NGUYỄN THỊ MINH NGỌC

Nguyễn Thị Minh Ngọc. foto by Lân Trần

Tác Phẩm Nguyễn Thị Minh Ngọc
Nguyễn Thị Phương Trâm dịch


Director Nguyễn Thị Minh Ngọc, born 5 August 1953 in Bà Rịa, Vietnam. She graduated from stage directing in 1980, trained as an actor at the Ho Chi Minh City School of Theater and Cinema and Tran Huu Trang Theater. She was a student of director Nguyen Tuong Tran (second generation disciple of Konstantin Stanislavski), trained as a cải lương performer with People’s Artist Phung Ha, and she trained many renowned native and international drama and cải lương artists like: Meritorious Artist Huu Chau, Huu Nghia, Hong Dao, Quang Minh, Meritorious Artist Huu Quoc, Meritorious Artist My Hang, Luong My, Mai Lan, Hoa Hiep, Xuan Trang, Thanh Phuong.

She taught the subjects of Screenwriting, Drama Theory and History of Vietnamese Theatre at several colleges and universities, co-founded the Experimental Directing Club (1985), staged about 30 traditional and contemporary plays, wrote about 70 traditional and contemporary plays for the stage and about 30 scripts for cinema, hundreds of episodes for television, several research works on theatre and reformed opera, attended many festivals, seminars, composed and researched on theatre and education in the country and in Australia, England, France, Germany, Tanzania, Norway, Sweden, Philippines, USA, Indonesia, and was the stage personality of the year 2004 voted by Vietnam Television.

She was an actress for the stages: 5B Vo Van Tan, Idecaf… The roles that the audience remembers: Otilia, The Chicken Raising Girl & The Old Girl (Du Luan Quan Chung), Aunt Ba Kim Duyen (Ngoi Nha Khong Dan Men), Grandma (Cau Dong), Grandma Ca & Grandma To Gia (Long Dang Do Cao), Grandma (Tam Nguoi Dan Ba), Crazy Audience (Thuong Hoai Ngan Nam), Grandma Hanh Ngo (Mot va cua toi?). The most recent role was Grandma Vu in the MV Tan Vo with Dam Vinh Hung and Nhan Phuc Vinh.[1] The performance “The Last Romantic” is a 60-minute solo performance made up of ten tragicomic monologues that Nguyen Thi Minh Ngoc used to illustrate her talks about theater at universities in and outside the country.

In addition, she is also a member of the Writers, Theater, and Cinema Associations, and is one of the 20 outstanding writers of Ho Chi Minh City selected by the Ho Chi Minh City Writers Association.

She is the first Vietnamese woman to bring Vietnamese works to the off-off Broadway stage in New York as an author, director and actress, including: Lost Woman (2008) and We Are… (2011). She was selected as the highlight of the Vietnamese International Film Festival (VIFF) in the US (2007).

In addition to documentaries about Nguyen Thi Minh Ngoc produced by VTV, HTV, Binh Duong, and Long An television stations, in 2015, director Hung Phuong made the documentary “Nguyen Thi Minh Ngoc – The Treasure Keeper of Gold and Jade” 19’36” long and won first prize in the “I Preserve Beauty” contest.


Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.

I didn’t know what I did can you explain it to me? | Lê Vĩnh Tài [351]

Lake Kawaguchi-ku 2010. Photography by Nguyễn Thị Phương Trâm

A short story in Vietnamese by Lê Vĩnh Tài
Translator: Nguyễn Thị Phương Trâm

I’m trying to deal with the cracks all over my body, so please try not to break me.

I once had a bottle on a wall. It was a brilliant green. I’m fairly sure it was the loneliest bottle I’ve ever seen. It’s all alone on the wall, day and night. As I look out the window, it’s always within my point of view. Then one day, there was this cat, it appeared out of nowhere, bumped into the bottle on the wall and the bottle fell. When the bottle hit the ground, the noise was unbelievable, it was very loud.

Bits of green shattered shards of glass were scattered everywhere, all over the ground. Soon after, I could hear the cat crying, I knew then, it was injured. I saw with my own eyes its paws were sticky with dirt and blood. The bottle to begin with was harmless on the wall, only a bump and it was dangerous.

I watched you smile at me in the huge chair, as your fingers played with the soft strands of hair on your head. You reminded me of the green glass bottle on the wall. It was harmless to start with, but now you’re the cause of my pain.

Now, each time I look at the wall, I’m full of regret, I’m breathless as the gap between heaven and earth closes up. Hence, when I turned my head to look at you, I was confused, I didn’t know what was happening I didn’t know how all this had come to be, I began to fall the moment I saw how the heavens were moving further and further away.

Thus, for a long time, I couldn’t write, I could not compose a single poem, because I had so much time and none at all, all at the same time. In truth, I had nothing to say, what I wanted to say, brought me no joy. My fingers continued to noisily tap on the keyboard but I had no idea what I was typing. The constant tapping on the keyboard sounded like the reverberating shattering sound of a glass bottle hitting the ground. You said: it sounded like life.

_____

September 2022

BẠN CÓ THỂ CHO TÔI BIẾT TẠI SAO, VÌ TÔI KHÔNG BIẾT MÌNH ĐÃ LÀM GÌ KHÔNG? 

cơ thể tôi đang đối phó với những vết nứt, nhưng bạn đừng làm tôi vỡ vụn.

vì đã từng có một cái chai trên tường. Nó rất xanh. Tôi dám chắc đó là cái chai xanh cô đơn nhất mà tôi từng thấy. Nó lẻ loi trên tường, cả ngày lẫn đêm. Khi tôi nhìn ra cửa sổ, nó luôn ở trong tầm mắt của tôi. Rồi một hôm con mèo xuất hiện, vô tình đã chạm vào làm nó rơi khỏi bức tường. Khi cái chai rơi xuống, nó tạo ra một tiếng kêu rất lớn.

