhau bầu máu, vừa uống vừa cười hả hê. Ngoài tên thủ lĩnh và bọn lâu la, có cả những gương mặt rất quen, tôi đã từng gặp nhiều lần. Chúng cam tâm đi theo lũ cướp, ngửa tay xin từng ly máu đỏ bầm, uống, và cười, và hát. Tôi hét trong lửa cháy: “Tại sao chúng mày bán móng vuốt rùa vàng?”. Chúng nó không trả lời. Tôi hét tiếp: “Tại sao chúng mày bán cọc nhọn trừ giặc ở trên sông?”. Chúng nó vẫn không hé răng. Tôi hét nữa: “Ai cho tụi mày bán dòng màu anh hùng cho giặc cướp?”. Chúng nó cười sằng sặc và bỏ đi, vừa đi vừa chia nhau uống máu.

       Chúng kéo nhau đi rồi, không thèm để ý đến tôi nữa. Tôi ngồi giữa mênh mông lửa cháy, nghe gió gầm bão giật tái tê trong huyết quản của mình. Tất cả rồi sẽ thành tro bụi, cả câu chuyện đau thương mà tôi vừa kể. cả núi Chư Mang, cả chỗ tôi đang ngồi, cả chỗ bọn cướp mới đi qua, rồi tro bụi hết. Chỉ còn lại muôn đời những câu chuyện kể, trùng trùng, điệp điệp, để lại cho con cháu mai sau.


Nguyễn Văn Thiện
Born: 1975
Home town: Anh Sơn – Nghệ An
Master in Comparative Literature and Critical Theories
Currently a high school teacher, and a prolific writer.
Editor of Chư Yang Sin (Đắk Lắk) Art and Literary Journal.

Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.

Faces of familiar spirits | Nguyễn Văn Thiện

A short story in Vietnamese by Nguyễn Văn Thiện
Translator: Nguyễn Thị Phương Trâm 
Art: Đinh Trường Chinh
Published first on litviet.net

People tell me: “Why don’t you write something more pleasant!”.

Writing a pleasant story is not difficult, but the story about Mount Chư Mang continues to haunt me. Fervently, I went searching for an adventure much like the sad tale of Don Quixote in the autumn of his life, in search of a knight’s honour armed with a blunt sword and rusted armour. But the rivers are long and the mountains vast. The joy of chasing pretty familiar spirits left me drunk and  afflicted with contradiction.

Sweet is the meaningless reality in dreams; the ability to love an ethereal angelic face tainted with evil.

Each night, the darkness fell like a waterfall. These beautiful familiar faces appeared on the window sill: “Come to the mountains”, “What are you afraid of, coward…” There, they’ve returned, the familiar spirits. They asked me to follow them to the mountains if I do not, they implore, they beg, and I would as always give in and follow them, to continue the same dream.

I went searching for the green eyes, and ruby lips amongst the towering old trees — a sad lumbering knight in search of “the” dream at the end of his life. Yes, sometimes there was a glimpse of bright dark eyes, yes, sometimes the heat of those red lips. But, like anything determined by fate, it’s a fleeting moment before those eyes’ lips flit away, and disappear into the dark black starry night.

When the moon and stars were spent, on blades of grass past the be-witching hour the spirits dissolve, they were lulled to sleep between the rocks. I would cry: “Stay play, keep playing, morning is not yet near!”. In a state of half-wakefulness and sleep, their laughter fell free from the higher branches, breaking into a swarm of autumn fireflies. I would hug the fresh silk sheath abandoned in my arms, and inhale the lingering addictive intense scent, like remnants of precious fossils from a million years ago.

You asked: “Where do those familiar spirits come from?”. I’ve no idea; I first met them the day I set foot on Mount Chư Mang. Amusing himself with a game of hiding and seeking fate, looking for happiness. A knight discarded by society.

Bright nights wandering in the mead, one hand with a fist full of clad silk, one hand cupping the smile of a pretty demon. Me in shredded ill-fitting clothes from top to toe, decrepit, like a scarecrow at the end of a season. At sunrise, the soulful smiles would grow delicate wings before they would fly away, those fragrant robes also flew, leaving behind a man with ludicrous laughter steeped in the evening dew, like some guy stomping on a lifeless creel all day all night.

I consoled myself, fine, starting tomorrow I won’t go there, starting tomorrow. But by sunset, falls are always the thrilling sweet sound of a far-off dream!

You say it’s a time of diminished dharma, ghouls and demons were everywhere, sightings atop mountains, valleys, be careful! I, for long, have forsaken my virtue. In tattered armour, I carried a broken sword in search of adventures, I carried with me the jeering laughter of a fool, even in the most despairing defeat. Though in all those endless dreams, this village knight had never once fulfilled his desire. The more he chased, the more those beautiful demonic faces and their stirring laughter flew further away.

Now there isn’t a place on Mount Chư Mang I’ve not walked. I traveled the nights basking in moonlight wrapped in stars, nights battered by rain-soaked hail and mist. All those beloved familiar faces were flickering far far away, sometimes this side of the mountain, sometimes way there in the mead. Sometimes I am so tired, that I would fall asleep in their soft embrace and tender caress, dreaming those dreams, I’m soaring in the sky, heading for the heavenly blue clouds. Sometimes I’m so tired, that I would find myself sitting on the ground hugging my knees, always with me was the blunt broken sword, and a smile drenched in blood basking in the moonlight.

I’m okay, don’t worry. So many years of my youth were spent nurturing delusions, to bury them now, here. By nightfall, I would again sing the songs of tall mountains and deep valleys. So long as I’m entertained, so long as all those beautiful familiar faces of angels never leave this mountain. I will continue to hunt, and embrace tightly the big dreams of my youth, aren’t we all the same! Till we no longer have our youth, till mouldered is our armour, till the eyes are blurry and our feet slower, as the sound of those inviting laughter rises I will take to the road.

“To the mountains, I go…”.

There, can you hear it? Outside, like the call of a trumpet of a funeral march, the golden shadow of humanity falls in sorrow. I have to go; I must prepare for the continuance of my dream, the same continual dream, of life crashing like ocean tides, rhythmic for a hundred years, for a lifetime.

Again I must go!

Những gương mặt linh miêu

Bạn nói: “Hãy viết một câu chuyện ngọt ngào đi?”.