những mảnh vỡ của cái chai màu xanh lá cây rải trên khắp mặt đất. Sau đó, con mèo kêu lên và tôi biết nó đã bị thương. Rõ ràng tôi thấy bàn chân của nó dính đầy máu và bụi bẩn. Cái chai lúc đầu không nguy hiểm chút nào nhưng sau một cú va chạm và rơi, nó trở nên rất nguy hiểm.

tôi nhìn bạn mỉm cười với tôi trên chiếc ghế bành lớn, những ngón tay của bạn lướt qua những lọn tóc mềm mại của bạn. Bạn làm tôi nhớ về cái chai màu xanh lá cây. Ban đầu, bạn vô hại, nhưng bây giờ bạn làm tổn thương tôi.

nếu tôi nhìn lên bức tường, tôi sẽ hối tiếc vì khi mặt đất đến gần bầu trời hơn sẽ làm tôi ngạt thở. Vì vậy, tôi quay nhìn lại bạn và nhớ tại sao mọi thứ lại thành ra như vậy, tôi đã rơi xuống ngay từ đầu khi tôi nhìn bầu trời xa dần.

do đó tôi đã không viết một bài thơ nào trong một thời gian dài, vì tôi có thời gian và tôi không có thời gian cũng trong cùng một lúc. Thật ra tôi không có lời nào để nói, những lời tôi cần nói, không phải là câu chuyện vui. Bàn tay tôi đã di chuyển các ngón tay lên bàn phím nhưng tôi vẫn không biết mình đang gõ gì. Tiếng gõ phím của tôi nghe như tiếng của các mảnh chai vỡ. Bạn nói: nghe giống như cuộc sống.


Lê Vĩnh Tài, the poet and translator born in 1966 in Buon Ma Thuot, Daklak, Vietnam. The retired doctor is still a resident of the Western Highlands and a businessman in Buon Ma Thuot.

Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.

Here’s some brutal honesty. | Nguyến Thị Phương Trâm

No different to elitists, those who are good translators do not need accolades, their work is their reward, they live it. Those who believe they are gods succumbs to mere popularity(the comrade’s way), they are slaves to fame “Do you know who I am!”..

So many people who have sold their soul for so little. They do not understand the word integrity.

But, each to their own. Just fuck off and leave me alone. I don’t need that kind of shit around me. If you want to intimidate me. Grow a pair of balls first or at least have talent. Otherwise piss off and do not waste my time.

Who ever wants to tell me to “calm down” can just as well FUCK OFF! I’m not 5 and neither are you. GROW THE FUCK UP! MY CHILDREN DID. TAKE ALL THE FUCKEN SCREEN SHOTS YOU WANT.

Honesty is not a sin. But what is sinful is a man who has no talent and loves paying for sex. 🙂

Animal Sacrifice | Trần Băng Khuê

A short story in Vietnamese by Trần Băng Khuê
Translator: Nguyễn Thị Phương Trâm
Art: Trần Băng Khuê

Published on GOBBLERS & MASTICADORES

Truyện ngắn

Vật tế

1.

Mù sương.

Không lửa. 

Khói.

Có khói. Khói bỏng mắt. Cay môi. Xồng xộc chạy theo cuống phổi vấp ngã trong thanh quản. Những âm thanh đùng đục thoát ra từ cuống lưỡi rồi bục thẳng vào khói. Như một khối ung nhọt, bị dồn nén lâu ngày được bung vỡ sung sướng. Trời vẫn mù sương khi ánh sáng đã lọt xuống, thủng cả một khoảng trắng trong không gian kì quặc này. 

Một lũ người quỷ ám hình dạng mờ ảo thoắt ẩn thoắt hiện trong sương mù. Hẳn sẽ nắng gắt lắm đây. Xuân thứ ba mươi mấy, năm của những con giáp bị người ta vặt lông làm vật cúng tế chào đón thời gian không chút thương xót. 

2.

Đợi đám đông di tản, nới rộng vòng tròn vây phủ, những người lạ mặt (tôi gọi đó là những người lạ mặt, vì họ có những khuôn mặt rất lạ, không giống mặt người) mới tiến gần lại giàn lửa thiêu. (trên giàn không có củi, không có chất dẫn cháy, không đuốc lửa cầm tay). Đám đông vừa mới nới rộng vòng tròn, lại tiếp tục dồn vào địa điểm ấy, tò mò hướng những ánh nhìn về phía vị trí chứa vật tế. Tôi, đứng giữa đám đông, tôi di dời theo đám đông. Và, chính tôi, cảm thấy mệt mỏi chán chường cuộc di dời lặp đi lặp lại của đám đông. Vây bủa, tản ra, rồi lại vây bủa, tản ra. Hò hét. Câm lặng. Rồi lại hò hét. Đám đông luôn luôn kì quặc đến mức không thể nào chịu nổi, theo như tôi nghĩ. Ấy vậy, tôi vẫn bị lôi kéo vào những cuộc chơi của đám đông, chỉ vì sự tò mò hồn nhiên của mình. 

Dẫu thế, ngay khi tôi hồn nhiên hùa theo cuộc chơi của đám đông trong buổi mù sương tờ mờ này, thì chính nó, những hiện cảnh kì quặc trên giàn tế ấy đã gợi một thứ cảm giác nào đó chơi vơi, buồn rơi nước mắt. Tôi có thể thấy những giọt nước mắt không nhỉ? Nó giống sương không nhỉ? Làm sao để tôi nhận ra đâu là nước mắt, đâu là sương là khói?

Tôi quyết định rời bỏ đám đông. (Tôi không thuộc về họ). 

Tôi là tôi. Ngay chính khi này, tôi vẫn muốn khẳng định rằng tôi phải là tôi. Một cá thể riêng biệt, buồn bã, đầy rẫy nỗi niềm sầu muộn ư? 

Tôi là tôi. Kẻ bị ruồng bỏ trong một ngày mù sương, đầy khói mà tôi biết, tôi nhớ. Thứ mù sương lạnh lẽo. Thứ mù sương hãi hùng cơn mê ẩn nấp những nguy cơ chết chóc, mất mát nào đó đã được dự báo trước. Ở giữa đám đông, tôi vẫn là tôi. Đám đông không chạm được vào tôi. Nhưng, tôi thì chạm được vào họ. Bằng tiếng thét, bằng những không gian ảm đạm, bằng chính cuộc chơi kì quặc của họ, và bằng chính sự vô hình của tôi. Dù rằng, lúc này, tôi cũng đang rất tò mò về sự biến kì quặc trước mặt mình trong sương khói vây phủ của sáng hôm nay. 

Một quang cảnh trống rỗng, cùng với một đám đông diễn trò bao vây, rồi sau đó tản ra, và lại ùa vào hét lên những tiếng bùng bục trong cổ họng. Tất cả chỉ có thế. Tôi chẳng hề thấy thứ gì hiển hiện hữu hình và ắt phải cầm nắm tóm bắt được. Ấy vậy, buổi tế vật dường như vẫn sẵn sàng ngay trước mắt tôi một cách đầy hứng khởi. Vài người khoác bộ cánh chỉnh tề tay cầm những tệp giấy có chữ (chắc chắn phải có chữ, nếu không họ sẽ phải làm gì cho việc bắt đầu buổi tế?). Một gã trẻ măng khệnh khạng từng bước chân đi chính giữa các vị ấy, đưa cao tệp giấy lên soi dưới mặt trời. Tệp giấy nghiêng nghiêng rồi phụt khói. 

Sương đã tan. Nắng đã bắt đầu gắt và bốc lửa. Nắng xuyên qua chữ. Những cái bóng in lên mặt đất. Bóng người chập choạng va đập vào nhau. Bóng chữ oằn xuống cong vẹo các kí tự viết tắt mà tôi kịp thấy chúng rơi tuột ra khỏi một trang giấy. Tôi nhìn theo bọn kí tự dưới đất. Chúng nhảy độp độp, như gõ lên nền đất thịt những thanh âm kì lạ. “có phải chúng đã vượt thoát”, (như tôi). Tôi nghi ngờ, rồi tự khẳng định lạc quan, rằng: “chúng sẽ vượt thoát sớm thôi, nhanh chóng thôi, chúng sẽ rời khỏi những trang giấy vô nghĩa làm nên các loại chuẩn tắc không kiềm giữ nổi căn tính của giống loài”.

Những kí tự vẫn tiếp tục rơi xuống, một vài chữ trong số chúng nằm lặng yên trên mặt cỏ đẫm sương như nước mắt và không hề có ý định nhúc nhích, rời đi. “Cỏ khóc đêm thâu. Mộ phần nằm sâu không chôn chặt được cái chết nổi trôi lên mặt đất”. Tôi lẩm bẩm, trong cơn mê mộng, đưa mắt nhìn về phía giàn tế trống rỗng một lần nữa. Đám đông vẫn tiếp tục vây bủa nhau, rồi tản ra, rồi hò hét, rồi câm lặng. Khói vẫn cuộn tròn phả lên đến tận mây xanh. 

3.

Tôi đăm chiêu quan sát những kí tự rơi vãi. Chúng vẫn nằm yên, tuyệt nhiên không hề động đậy. Tôi rời xa đám đông, đứng về một phía không có nắng. (Tôi sợ nắng. Tôi sợ mặt trời. Tôi sợ lửa. Tôi sợ cả khói). Một loạt những nỗi sợ hãi trào dâng lên trong lòng tôi cuồn cuộn như cơn sóng đập rộn rã ngoài khơi. Tôi nhớ sóng. Nhớ rằng tôi có lần đã được nằm nghe tiếng sóng rất thật qua nhịp tim của mẹ. Vậy mà, trong lúc này, khi tôi đang tò mò dấn thân vào một cuộc tế lễ kì quặc thì tôi lại thấy tiếng sóng bất giác trở thành một nỗi sợ hãi bám riết dưới ánh mặt trời. 

Tôi trở về với không gian trải ra trước đôi mắt trong như giọt sương sớm, ngắm nghía những kí tự rơi vãi. Chúng bắt đầu có động thái nhúc nhích. (Hẳn chúng cũng hào hứng với cuộc tế lễ kì quặc này). Tôi vừa dõi theo chúng, vừa nghĩ ngợi tiếp về mẹ, về sóng. Mẹ ở đâu nhỉ? Sao mẹ lại xuất hiện ngay chính khi tôi đang bận bịu rong chơi giữa mùa xuân, với những cuộc phiêu lưu kì thú trong vài hiện cảnh nhập nhoạng sáng tối của thế gian nhỉ? Tôi nghĩ về chữ Mẹ. Kí tự M. (Có thể là mẹ. Hoặc không). Dù gì tôi cũng chưa thấy mẹ bao giờ. Tôi chỉ biết mẹ qua tiếng sóng. Nhịp tim của tôi. Máu của tôi. Máu của mẹ. Máu của đại dương ngờm ngợp đêm sâu. Rồi, tôi lại nghĩ về một ý nghĩa khác của chữ M. (có thể là máu. Hoặc không). Máu tràn lênh láng sau cuộc sinh nở của một người đàn bà chẳng hạn. Tôi nghĩ về tôi. Là tôi trong một đêm sương lạnh chưa đủ hình hài. 

Bất giác những tiếng hét bùng lên, vỡ ra rồi câm bặt. Tôi giật mình, rời bỏ dòng ý nghĩ miên man không ai hay biết, tiếp tục hướng về cuộc chơi của những con người đủ hình hài kì quặc. 