Bịa ra một câu chuyện ngọt ngào thì có gì là khó? Vấn đề là câu chuyện về núi Chư Mang vẫn chưa khi nào thôi ám ảnh. Tôi mải mê đi tìm một ảo ảnh về tình yêu, như chàng hiệp sĩ cuối mùa tội nghiệp Don Quixote, tìm cách chinh phục thế giới bằng một lưỡi gươm cùn và bộ giáp trụ rách nát. Mà núi thì quá cao xanh, mà sông thì quá rộng dài. Trò chơi trốn tìm với những nàng linh miêu xinh đẹp thì đầy cám dỗ nhưng cũng đầy trắc trở.

Có gì là ngọt ngào không khi bạn yêu một gương mặt đẹp tựa thánh thần lẫn ác quỷ, mà chỉ xuất hiện trong mơ thôi chứ chưa gặp mặt bao giờ?

Mỗi đêm về, bóng tối tràn qua như thác đổ, những gương mặt đẹp ma mị lại xuất hiện bên cửa sổ: “Lên núi chơi thôi”, “Sợ gì chứ, đồ nhát gan”… Đó, linh miêu lại về đó. Họ rủ tôi lên núi chơi, nếu không đi, họ năn nỉ, họ khiêu khích, thế là tôi lại ra khỏi nhà, tham dự vào trò mộng du miên viễn.

Tôi đi tìm những mắt xanh môi thắm giữa bạt ngàn cổ thụ. Chàng hiệp sĩ cuối mùa xộc xệch thảm hại đuổi theo giấc mơ vĩ đại của đời mình. Ờ, cũng có khi bắt được một ánh mắt long lanh, ờ, cũng có khi bắt được một bờ môi ấm nóng. Nhưng, như một trò đùa được số phận mặc định, chỉ sơ sẩy thoáng chút thôi là mắt là môi lại vụt bay, mất hút giữa vực thẳm sao trời lãng đãng…

Khi trăng sao đã mệt nhoài, những vệt lân tinh thôi không còn thắp sáng đầu ngọn cỏ, thì bầy linh miêu rủ nhau đậu lên vách đá và thiu thiu ngủ. Tôi hét lớn: “Chơi nữa đi, chơi tiếp đi, trời đã sáng đâu!”. Trong trạng thái nửa tỉnh nửa mê, tiếng cười của họ rơi tự do từ trên cành cao xuống đất, vỡ vụn ra như bầy đom đóm mùa thu. Tôi ôm mảnh xiêm y màu xanh còn lại trong tay, hít lấy hít để hương thơm ma mị cõi bồng lai còn phảng phất, tưởng như tinh túy sơn khê triệu năm còn lưu dấu trên tay. 

Bạn hỏi: “Bầy linh miêu ấy từ đâu đến?”. Tôi có biết đâu, từ khi tôi bước chân lên đỉnh Chư Mang thì đã gặp họ rồi. Gã hiệp sĩ bị thế gian chối bỏ mải miết tìm vui trong trò chơi trốn tìm định mệnh, để tìm vui…

Có những đêm, khi trời sáng bạch, tôi vẫn còn loay hoay trên núi, tay níu áo xiêm, tay còn lại thì cầm một nụ cười của linh miêu xinh đẹp. Nhìn lại mình thì áo quần xộc xệch, rách từ dưới rách lên, nhếch nhác lôi thôi, như một hình nộm cuối mùa ngơ ngác. Mặt trời lên, nụ cười của linh miêu mọc thêm đôi cánh mỏng và bay đi mất, xiêm áo thơm lừng cũng vỗ cánh bay đi, để lại mình tôi tẽn tò với tiếng cười ướt đẫm sương đêm, như một gã đánh dậm ướt ròng thâu đêm suốt sáng với chiếc giỏ không lăn lóc dưới chân!

Tôi tự nhủ, thôi, từ ngày mai không thèm lên chơi nữa, thôi kể từ ngày mai…

Nhưng rồi, khi mặt trời lặn, tiếng nhặt tiếng khoan ngọt như một giấc mộng xa xăm lại mời gọi lên đường!

Bạn nói, thời mạt pháp, ma quỷ đầy đường, hiện hình ngay cả trên núi cao rừng thẳm, bảo trọng nhé! Tôi thì từ lâu đã không còn quan tâm đến an nguy cho bộ trang phục ngoan ngoãn của mình. Tôi mang gươm cùn giáp rách theo đuổi cuộc chơi, là biết cách trang bị cho mình tiếng cười ngạo nghễ, ngay cả khi thất bại ê chề. Chỉ hiềm một nỗi là trong những cơn mộng du vô tận, gã hiệp sĩ nhà quê chưa khi nào hoàn thành ước nguyện của mình. Càng đuổi bắt thì những gương mặt linh miêu xinh đẹp có tiếng cười ma mị lại càng hun hút xa xăm.

Bây giờ thì trên núi Chư Mang không có chỗ nào tôi chưa đặt chân tới. Tôi đi trong những đêm trăng sao ngà ngọc, trong những đêm mưa gió mịt mùng. Những gương mặt thân thương xa ngái thoắt ẩn thoắt hiện, lúc thì ở sườn núi bên này, lúc ở tận mạn bên kia. Có khi mệt quá, tôi ngủ quên trong vòng tay mềm mại móng vuốt của linh miêu, rồi mộng mơ đủ chuyện, vẽ ra những đường bay hão huyền lên tận mây xanh. Có khi mệt quá, tôi ngồi bó gối, bên cạnh là giáo cùn gươm gãy giáp rách, và nụ cười rớm máu dưới trăng.

Tôi không sao đâu mà, đừng lo cho tôi nhé. Bao nhiêu năm tuổi trẻ đã nuôi lớn ảo mộng, rồi sẽ chôn vùi cũng sẽ đúng nơi đây. Tôi vẫn hát bài hát của núi thẳm non cao mỗi lúc đêm về. Miễn là tôi còn trò chơi thú vị, miễn là những gương mặt linh miêu đẹp tựa thiên thần không rời bỏ núi mà đi. Tôi sẽ đuổi theo cho kỳ được, và ôm thật chặt trong tay những mộng mơ kỳ vĩ, tuổi trẻ, ai mà chẳng thế! Cho đến lúc không còn trẻ nữa, khi giáp trụ tan hoang, khi mắt mờ chân chậm, tôi sẽ vẫn lên đường mỗi khi tiếng cười mời gọi cất lên.