Đám đông, cùng với những kẻ có khuôn mặt quái dị và giàn tế (không củi, không lửa, không thấy vật tế) vẫn đang tiếp tục trò chơi. (thôi, tôi gọi là trò chơi, chẳng ai dạy tôi gọi nó là một buổi tế lễ). Có thể nó chỉ là sự hình thành từ thứ nhận thức bất chợt. “Cuộc chơi của họ là gì thế nhỉ?”, nghĩ mãi, tôi cũng không hiểu, tại sao chỉ có một đám đông, một giàn tế không củi, không lửa, không cả vật tế. Ấy thế mà buổi tế vật vẫn kiên quyết diễn ra đầy sôi nổi, hắc khí đen nghịt quấn riết những đám mây một ngày nắng đẹp. Bỗng dưng, tôi thấy chán. Cơn chán chường này thường xuyên đến với tôi, mỗi lần tôi không còn hào hứng với trò chơi mà tôi chỉ vừa mới nhập cuộc. Chúng ngờm ngợp trong hơi thở vô hình của tôi. 

4.

Một ngày nắng đẹp. 

Tôi nghĩ, tôi phải rời đi, tôi phải rời khỏi nơi này ngay khi còn có thể chịu đựng cơn chán chường đầy nghịch lí này. Tôi rời bỏ giàn tế, tôi rời bỏ đám đông, tôi rời bỏ những tiếp diễn của một buổi lễ kì quặc mỗi mùa xuân ở phía trước. Tôi muốn tách biệt hẳn khỏi đám đông để được lặng yên ngồi trên những mộ cỏ suy tư về những điều tôi thấy. Mộ cỏ trầm uất từ đêm tối đến giờ khi tôi rời đi để rong chơi một mình. Mộ cỏ đẫm sương đã bị nắng gắt làm héo khô mất vẻ tươi xanh ẩm ướt. 

Dù đã rời bỏ giàn tế, nhưng tôi, dường như tâm trí tôi vẫn không rời bỏ khỏi những thứ tôi đang tưởng tượng. Cuộc chơi ấy sẽ diễn ra như thế nào nhỉ? Họ sẽ làm gì tiếp theo với một giàn tế không củi, không lửa, không vật tế, chỉ có một đám đông, một nhóm người hành lễ mang khuôn mặt kì quặc mà tôi lần đầu tiên được thấy trên đời. Tôi lại nghĩ về mẹ, về tiếng sóng. Tôi không biết khuôn mặt của mẹ. Tôi chỉ nghe và nhớ tiếng sóng. Hẳn là hình dạng khuôn mặt của mẹ giống như sóng. Là sóng. Có khi nào mẹ là sóng. 

Trên mộ cỏ khô héo, tôi ngồi trên mộ cỏ khô héo cách xa không gian buổi tế lễ một khoảng ngắn, tôi nhận ra những kí tự, chúng đã rớt khỏi từ tệp giấy của những người hành lễ và đang tiến về phía tôi. Chúng vừa nhảy độp độp, vừa thở hổn hển trên mặt đất. Chúng lết đến bờ cỏ khô héo dưới ánh nắng mặt trời bỏng rát. Hiện thực rõ ràng nhất. Ấy thế, mắt tôi vẫn mong tưởng về những mảng cỏ tươi xanh đẫm nước (đó là tôi mường tượng, chẳng có bờ cỏ xanh mượt nào còn ướt mềm sương dưới mặt trời nửa buổi). Những mong tưởng của riêng tôi luôn luôn mâu thuẫn, đối nghịch với hoài nghi. Tôi hoài nghi chính tôi. Tôi hoài nghi mặt trời. Tôi hoài nghi ánh sáng. Tôi hoài nghi những cuộc chơi kì quặc của đám đông nọ. Vậy mà, tôi vẫn muốn được tham gia, muốn biết điều gì xảy ra trong cuộc chơi đó. Lạ kì thật. Bất giác, tôi cảm thấy một nỗi buồn vô hạn xâm chiếm lấy linh hồn bé bỏng ngây thơ và thèm khát khám phá thế giới này. 

Tôi không tiến gần đến đám đông, đến giàn tế nữa. Tôi muốn ngồi đây để quan sát đám kí tự vượt thoát khỏi tệp giấy kia xem cuộc chơi của chúng. Kí tự C chổng ngược vành chữ thành hình cánh cung, trên mây có một con chim lạc bầy liệng chấp chới hoang mang rồi rớt phịch xuống mặt đất, ngay cạnh tôi. Tôi nâng cánh chim non bị thương lên, vài giọt máu rỏ xuống, mộ cỏ héo khô bỗng dưng tươi xanh trở lại như vừa đẫm sương. Chim non đã chết. 

Tôi cúi mặt tìm các kí tự khác. Hẳn là sẽ còn những kí tự khác thoát ra từ tệp giấy. Kia rồi, L chậm chạp không thể nhảy lộp độp như C, đang tiếp tục tiến về phía tôi. L dừng lại, nằm xuống vệ cỏ và khóc. Tiếng khóc như giun như dế, như ong như ve, như muỗi vằn giữa đêm khuya lên cơn khát máu. Tôi biết đó là một tiếng khóc, tiếng khóc câm. Chúng nén chặt trong cổ họng tôi, khiến tôi đau đớn. (Tôi chưa được khóc thành tiếng bao giờ). Dù vậy, lúc này, tôi lại nghĩ về tiếng sóng. Có khi đó là tiếng khóc của tôi. Rồi, tôi lại bận lòng đuổi theo những suy nghĩ, những ám ảnh về các vòm cổng vào nhà hình chữ L. Chúng chỉ mang lại sự chết chóc. 