“Lên núi chơi thôi…”.

Đấy, bạn có nghe thấy gì không? Ngoài kia, bóng chiều vàng vọt của cõi người bắt đầu đổ xuống u buồn như tiếng kèn đưa đám. Tôi phải bắt đầu thôi, sửa soạn cho giấc mơ nối tiếp của mình, những giấc mơ trùng điệp, như sóng vỗ, giữa nhịp đập trăm năm của kiếp người.

Tôi lại phải đi đây!


Nguyễn Văn Thiện
Born: 1975
Home town: Anh Sơn – Nghệ An
Master in Comparative Literature and Critical Theories
Currently a high school teacher, and a prolific writer.
Editor of Chư Yang Sin (Đắk Lắk) Art and Literary Journal.

Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.

Ngưu Lang | Nguyễn Thị Minh Ngọc

Nguyễn Thị Minh Ngọc. foto by Tino Cao.

truyện ngắn Nguyễn Thị Minh Ngọc
Nguyễn Thị Phương Trâm dịch

[a body of work in progress – unedited]

Ngưu Lang

Thế là, như mơ, tôi đứng giữa những người đàn bà và cả đàn ông khác màu da, tiếng nói. Ðêm đầu ở một nước lạ, dường như để dễ nhận ra, ai cũng kiếm những bộ cánh đặc biệt của mình. Những diễn viên của một nhà hát thổ dân Úc chúi vào nhau cười rúc rích, da mốc trắng lên vì trời lạnh, hệt như những người dân tộc tôi vẫn gặp hồi nhỏ ở Pleiku. Một phụ nữ có gương mặt như Phật, trang phục Trung Quốc của bà khiến ai cũng muốn gợi chuyện nhưng rồi lại thất vọng vì bà không biết tiếng Anh mà người thông dịch của bà thì lại chưa đến được. Những người Nam Hàn và Bắc Hàn lạnh lẽo nhìn nhau. Cô gái Nhật, sau một hồi nói chuyện về Kobo Abé, đưa danh thiếp cho tôi, mới hay cô ta là đại biểu đến từ Mỹ.

Ấn tượng đầu tiên của tôi ở Úc là thành phố Adelaide đẹp, nhiều người tốt. Nhưng có lẽ vì thời tiết quá lạnh và thức ăn lạ miệng nên cơn nhớ nhà cồn cào nổi lên khi về đến phòng riêng. Việc đầu tiên là gọi cho Liên đang ở cách đó hàng ngàn cây số, nhưng Liên sẽ nhắn cho những bạn khác. Và sau đó là điện thoại tới tấp của Quang, của Vũ, của Khiêm, của Philip, của Phượng và Bằng, của Dung và Lân. Ðứa nào cũng rủ tôi sau hội nghị ở lại chơi thêm vài tuần vì biết rồi có dịp nào sang đây nữa không. Nghe tôi kêu phải về để chuẩn bị cưới chồng, Quang cười dòn, hỏi phải vẫn cái ông “Mười năm luôn gặp mà tình không cũ?” Tôi đính chính mười một năm ba tháng hai ngày rồi. Giọng ngậm ngùi của những bà vợ, phê bình tôi cái gì cũng được, chỉ dở tệ đường chồng con. Mãi đến lúc không giờ, hẹn mai trò chuyện tiếp.

Khoảng ba giờ, chuông điện thoại reng. Tôi nhấc lên, bên kia đầu dây là tiếng khóc. Tiếng khóc của một người con trai trong đêm khuya nghe như đến từ một cõi khác. Tôi bật đèn, những bức hình đang cười toe quanh tôi như một tương phản lạ. Chúng tôi được phân về ở những ký túc xá sinh viên. Họ đang nghỉ hè. Chủ phòng tôi đang ở để nguyên cả mọi thứ tranh ảnh, sách báo, đàn, giày. Có đến cả phút, tiếng khóc ngưng. Rồi một giọng nói lạ vọng lên:

“Tôi là Phiêu!”

Hiểu rồi! Trước khi tôi sang Úc, Châu có nhờ tôi tìm xem Phiêu giờ sống ra sao, nhờ vậy mà không có số điện thoại lẫn địa chỉ. Châu dặn cứ cho biết Phiêu hồi xưa ở Việt Nam thường đóng những vai như Hamlet, Othello, Khuất Nguyên, Từ Hải v…v… Hồi nãy tôi có nhờ Quang, Quang nói biết tên này, sẽ nhờ người phăng ra. Trái đất nhỏ thật. Trước khi tôi lên máy bay, Châu còn dặn, nếu Phiêu hỏi Châu sống ra sao cứ nói rằng sống được. Rồi thôi! Ðừng cung cấp thêm một chi tiết nào nữa hết.

May quá, sau đó Phiêu vẫn chưa hỏi thăm gì về Châu mà dường như là một người đàn ông khác hẳn với người vừa khóc trước đó. Phiêu hỏi tôi cần gì? Thông dịch viên? Phương tiện di chuyển? Ðồ lạnh? Những địa chỉ nên đến để viết bài? Tôi kêu chỉ thèm cơm Việt Nam, nếu có rau muống dằm cà thì quá tuyệt.

Nói cho vui vậy thôi, không ngờ sau buổi họp chiều ra, nghe nhắn có hai vợ chồng ngồi đợi tôi một tiếng đồng hồ để đưa về nhà ăn cơm rau muống. Họ xưng là Ðức và Hiền, bạn của Phiêu. Tôi kéo theo Julie. Julie là tác giả vài vở kịch viết về Việt Nam, đã sang Việt Nam mấy lần, rất mê những người phụ nữ Việt Nam. Trời vài độ, chưa âm, có lẽ chưa bao giờ những cọng rau muống lúc đó với tôi lại ngon như vậy. Và mắm nữa chứ. Các thứ rau lạ quen có mặt đầy đủ, kinh giới, tía tô, rắp cá, thì là, lá to hơn nhưng hình như vị không nồng nàn bằng ở nhà. Nhất là ớt.

Julie kêu không bao giờ hiểu nổi những người Việt Nam này. Chưa gặp, chưa quen nhau bao giờ, chỉ qua vài lời giới thiệu bâng quơ trên điện thoại, lại có thể ngồi đợi cả tiếng đồng hồ, rồi kéo về nhà ăn uống chuyện trò như đã thân từ một kiếp khác. Ðức nói đơn giản vì Phiêu sống quá tốt với bạn bè nên anh cần bất cứ điều gì, chúng tôi mừng rỡ làm ngay vì rất ít có cơ hội trả ân anh. Thấy tôi có vẻ không rành lắm về Phiêu, Hiền cung cấp cho tôi một đoạn.

Vào những tháng ngày nghiệt ngã của năm 1979, cả gia đình Châu đi hết nhưng Châu ở lại vì mê nghề. Phiêu và Châu lúc ấy đang là hai diễn viên chính của một đoàn kịch mới lập. Sau một số vở thành công, đoàn lại có nguy cơ tan rã vì cả một tập thể đụng với người trưởng đoàn. Dầu được Thành Ðoàn ủng hộ, những diễn viên trụ cột vẫn bị buộc thôi việc gần hết, trong đó có Phiêu, Châu. Vác đơn đi kiện tiếp, họ dốc cả ruột gan cho người trưởng phòng tổ chức của cấp cao hơn. Sau đó, họ nhận thêm lệnh cấm biểu diễn trên địa bàn thành phố. Hóa ra, bà trưởng phòng nọ là chị họ của ông trưởng đoàn kia. Vậy là Châu giận dỗi kiếm đường sang Pháp với gia đình. Phiêu chỉ định đi tiễn bạn nhưng giờ chót Châu không đến, Người tài công tiếc một chuẩn bỏ nên kéo Phiêu đi thay. Sau một thời gian ở đảo khá dài, Phiêu tấp vào nước Úc.

Ðêm đó, khoảng hai, ba giờ, Phiêu gọi lại, lần này bắt tôi kể chuyện Sài Gòn. Tôi cứ hồi hộp sợ Phiêu hỏi tới Châu. Biết nói về Châu thế nào bây giờ khi cô đã dặn chỉ nói hai chữ thôi: sống được! Mà cũng chẳng biết lúc này Châu buồn hay vui. Chỉ thấy nó có một điểm giống tôi, lúc nào cũng ở tư thế hùng hục làm việc như một con điên. Ðời riêng cũng chẳng vui gì. Anh bồ hiện tại khá tốt, chỉ phải tội mê đánh bạc hơn mê Châu. Tôi đã từng chứng kiến những đêm dài, những dịp cuối tuần, cô diễn viên ngôi sao này phải ngồi dài cổ đợi.

Những ngày sau tôi bớt nhớ nhà, bớt thấy lạnh có lẽ nhờ công việc túi bụi và một phần nhờ những người bạn tốt của tôi và của Phiêu. Có một đêm:

“Xin lỗi vì chỉ gọi được cho chị vào giờ này. Chị vừa đi xem Hamlet về phải không? Xưa ở Việt Nam đã có lúc tôi đóng vai Hamlet. To be or not to be? Giờ này Hamlet đang lột sò ở Melbourne. Lột hay không lột, đó là vấn đề!”

Tiếp theo là một tràng cười, nghe buồn hơn tiếng khóc hôm nọ.

“Nói chuyện khác đi Phiêu, những chuyện khác nơi Phiêu đang sống”.

“Ðám bạn của chị giao cho tôi nhiệm vụ thuyết phục chị ở lại chơi vài tháng. Tôi đang kiếm xe chạy qua đó đưa chị đi chơi”.

“Không được, tôi đã quá lớn tuổi rồi. Mãi mới được một người chịu làm đám cưới với mình sau khi ở đây về, không thể bỏ qua dịp may hiếm có đó”.

“Trễ mươi ngày có sao đâu, nếu người ta thương chị thật”.

“Tôi đã trễ hơn mười năm rồi. Nhưng mà nè, sao cậu không về?”

“Tôi sợ!”

“Bao nhiêu người đã về chơi không làm cậu an tâm sao?”

“Tôi chỉ sợ một điều: Châu không được hạnh phúc”.

“Giả sử như vậy, thì cũng có phải lỗi của cậu đâu?”

“Ráng ở lại đi, dù chỉ một tuần. Ít ra, được gặp chị, tôi cũng thấy đỡ nhớ Việt Nam”.

Ngày chuyển từ Adelaide sang Canberra, máy bay ngưng vài tiếng ở Melbourne, tôi không định bước ra ngoài nhưng cô tiếp viên đến cho biết có người cần gặp tôi bên ngoài. Tôi chạy thật nhanh ra, cứ nghĩ không biết Vũ, Hằng hay Nghiêm, Toản thì đã thấy thấp thoáng cuối đường tấm bảng ghi tên tôi kề một khuôn mặt lạ. Tôi hỏi phải Phiêu không? Hắn gật đầu, nắm chặt tay tôi kéo đi. Tay tôi và tay hắn đều nằm trong găng êm nhưng nghe đau lắm. Tôi đùa:

“Cậu không định bắt cóc tôi chứ?”

“Nếu chị là Châu, có thể tôi sẽ. Nhưng nghe chị nói tội quá. Ðợi mãi mười năm mới kiếm ra người chịu cưới mình”.

“Bây giờ đi đâu?”

“Ði sắm vài món đồ lạnh cho chị”.

Tôi đứng khựng lại:

“Thôi Phiêu, tôi đang bị những cái áo như cái mền của bạn cậu đưa ám ảnh. Vừa mới gởi trả lại xong”.

“Vậy thì đi uống nước!”

Căn phòng toàn kính. Hoa khô và những cỏ thơm chất đầy ở góc phòng. Những chiếc máy bay xòe cánh ngoài kia lấp lánh sáng tối. Những người dị chủng tới lui lao xao, thầm thì, xa lạ. Miệng tôi cảm giác đắng khi nghe Phiêu hỏi:

“Sao mãi đến hôm nay chị vẫn chưa chịu nói rõ cho tôi biết đời sống hiện tại của Châu? Tôi có biết cô ấy đang là một diễn viên nổi tiếng, nhưng còn mơ hồ lắm về đời riêng. Hẳn là cô ấy đã lấy chồng? Hẳn là cô ấy đang hạnh phúc?”