Mải mê với những kí tự đang hiển hiện xung quanh mình, tôi quên mất đám đông và giàn tế hồ như vô hình trước mắt. Hiện tại của tôi là những kí tự kia, những chữ cái đã rơi ra khỏi các trang giấy trắng ngờ nghệch. Tôi muốn biết sẽ còn kí tự nào khác tiếp tục cuộc chơi vượt thoát đặc biệt này. Dưới lòng bàn chân tôi, nhồn nhột, (ấy là tôi tưởng tượng, những ngón chân tôi không đủ hình hài tròn trịa của tôi), chúng cựa quậy, rồi một thứ gì đó hơi cộm lên. Tôi nhích bàn chân khỏi mộ cỏ, tháo rời xác thể mây khói ra khỏi mọi ràng buộc để cảm nhận rõ hơn sự tồn tại của một thứ kì lạ mà lần đầu tiên tôi biết rằng nó có thực trên đời. Tôi cúi xuống thấp hơn, một chữ V góc cạnh, chỉa thẳng lên, chạm vào hình dáng ngón chân lớn nhất của tôi. (ngón chân lớn nhất của tôi). Chữ V không biết bằng cách nào đã tiếp cận được tôi. Chữ V khiến tôi buồn. Nỗi buồn dưới lớp da không hiển thị. Lớp da chưa kịp thành hình thành dạng như bao kẻ khác. Nỗi buồn luồn sâu vào phía trong, thấm nhanh vào máu thịt ảo ảnh. Rõ ràng, tôi đã cố tình bỏ quên những vấn đề liên quan đến sự tồn tại khả hữu của bản thân mình. Vậy mà tôi vẫn chẳng thể nào ngừng đặt một dấu chấm hỏi về tôi, về mẹ, về những tiếng sóng chập chờn thoắt ẩn thoắt hiện trong từng lớp ký ức ảo diệu.

Tôi nhặt chữ V lên, tôi ngắm nghía nó dưới ánh nắng vừa lẻn xuống từ những đọt mây xám trên đầu. Bất chợt từ trong đám đông ở phía giàn tế những tiếng thét thất thanh đau đớn như có kẻ bị đốt chết. Không, giàn tế vẫn lặng im chưa thắp lửa. (không có củi, không vật tế, không chất dẫn cháy), làm sao cơn đau vang vọng tới tấp đến như thế được. Tôi tò mò, (rồi, có khi tôi cũng phải tò mò về sự hiện diện của vô khối thứ kì quặc tồn tại xung quanh mình). 

5. 

– Lửa. (đã bắt đầu có lửa)
Ngọn lửa từ trên núi vừa ào xuống. Chúng tuôn ra. Chúng chảy tràn ra như suối. Lửa biến thành biết các hình khối đặc quánh, lửa hóa gió, nhanh như gió nung đốt mọi thứ trên đường tuôn chảy của chúng. Lửa trồi lên, sụt xuống. Rồi hất tung những bó hoa lửa về phía đám đông, tạt vào giàn tế không củi, không chất dẫn cháy. Và cháy. Lửa bủa vây tạo hình thành một vòng tròn. Đám đông dạt hẳn ra khỏi vành lửa. Đám đông bắt đầu hát. Những kẻ lạ mặt tề chỉnh xiêm y bắt đầu gọi tên vật tế.
– nước.
Nước. [đám đông đáp lời]
– đất.
Đất. [lầm lũi đáp]
– cây [đám đông cướp lời]
Trăm năm bật gốc.
– biển
Cá khóc lên bờ [đám đông đáp lời]
– lúa
Lúa đương thì con gái. [đám đông lại đáp lời]
– ớt
Cay. [đám đông dụi mắt đáp lời]

Đốt.
Đốt.
Đốt.

Đám đông vốc rồi lại ném. Vốc rồi lại ném. Ném vào trong lửa. Ném vào giàn tế. Đám đông hào hứng ném. Lửa hừng hực cháy. Những con người kì quặc căng giọng ra quát và hét. Lửa càng cháy mạnh. Đám đông càng vốc vội các vật tế được gọi tên và ném cật lực cho đến khi kiệt sức. 

Gã trẻ măng cầm tệp giấy mà tôi nhớ có dáng đi khệnh khạng ấy vừa tiếp tục cất giọng gọi tên một vật tế khác. Lòng bàn tay tôi nắm chặt mẫu tự V. Tôi căng tai lắng nghe, dõi theo buổi tế kì quái ấy. Tiếng của đám đông gào lên mạnh hơn. Họ vừa gọi tên vật tế nào thế nhỉ? Hình như là nó, chữ V, (tôi câm lặng nhìn ngắm chữ V đã làm cho những ngón chân tôi biết đến cảm giác đau đớn sung sướng ấy)

Chữ V cựa quậy bật khỏi lòng bàn tay vô hình của tôi và rơi xuống đất. Chữ V nhảy độp độp thật nhanh về phía giàn tế, về phía đám đông và lũ người quỷ ám. Tôi đuổi theo chữ V, hòa vào đám đông, nhìn thật gần giàn tế. (vẫn không củi, không lửa, không thấy vật tế nào hiện hữu). Tôi ngơ ngác nhìn những cái bóng vây quanh mình đang hò hét, gào thét tên vật tế cuối cùng, “máu”.
Không một thanh âm nào bật lên đáp lại. Tôi nghe những tiếng máu rần rật chảy đâu đó, như thác, như lũ, như mưa. 

Ở phía giàn tế, máu xối xả được tạt vào trong lửa.
Máu chảy tràn xuống nằm dưới chân tôi. Chữ V bật nảy lên và nhanh chóng lao về phía đám đông, nhảy xổ thẳng vào giàn tế. Máu đang sôi. Mặt đất lênh láng máu và lửa như những dòng nham thạch từ trên núi đổ xuống. 

Chân tôi bết máu. (những ngón chân chưa thành hình của tôi)
Chân tôi bết đất. (những ngón chân chưa thành hình của tôi)
Chân tôi dính chặt vào nhau không tài nào tách rời ra được. (những ngón chân chưa thành hình của tôi)

Tôi muốn đi. Tôi bất giác muốn đi. Chập chững tập đi. 

(đi về đâu?)

Đi về nơi có tiếng sóng. Đi về nơi có mẹ. Mẹ tôi là sóng. 

Tôi muốn ê a đọc chữ. Từ chữ đầu tiên cho đến chữ V. (Chữ V tan biến) 

Tôi tan biến. (như chưa bao giờ xuất hiện). 