Tôi giữ đúng lời hứa với Châu là không nói gì ngoài hai chữ “sống được”. Rồi mở to mắt nhìn Phiêu. Ðọc đi, hãy đọc trong mắt tôi những lời không nói được. Châu những đêm một bóng ngồi đợi người đàn ông chưa được gọi là chồng. Châu ngồi co ra dưới mưa dầm bán vé số. Châu diễn kịch hài, kịch bi, lúc khóc, lúc cười. Châu tươi cười nhận hoa tươi ngập tay từ những người hâm mộ. Châu những đêm diễn xong lang thang không biết về đâu. Châu kể chuyện tiếu lâm gây cười suốt chuyến xe lưu diễn. Châu mệt nhoài thiếp ngủ, mặt trong veo thanh thản như đang được ngủ giấc cuối cùng. Và cạnh đó, song song tồn tại với Châu, người trưởng đoàn năm nào cũng thăng tiến trên con đường quan chức. Ông ta vẫn tiếp tục thay thủy thủ đoàn không thương tiếc để còn được nắm chắc tay lái của chiếc thuyền bị tấp vào một dòng sông kiệt nước từ lâu…

Soi lại bóng mình trong đôi mắt nhỏ, thanh, dài sắt của Phiêu, bỗng nhiên tôi nhớ lại bạn xưa Trâu Nước. Ðó là một trong những người bạn mà khi mất đi bạn mới thấy thiệt thòi biết bao khi không còn anh ta bên cạnh, mặc dầu lúc anh ta còn lẽo đẽo bên cạnh để chìu chuộng những điều trái tính trái nết của bạn thì bạn chỉ thấy vướng víu làm sao.

Melbourne đang là đêm và cái cảm giác bềnh bồng trên mây vẫn còn vây bọc lấy tôi. Ở Việt Nam bây giờ đang là chiều. Và còn chỗ ở của Trâu Nước lúc này, chẳng biết có thấy được trăng không? Hay mặt trời đang lặn, mọc? Chúng tôi ngồi yên lặng, đối diện nhau như vậy với những lời không nói được ứa tràn ngập mắt. Cho đến khi tiếng loa báo chiếc máy bay của tôi chuẩn bị bay tiếp, Phiêu mới rút hai tay ra khỏi găng, đặt trên bàn:

“Ở Việt Nam, đôi tay này thường để khảy đàn, tuốt gươm khi đóng Roméo, Hamlet… Sang đến đây thì chai dầy đi vì nhiều thứ khác: làm farm, lột sò, lái xe, phục vụ nhà hàng, may vá, bấm computer…”

Tôi cũng rút một tay ra khỏi găng để bắt tay Phiêu, nghe nhịp thổn thức trên đường đi của máu trong bàn tay nháp, nóng. Thời tiết bên ngoài nghe nói đã sụt vài độ, dưới không.

Sau đó, ở những thành phố khác của Úc, vẫn có những người bạn của Phiêu chăm sóc tôi mọi mặt nhưng Phiêu không gọi điện thoại cho tôi sau lúc không giờ nữa. Một chiều ở Canberra, một người bạn gái của Phiêu, Noel, đưa tôi lên một đỉnh núi trông xuống thành phố là đà trong mù sương. Noel kêu thích Phiêu lắm nhưng không hiểu nổi những nóng, lạnh bất chợt của bạn mình. Cô đọc cho tôi nghe những bài thơ của Phiêu mà tôi đều thấy thấp thoáng dáng của Châu.

Xa tít xa, ở một đỉnh núi khác, là chiếc tháp truyền hình nổi tiếng của Canberra. Bỗng tưởng như có tiếng quạ đen ríu rít xoãi cánh làm cầu. Và từ chiếc lồng thủy tinh trên tháp ấy bước ra một ả Chức, lướt trên Ô kiều, băng băng chạy đến với chàng Ngưu. Họ sẽ làm gì, đầu tiên, khi lại được chạm vào nhau, trên đầu những con quạ đen tốt bụng đó? Tôi nhắm mắt. Dường như không đương nổi sức nặng của hai người, chiếc cầu quạ gãy. Dường như không thắng nổi sức hút của lòng đất, họ rơi, theo chiều thẳng… Nhưng hãy cố xoay ngang, để thấy họ đang trôi…

*

Khi tôi rời Úc, người ta đưa cho tôi một tờ giấy của Phiêu vừa fax tới:

“Dầu muốn dầu không, Châu cũng là Miss Sài-gòn đối với tôi từ những ngày trước đến nay. Qua chị, tôi thấy một Sài gòn năng nổ, sống động nhưng vẫn còn nhiều phức tạp và vẫn chưa xóa được đâu những gì đó hoài nhớ trong mình. Qua mắt chị, tôi thấy Châu xưa đã bớt là hiện tại.

Cám ơn chiếc áo dài, cám ơn cái bắt tay… để tôi an tâm lên núi làm farm.

Hãy gởi thiệp cưới cho tôi khi có dịp. Ðể tôi còn một duyên cớ, trở về…”

*

Hơn nửa năm, sau khi từ Úc trở về, tôi vẫn chưa gởi được thiệp cưới cho Phiêu. Người chuẩn bị làm bạn đời của tôi khá thân với người đang sống chung với Châu. Hằng đêm, họ vẫn gặp nhau ở một câu lạc bộ vui chơi, nơi có những khuôn mặt đam mê hốc hác. Ðiểu này xảy ra có lẽ phần lớn do những người phụ nữ như Châu và tôi. Chúng tôi đã không giúp được cho bạn mình xóa hẳn cảm giác cô đơn. Chúng tôi không thích hợp trong vai những người vợ bình thường. Và càng không được như Chức Nữ, mỗi năm, được nắm lấy hạnh phúc thật của mình, dù chỉ một lần, trên nền quạ đen muồi bên dưới, và trong những cơn tầm tả mưa ngâu.

1994

Just like that, like a dream, I was standing amongst men and women of different colour skin, language. The first night in a strange country, as though to recognise how easy it was, for anyone to find their special wings. In the Indigenous Australian theatre the performers were huddled together laughing, skin pale and blue due to the cold, no different to the people I met in Pleiku when I was small. A woman with a face like Buddha, her Chinese attire encouraged conversation followed by disappointment because she couldn’t speak English and her interpreter was late. People from North and South Korea coldly stared at each other. A young Japanese woman, after sometime on the topic of Kobo Abé, gave me her card, and it turned out that she was a delegate from the United States.

My first impression of Australia was Adelaide, a beautiful city and its kind inhabitant. I missed home as soon as I got back to my hotel room perhaps because of the extreme cold and unfamiliar cuisines. First thing was to call Liên, who was a thousand miles away, but Liên will message our other friends. And the first call was followed immediately by a call from Quang, Vũ, Khiêm, Philip, Phượng and Bằng, then Dung and Lân. They all asked me to stay a few weeks after the conference since there might never be another opportunity for us to see each other again. Hearing that I had to go home to straight away to prepare for my imminent wedding, Quang burst out laughing, asked if it was the same guy “Fifteen years side by side and all that loving is just as new?” Eleven years three months and two days I corrected him. In the wistful tone of a wife like any other wife, I can accept all criticism, except for when it comes to children and marriage. The watch clocked zero hours, talk more tomorrow.

The phone rang at three. I picked up, on the other end of the line were sobs. The surreal sound of a man crying in the middle of the night felt as though it came from another world. I turned the light on and surround me was the odd contrast of smiling photographs. We were assigned to rooms in the student dormitories. They were on their summer holiday. The owner of my room had all kinds of art photographs, magazines books, musical instruments, shoes, personal affects on display. The crying did not stop for a whole minute. An unfamiliar voice spoke up:

“I’m Phiêu!”

It was suddenly clear! Before my trip to Australia, Châu asked me to check on Phiêu, without giving me an address or phone number. Châu impressed that Phiêu when he was in Vietnam he had roles like Hamlet, Othello, Khuất Nguyên, Từ Hải v…v… I did also just now asked Quang about him, Quang said the name was familiar and said he’ll pass it down the grape vine. It’s a small world. Before taking my flight, Châu reiterated, if Phiêu ask tell Phiêu that I’m fine. That’s it! Don’t add a modicum of anything else.

Lucky, so far Phiêu had not asked about Châu and he seemed as though he was a completely different man to the one who had been crying. Phiêu asked if I need anything? A translator? How are you getting around? Do you need someone to drive you? Warm clothes? Places you should go to get inspiration to write? I said I just miss Vietnamese food, “rau muống dằm cà” would be perfect.

I was joking, but after a meeting, I was told a couple have been waiting for me for almost an hour, they wanted to take me home for “rau muống dằm cà”. Đức and Hiền, the couple were friends of Phiêu. I dragged Julie along. Julie is the author of a couple of plays about Vietnam, Julie have been to Vietnam a couple of times, she adored Vietnamese women. A couple degrees not quite minus, the morning glory had never tasted better. Fish sauce included. An abundant assortment of unfamiliar to familiar vegetables, kinh giới, tía tô, rắp cá, dill, the leaves were bigger but the flavours were just as amazing as those back home. Especially the chilies.


Director Nguyễn Thị Minh Ngọc, born 5 August 1953 in Bà Rịa, Vietnam. She graduated from stage directing in 1980, trained as an actor at the Ho Chi Minh City School of Theater and Cinema and Tran Huu Trang Theater. She was a student of director Nguyen Tuong Tran (second generation disciple of Konstantin Stanislavski), trained as a cải lương performer with People’s Artist Phung Ha, and she trained many renowned native and international drama and cải lương artists like: Meritorious Artist Huu Chau, Huu Nghia, Hong Dao, Quang Minh, Meritorious Artist Huu Quoc, Meritorious Artist My Hang, Luong My, Mai Lan, Hoa Hiep, Xuan Trang, Thanh Phuong.

She taught the subjects of Screenwriting, Drama Theory and History of Vietnamese Theatre at several colleges and universities, co-founded the Experimental Directing Club (1985), staged about 30 traditional and contemporary plays, wrote about 70 traditional and contemporary plays for the stage and about 30 scripts for cinema, hundreds of episodes for television, several research works on theatre and reformed opera, attended many festivals, seminars, composed and researched on theatre and education in the country and in Australia, England, France, Germany, Tanzania, Norway, Sweden, Philippines, USA, Indonesia, and was the stage personality of the year 2004 voted by Vietnam Television.

She was an actress for the stages: 5B Vo Van Tan, Idecaf… The roles that the audience remembers: Otilia, The Chicken Raising Girl & The Old Girl (Du Luan Quan Chung), Aunt Ba Kim Duyen (Ngoi Nha Khong Dan Men), Grandma (Cau Dong), Grandma Ca & Grandma To Gia (Long Dang Do Cao), Grandma (Tam Nguoi Dan Ba), Crazy Audience (Thuong Hoai Ngan Nam), Grandma Hanh Ngo (Mot va cua toi?). The most recent role was Grandma Vu in the MV Tan Vo with Dam Vinh Hung and Nhan Phuc Vinh.[1] The performance “The Last Romantic” is a 60-minute solo performance made up of ten tragicomic monologues that Nguyen Thi Minh Ngoc used to illustrate her talks about theater at universities in and outside the country.

In addition, she is also a member of the Writers, Theater, and Cinema Associations, and is one of the 20 outstanding writers of Ho Chi Minh City selected by the Ho Chi Minh City Writers Association.

She is the first Vietnamese woman to bring Vietnamese works to the off-off Broadway stage in New York as an author, director and actress, including: Lost Woman (2008) and We Are… (2011). She was selected as the highlight of the Vietnamese International Film Festival (VIFF) in the US (2007).

In addition to documentaries about Nguyen Thi Minh Ngoc produced by VTV, HTV, Binh Duong, and Long An television stations, in 2015, director Hung Phuong made the documentary “Nguyen Thi Minh Ngoc – The Treasure Keeper of Gold and Jade” 19’36” long and won first prize in the “I Preserve Beauty” contest.


Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.