Tôi là một hình hài chỉ được nghe tiếng sóng qua nhịp tim của mẹ chưa đủ chín tháng mười ngày. Tôi không phải là tôi. Tôi là vật tế cho cuộc chơi của những người lớn. 

Giàn tế thực ở đó, ngay vạt đất đỏ đó vẫn còn sót lại vài dấu vết nhỏ. Máu khô. Đen. Và bám đều lên từng cành cây nhánh cỏ khô và héo dưới ánh nắng mặt trời gắt gỏng bỏng lửa xung quanh ngọn núi hoang buồn bã, cô độc. Đám đông cũng dần tan biến mất. Linh hồn tội lỗi di trú trong không gian cũ kỹ, lạnh lẽo. Linh hồn đáng thương nấp sau mộ cỏ đẫm sương như nước mắt lặng câm không được phép cất tiếng chào đời. 

Chiều tà, bóng phủ. Một màu đen kịt hào phóng buông thả thứ hắc ám quen thuộc lên bất kì vật tế nào mà nó thích. Đám gà trống cẩu thả gáy như điên loạn trong bóng tối. 

Giá mà ngày mai trời sẽ sáng. 

Animal Sacrifice

1.

Foggy.

Fire, no.

Smoky, yes.

The smoke. Burning the eyes. On lips, bitterness. The chase was on and the bronchioles were tripping over the larynx. The deep dense sound escaped from the foot of the tongue pointedly penetrated the smoke. Like an oozing ulcer, bubbling away for a long time to suddenly explode in a release of joy and glory. The sky hid behind the fog as the light filtered through, holes through the ghostly whiteness.

A group of devilish looking people emerged from the eerie fog. It’s going to be a very sunny and hot day. The thirtieth something spring, the year for those destined to have their feathers plucked and offered up as a sacrifice to time, without an ounce of sympathy.

2.

Waiting for the crowd to dissipate, the circle of onlookers widened, the strangers (I call them strangers, because they were very strange, their faces devoid of humanity) drawn to the sacrificial fire. (on the pyre there was no firewood, no fire starter, no torch). The same circling crowd edged their way towards the same spot, their curious eyes focused on the sacrificial altar. I was amongst the crowd, moving with the crowd. And, I was tired, and the repeated movement amongst the crowd was exhausting. Crowding together, to then dissipating, to again crowding, dissipating. Screaming. Silence. The crowd was persistently confounding to a point that it was unbearable, I thought. Yet here I was again, pulled back into the crowd due to the nature of my curiosity. 

Despite it being a matter of fact for me to run with the crowd, inside this undecipherable fog, the whole thing in itself, the strange things that took place on the sacrificial altar brought to the surface a state of emptiness, a sadness like crying. I wonder if I could see the teardrops? Do they look anything like dew drops? How will I be able to tell the difference between a drop of dew and a tear, smoke or the fog?

I made a conscious decision to leave the crowd. (I didn’t feel like I belonged).

I am me. Right at this very moment, I want to make sure I am myself. An individual, sad, full of sadness?

I am me. Someone who was abandoned in a fog one day, fully aware of the smoke, the memories. A chilling fog. A mesmerising frightful fog filled with hidden death traps, predestined loss. Amidst the crowd, I was still me. The crowd can not touch me. But, to me they were not intangible. Through the shrieks, the bleakness, through their strangeness, my shapeless existence. Even though, momentarily, I’m distracted by an odd curiosity wrapped up in a blanket of fog which took place in front of me this morning.

An empty space, with a bunch of people hovering, spreading out, to then again be in a hovel pushing and shoving, howling grunts from the back of their throats. It is just that. I have never witnessed anything so simple right in front of me. Yet in front of me, was an elaborate sacrifice. A couple of the official celebrants wore wings and held scrolls of written letters (there definitely has to be letters in them, otherwise how would they start the ceremony?). An awkward young man walked at the centre of the group of celebrants, lifting the scrolls high towards the sky awashed in sunlight. The scrolls shifted a little before it began to emit smoke.

The mist dissipated. The sunlight was now harsh and burning. The sunlight pierced the letters. Their shadows were imprinted on the ground. The flickering human shadows momentarily joined together. The shadows of each word stretched out intertwined with one another, the abbreviated characters on the page fell to the ground before I could even catch a glimpse of them actually falling. I watched the letters on the ground. They were jumpy, bouncing on the earth’s flesh giving off an unusual sound. “have they escaped”, (as I did). I was at first wary, then decided on being more positive, that: “sooner or later, they would have to, escape, they would have left those useless pages the making of some sophisticated language that could never hold up the identity of the species”.

The letters continued to fall, a few words amongst them lay silently on the grass damp with dew like tears with no intention of ever moving again, remained. “The grass wept through the night. The deep tombs couldn’t bury the death floating above ground”. I mumbled, dazed, and for the last time lifted my eyes toward the empty altar. The crowd continued to rub against each other, to then leave, to then shout, to then be silenced. Reaching the blue sky, the smoke continued to curl and rise in a spire merged with the clouds.

3.

I was mesmerised by the scattered letters. They lay there unmoving, not a single twitch. I’ve gone far away from the crowd, standing on the side, away from the sunlight. (I’m fearful of the sunlight. I’m fearful of the Sun. I’m fearful of fire. I’m also fearful of smoke). Sometimes the fear overwhelms me like the endless pounding ocean waves. I missed the waves. I remembered once how I was able to listen to the pounding waves, the same rhythm as my mother’s heartbeat. But, right now, my focus was caught up in this odd sacrifice and the sound of waves suddenly turned into a fear I couldn’t escape from under the glaring sunlight.

I returned to what was unravelling in front of my two eyes as clear as drops of morning dew, I admired each and every fallen scattered character. They appear to be moving ever slightly. (It was clear they were also excited by the same sacrifice). My eyes followed them, as I thought about my mother, and the waves. I wondered where my mother was right now at this very moment? Why did the thought of her appear out of nowhere in the middle of my busy schedule, in the middle of spring, when it’s time for games and frolicking, amongst these strange adventures within an undefined light and darkness of this world? I thought about the word Mother. The letter M. (It may represent the word mother. Or it may not). Since I’ve never seen my mother. I only know my mother through the sound of waves. My heartbeat. My blood. My mother’s blood. The blood of an ocean pulsating through the sound night. Then, I thought of a different meaning for the letter M. (It could be My blood. Or maybe not). The blood all over Me after My Mother gave birth to Me for instance. I thought about Myself. Me being formless on a cold foggy night.

Suddenly, there was a scream, all were silent. Startled, I abandoned the long strand of thought unbeknown to anyone, and continued to head towards the bizarre materialising human forms through the fog.

The crowd, and the demonic faces in front of the sacrificial altar (no wood pyre, no fire, no animal for sacrifice) waiting to see how everything might play out. (so sure, I called it a game, no one had told me it was ceremonial sacrifice). It could be some sort of perceived idea that had suddenly taken shape. “What is their game?” I pondered, and there was no answer, why was there only one crowd, one altar and no wood, no fire, no sacrificial animal. Yet the sacrifice went ahead with pomp and ceremony, the black gas continued to wrap itself around the clouds in the brilliant sunlight. Then just like that, I was bored. Such boredom often followed, after the exciting beginning of any of my new games. It’s always there hovering in my formless breath.

4.

One lovely sunny day.

I believed I had to leave, I must leave this place when I can still bear such spasmodic boredom. I walked away from the altar, I walked away from the crowd, I walked away from the activities of the sacrifice in preparation for the coming spring. I wanted to set myself apart so that I was able to sit on the barrow and ponder what I saw. The tumulus then became more sombre since the night I had left to be alone, to humour myself. The tumulus steeped in dew then was now arid in light of the harsh sun, devoid of its damp green freshness.

Even though I was no longer an attendant of the sacrifice, my mind was continuously drawn to it. How will the game unravel? What will they do with an altar without firewood, without fire, without animal sacrifice, nothing but a crowd, a couple devilish looking celebrants that in my entire life have never seen. I thought then of my mother, and the waves. I don’t know what my mother looks like. I could only recall hearing the sound of waves. Clearly my mother’s face was a picture of waves. Actual waves. What if the waves were actually my mother?

On the dry and withered barrow, I sat not far away from the ceremonial sacrifice, I was able to watch the letters, and saw what happened after they fell onto the ground from the scrolls in the celebrants’ hands, they were making their way towards me. The letters popping like popcorn on the ground, breathless. Under the blistering sun, they dragged themselves towards my mound of dead dry grass. What took place was as clear as day. Yet still, my eyes were dreaming of moist green grass (all of course in my imagination, there is no such thing as a patch of wet grass at noon). I was inflicted constantly with these incongruous dreams, the opposite to what was supposedly true. I was suspicious of myself. I was suspicious of the Sun. I was suspicious of the light. I was suspicious of the game those people were playing. Yet still, I wanted to participate, wanted to know how everything might turn out. The strangest thing. Then out of nowhere, an endless sadness overwhelmed me, I was a tiny pure soul thirsting for more and more of the world.

Again, I head towards the altar and the crowd. I wanted to watch the letters fall out of the scrolls and see what they might do next. The letter C stretched out like bowstrings pointing at the sky, swaying ever slightly, a startled bird flying far from its flock fell, kerplop to the ground, right next to me. I lifted the bird’s wing and a few drops of blood fell out, and the dry grass was suddenly green again, moist with dew. The tiny bird was dead.

Bending low, closer to the ground, I looked for more of these letters. More letters must have fallen from the scrolls. There was the slow and lethargic L, not energetic like C, was making its way towards me. L stopped, broke down on top of the grass, and started to cry. Its cries were much like that of tiny critters, like worms and crickets, like cicadas, like bees, like the blood-thirsting mosquitos in the dark. I was also fully aware that the cries were silent. The kind that gets choked up in my throat, the painful kind. (I have never audibly cried). Yet, there I was, thinking about the sound of those waves. Perhaps it was me who was actually crying. I would then chase these thoughts, these obsessions on the arched entrances of those L-shaped houses. They brought nothing but death.

Hypnotised by the letters around me, I forgot about the crowd and the sacrifice, indefinitely in front of me. I was momentarily distracted by the letters, by all the capital letters fallen from those baffling white pages. Wondering what other letters will fall out in this interesting game. I felt something tickling the pad of my feet, (all of this was in my head of course, my undefined toes, not fully formed roundly in my mind), they were wriggling, then I could feel there was actually something there. I shifted my feet on the tumulus, unravelling each smoky corpse at a time, confirming the possible existence of an encounter with the strange phenomenon for the first time ever in my whole life. I had a closer look, the pointy tip of the letter V, was pointing straight up, touching the bottom of what looked like my big toe. (my big toe). The letter V didn’t know what to make of me. The letter V made me sad. The sadness skin deep beneath my imaginary skin. The skin yet formed like everything else. The sadness penetrated deeper, infiltrating my imaginary bloodstream. It was clear, I had deliberately abandoned anything that has to do with my possible existence. And I did not pause for a moment to question my existence, my mother’s, or the reality of those quivering waves hidden in every layer of my awe-inspiring memory. 

I picked up the letter V, I admired it beneath the escaping light through the black clouds overhead. Suddenly from the crowd and the altar was a speechless shriek, it was as though some living thing was being burned alive. But no, the altar was in complete silence void of any kind of fire. (no firewood, no animal offering, nothing to kindle the fire), how could there be such an incredibly painful cry. I was now really curious, (like, anyone would be curious about anything which was strange around them).

5.