Lunatics | Nguyễn Văn Thiện

Art by Đinh Trường Chinh

A short story in Vietnamese by Nguyễn Văn Thiện
Translator: Nguyễn Thị Phương Trâm
 

Certain sickness like madness can be contagious. It can start with the smallest tiff. He might stand up suddenly from his seat, pull his pants down to scratch his balls say. An irritation that can not be unseen by a neighbour. This irritation step by step turns into ridicule, where eventually they would openly laugh at him. The contagious laughter unstoppable gain momentum, gets louder and louder, hehe, haha, people will choke with laughter. One after the other they would chase after him. The streaming piss zig zagging across the footpath. The entire neighbourhood follow each other, snaking through the streets and the alleyways. Out of their mind with laughter…

Such an episode would, of course, be noted and reported to the authorities, and of course, whoever is involved will be admitted into a mental institute for treatment. But, nearly most of these patients have no desire to follow these orders in a peaceful, docile, obedient manner. They prefer a more cheerful place other than a hospital. They would find ways to climb the fence or break the locks of their room. The whole process of chasing and capturing these patients is a tedious and time consuming. So after a few days, there is usually hardly anyone left at the mental facility besides a few orderlies. The patients would run freely in the street. They skip and they clap, singing one happy tune after the other. The craziest of the lot, after he is sick of singing, comes up with a most brilliant of ideas. He shouts: “Come, come on! Quick! Line up! Turn around!”. “What! Why?”. “Go home, get your knives, your machetes, your saw, or whatever, we must get ready to welcome our statesmen, our leaders, the politicians!” …

And it would not be long before the whole city is turned into an arena, the festivity would spread across the city in a full drive to “clean up the city”. A noisy clamouring of chainsaws, and broken branches. The craziest of them shouting orders like: “Quick, faster, the police are coming!”. These lunatics would chop down the trees along the boulevard like madmen. It will be a mess, it will be crazy!

After a couple of days, the city will be a warzone. Lunatics they may be, they’re human, they tire, so you would find them resting and sleeping on piles of leaves, some might be sitting around reciting poetry and or belting out folk songs. Not one of them would have a piece of clothing on.

At home, these mad women would serve dinner to their husband, children, neighbours, naked, letting all their bits hang out loosely and freely for everyone to see, without shame or embarrassment. There will be no such thing as order or social etiquette. They would cover themselves up with leaves the way we used to in our prehistoric era. Some turn large fronds into funnels to use as loudspeakers, howling like monkeys through them, in the middle of the street, in full hot daylight.

The doctors would be ordered to capture all the patients and return them to the hospital. But it will be no use. The patients oblivious to the situation ends up pulling the doctors along with them, the doctors holding hands with their patients singing and dancing in a circle in the middle of the street. Not long after that they would also take off their clothes, pick up pickaxes, chop down the trees like any proper woodcutter.

After chopping down all the trees the leaders will still be nowhere in sight. But by then no one will be bothered about leaders anymore. They would have already forgotten the reason why they are doing anything, why they start what they did. When one of them stumble on a nest in the rubble with a few dead birds. They would panick, scream at each other, stop, stop everything, there’s been an accident! A solemn memorial would be arranged right on top of the crumbling rubble. The most imposing of the crazy lot will stand tall, with eloquence and due affirmation, recite a verse of remembrance: The red-whiskered bulbuls have given their lives for the sake of the nation. Lips would quiver long before the end of the speech. Tears, pour. The entire city would be in complete silence, respectfully bowing…

The funeral is like fresh fuel for all the lunacy. The leader of the madmen would shout louder into the loudspeaker: “Look here my brothers and sisters, because of the heroic acts of these feathered warriors, we must continue to work harder than ever before. For our country, for humanity’s enduring peace and prosperity!”. The resounding cheers travels over the excited crowd. The gathered nudists all follow each other, they head for the river.

Dear God, they want to fill the river with soil!

Two madmen running alongside each other, expressing their joy. The first guy said: “I bet you don’t know why we’re trying to fill the river?”. The second guy replied: “Eh, easy man, we’re filling up the river so we can plant trees!”. “Then why did we chop down the other trees then?”. “Man, you’re stupid, we chop down the trees to commemorate the red-whiskered bulbul birds!”. Then they both chanted: red-whiskered bulbul, red-whiskered bulbul, red-whiskered bulbul. The bloke in front with his pointer and thumb flicked a painful blow at a red-whiskered bulbul perched on the guy behind him, before they both proceed to head for the river as though they are soldiers prepared to sacrifice their life in battle.

While I am trying to quickly write every I see down, the lunatics would have already finished filling up the river. Returning from the river passing the alley where I live, swearing, shouting out slogans, the echo of their scream overflows, covers the whole horizon. I will rush to the front gate to watch. One guy will point at me and shout: “We haven’t chopped down the tree on your head!” I would shout back: “There’s nothing there you crazy dumb ass!”. He pulls a couple of guys aside, laughs. One of them said: “He’s crazy, he’s got all this clothes on, with a tree on his head like that, what a fool! Take his clothes off, rip the tree off that fool’s head!”. They would drag me into the street, one guy will pulls my hair, twist my neck as he pulls out the tree on my head. The other two rips my clothes off. When they are done, they pull faces, make fun of me as they run off. I would chase after them, but they are faster, they are way ahead of me, slapping their pant less butt swinging their lewd bits, jeering, cackling.

I find myself also running, singing and laughing.

Thinking as I laugh and sing, no one knows who I am anyway!

So that is how it will all come to be, we will all run, we will all sing, and laugh together, slapping out butts now and then, naked, fools.

Lunatics.

Lũ người điên

Truyện ngắn của Nguyễn Văn Thiện

Có những căn bệnh rất dễ lây lan, như bệnh điên chẳng hạn. Lúc đầu, chỉ là cảm giác bứt rứt khó chịu từ một người. Hắn đang ngồi, tự dưng đứng phắt dậy, tuột quần ra gãi. Miệng cười méo mó, đái một vòng tròn quanh sân, rồi bắt đầu bước ra đường. Hàng xóm nhìn theo, tò mò, e ngại, lo lắng. Sau đó thì họ cười. Tiếng cười lây lan và mạnh dần, hi hi, hô hố, rồi sằng sặc. Cuối cùng, một số người đứng dậy, chạy theo hắn. Những vệt nước đái vẽ ngoằn ngoèo trên mặt đường. Cả xóm rồng rắn kéo nhau đi. Điên hết rồi…

Sự việc, đương nhiên sẽ đến tai chính quyền, và cũng đương nhiên, các đối tượng sẽ được đưa vào bệnh viện tâm thần chữa trị. Nhưng, hầu hết những người điên đều không thích được điều trị theo một phương pháp nhẹ nhàng đến nhàm chán. Họ thích chỗ ồn ã tươi vui hơn là bệnh viện. Họ tìm cách trèo bờ rào hoặc bẻ khóa ra ngoài. Việc đuổi bắt rất phức tạp. Vậy nên, sau mấy ngày, bệnh viện lại vắng hoe. Bệnh nhân lại chạy đầy đường. Họ vừa đi vừa vỗ tay hát bài gì đó vui đáo để. Gã điên nhất sau khi hát mỏi mồm bèn nảy ra sáng kiến mới toanh. Gã hét to: “Sắp hàng nhanh! Đằng sau quay!”. “Làm gì?”. “Về nhà lấy dao, ai có dao dùng dao, ai có rựa dùng rựa, ai có cưa dùng cưa, dọn dẹp thành phố để đón lãnh đạo về thăm!”…

Cả thành phố bỗng dưng trở thành công trường, nháo nhác vì chiến dịch “dọn dẹp thành phố”. Tiếng cưa rầm rầm, tiếng cành gãy răng rắc. Gã điên nhất vẫn luôn mồm quát: “Nhanh lên, lãnh đạo sắp về thăm!”. Những gã điên chặt cây như điên. Ghê thật!

Chỉ sau mấy ngày, thành phố không khác gì một bãi chiến trường. Lũ điên cũng có khi mệt, vậy nên, chúng nằm dài ra trên đám cành lá lộn xộn làm thơ và hát quan họ. Không đứa nào còn một manh quần manh áo..

Từ trong những ngôi nhà, những mụ điên cởi truồng mang cơm nước ra cho chồng, cho con, cho hàng xóm, tồng ngồng, thỗn thện. Chả còn ra thể thống gì nữa. Họ còn bày đặt bẻ lá cây che quanh mình làm như đang ở thời kỳ nguyên thủy. Có đứa lấy lá cây bàng cuốn thành loa đưa lên mồm hú như vượn hú giữa trưa nắng chang chang.

Các bác sĩ được lệnh xông ra bắt bệnh nhân quay về. Nhưng không ăn thua. Họ bị bệnh nhân quây lấy ngay giữa phố rồi nắm tay lại dắt chạy vòng quanh rồi hát hò. Một lúc sau thì các bác sĩ vui tính cũng cởi hết quần áo nhảy múa và vồ lấy rìu chặt cây như những gã tiều phu thứ thiệt. 

Chặt xong cây rồi mà lãnh đạo vẫn chưa thấy đến thăm. Nhưng không ai thắc mắc về điều này cả. Hình như họ quên mất lý do chính đáng ban đầu rồi. Một gã tìm thấy trong đống đổ nát một tổ chim có mấy con chim chết. Thế là chúng hò hét nhau, dừng tay, dừng tay, có tai nạn nghiêm trọng! Một lễ truy điệu nghiêm trang được tổ chức ngay trên mặt bằng bề bộn đổ nát. Gã điên vạm vỡ nhất đứng lên đọc diễn văn truy điệu, hùng hồn khẳng định rằng: Những chú chim chào mào đã hy sinh tính mạng vì lợi ích quốc gia. Bao nhiêu cái miệng cùng méo xệch sau khi bài diễn văn kết thúc. Bao nhiêu dòng nước mắt cùng nhỏ xuống một lúc. Cả thành phố lặng đi, kính cẩn nghiêng mình…

Sau lễ tang bất ngờ ấy, lũ người điên càng bị kích động tợn. Gã điên nhất hét vào loa: “Hỡi quần chúng anh minh, vì những chiến sĩ chim vừa hi sinh oanh liệt ban nãy, chúng ta phải tiếp tục hành động. Vì đất nước, vì hòa bình của toàn nhân loại!”. Tiếng hò reo vang dội hưởng ứng. Cả đoàn người trần truồng kéo ra phía bờ sông. 

Trời ơi, chúng nó đi lấp sông!

Hai gã điên vừa chạy cạnh nhau vừa vui vẻ trò chuyện. Một gã nói: “Tao đố mày, ta lấp sông để làm gì?”. Gã kia đáp: “Trời ơi, hỏi dễ quá, lấp sông để trồng cây!”. “Thế ta vừa chặt cây để làm gì?”. “Mày hỏi ngu thế, chặt cây để truy điệu chim chào mào!”. Rồi cả hai cùng cười và hát vang: chim chào mào, chim chào mào, chim chào mào. Thằng chạy trước thò tay ra búng một phát vào chim chào mào thằng chạy sau rồi cả hai lao xuống sông như những cảm tử quân xông trận.

Khi tôi đang viết những dòng này thì bọn người điên đã lấp xong sông. Chúng kéo về qua ngõ nhà tôi, hò hét, văng tục và hô khẩu hiệu vang trời. Tôi chạy ra trước cổng dòm. Một gã chỉ tay vào tôi nói: “Trên đầu mày có cái cây chưa chặt kìa!”. Tôi nói: “Không có đâu, đồ điên!”. Gã kéo thêm mấy thằng khác đứng lại, nhìn tôi cười ngặt nghẽo. Một đứa nói: “Cái lão điên này, mặc quần áo như thật, trồng cây trên đầu như thật, ghét thế! Lột quần, nhổ cây của nó đi chúng mày!”. Thế là bọn chúng vật tôi ra đường, vò tóc, bẻ cổ tôi để nhổ cái cây trên đầu. Hai thằng khác lột hết quần áo tôi. Xong xuôi, chúng nó chạy, vừa chạy vừa lêu lêu. Tôi đuổi theo, nhưng chúng chạy nhanh hơn, chúng chạy trước, tuột quần ra vỗ vỗ ra chiều trêu ngươi thích thú.

Chúng vừa chạy vừa hát vừa cười.

Tôi nghĩ, có khi mình cũng phải cười và hát, có ai biết mình là ai đâu!

Thế là chúng tôi vừa chạy vừa cười vừa hát, thỉnh thoảng lại vỗ vỗ vào mông, trần truồng, ngớ ngẩn.

Như một lũ người điên.


Nguyễn Văn Thiện
Born: 1975
Home town: Anh Sơn – Nghệ An
Master in Comparative Literature and Critical Theories
Currently a high school teacher, and a prolific writer.
Editor of Chư Yang Sin (Đắk Lắk) Art and Literary Journal.

Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.