– Fire. (now there’s fire)
The fire descended from the mountain. An escalating flash fire. Overflowed like water in a spring. The fire taking up all forms, sometimes thick, sometimes much like the wind, a scorching wind which consumed everything in its path. The fire rose and then died out. Spitting amber rosettes at the crowd, sweeping over the pyre void of wood, void of fire starters. And it burned. The surrounding fire formed a circle. The crowd moved completely away from the circle of fire. The crowd began to chant. The strangers in ceremonial dress began to call out the names of what will be sacrificed.
– water.
Water. [the crowd replied]
– earth.
Earth. [the crowd replied all at once]
– trees [the crowd took the words out of the celebrants’ mouths]
Hundred-year-old uprooted.
– sea
Weeping fish out of water [the crowd replied]
– harvest
If not the harvest then the virgins.  [the crowd replied all at once]
– chilies
Hot. [the crowd replied as they rubbed their eyes]

Burn.  
Burn. 
Burn.

The crowd was picking and throwing. Picked and threw. Throwing whatever they could into the fire. Throwing whatever they could at the sacrificial altar. The crowd enthusiastically threw at the fire. The fire burned with passion. The strange-looking celebrants were shouting. The fire was burning even stronger than ever before. The crowd rushing picked and threw each item of sacrifice faster and faster with all the strength they could muster to the very moment they were spent.

The young guy with the awkward stride continued to call out each item of sacrifice one after the other. I tightened my grip on the letter V. Intently I listened for the next sacrifice, following every step of this strange sacrifice. The crowd was now screaming even louder. What was the last sacrifice they called out? It might be it, the letter V, (silently I admired the letter V that had brought so much pain and joy to my toes)

The letter V wriggled itself out of my shapeless hands and fell to the ground. The letter V hopped quickly towards the altar, the crowd and the devilishly possessed people. I chased after the letter V, merged with the crowd, eyes focused on the altar. (still with no firewood, no fire, no actual sacrifice). Confused, I surveyed the screaming people around me as they screamed out the last sacrifice, “blood”.

There was not a single reply. Then somewhere was the sound of blood gushing, poured like a waterfall, like flood water, like torrential deluge.

Blood was then thrown at the fire, at the altar of sacrifice.

The blood overflowing met my feet. The letter V quickly jumped, headed straight for the crowd, right onto the altar. The blood was boiling and bubbling away. The ground was glossy with sticky blood and the fire was like a flow of volcanic lava.

My feet were sticky with blood. (my unformed toes)

My feet were sticky with blood. (my unformed toes)

My feet were stuck together and there was no way of separating them. (my unformed toes)

I wanted to walk. I suddenly wanted to walk. I wanted to learn how to walk.

(walk to where?)

Walk towards the sound of waves. Walk to where my mother might be. My mother was the waves.

I want to learn how to ee a read the letters. Beginning with the first letter, which happened to be the letter V. (The disintegrating letter V)

I was disintegrating. (as though I was never there).

I was a manifestation that could hear the sound of waves through my mother’s heart yet fully nine months and ten days. I was not yet me. I was the sacrifice for a bunch of adults playing a game.

The real sacrificial altar, right at that patch of red earth, right where there were still remnants of evidence. Dried blood. Black. An even spatter on the branches and blades of withered dry grass under the scorching sunlight surrounding a sad, desolate and lonely mountain. The crowd gradually also disintegrated, disappeared. The sinful souls presiding in this ancient, chilly place. The pitiful soul hiding behind the tumulus damp with dew much like tears silent without ever being allowed to utter a word, to ever be born.

The late afternoon was a blanket of shadows. Something soundly black generously threw upon whatever sacrifice they deemed fit a familiar darkness. Within the chaos of the dark the roosters were frantically crowing.

Will there be light. Tomorrow.

July 2021

Trần Băng Khuê

Trần Băng Khuê, born in Vietnam in 1982, lived for a period in Auckland, New Zealand. A talented writer and an aspiring artist who currently lives and work in Huế, Vietnam.

Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.

Nets | Trần Băng Khuê

A short story in Vietnamese by Trần Băng Khuê
Translator: Nguyễn Thị Phương Trâm

Art by Trần Băng Khuê

I started seeing them everywhere.

In places I’ve lived or where I may have spent a few hours.

This time, I had to make sure it was not a dream or passing hallucination. I definitely saw them. Clearly, vividly, it was no surprise. They were  as tangible as though they were in 3-D. I didn’t see them with my eyes. I saw them clearly in my head. I thought, I should practice viewing my surroundings through my mind instead of conventionally through my eyes. The brain is more attentive. But then suddenly, I could no longer see them. They have left me. They were missing from a mind full of dreams. Mercilessly they have abandoned me. The sickly pale bluish nets, the connection between the sky and a parallel universe. The nets just there behind the wide opened door to the heart of a sea that was apparent in my mind.

Then again, when they were around, I would grow increasingly sick of the sight of them in my head, they seemed out of place, around these bony fingers were these twisted nets, stretched across everything, holding onto the intangible faith of their existence.

I, decided, to abandon the nets to embark on finer dreams.

Which means, I had to actively conjure up such dreams. Since, in truth, I knew, there was another world, another plane of existence. Between them were these intimate familial connections, hard to separate.

I began to dream about them.

When all my senses were fully on in these trances, they appeared, round and plump, giggling and playful, ready for action.

Then sometimes, they would irritatingly disappear, my mind was then left in a jittery mess, like Japanese ferns trying to climb up a wall without any kind of discipline or order, undefined in form and colour.

I thought of completely abandoning all my dreams.

The dreams perished the way they appeared without notice. I can no longer see them. After a couple of times gently hitting a few walls. They, the walls erected in my way and they; me and the dreams; and also I and myself. The unsung superhero, hidden behind the dreams, the apparitions, the hallucinations of sounds and voices.

I wanted it to consistently appear in my sleep. Even if it’s in a crumbling dark corner of existence. It was difficult to work out, but someone was trying to tell me something, before I was able to blink: “you need a dark corner. you need to crawl into it and hide”. The reason I continued to give in to the voices every night was probably because I needed that very dark corner. I need to find it, to ask the most oblivious question ever: “Why,  why were there such things in this world?”

A place that couldn’t be darker compared to the sky tonight. I needed it to show up so it may confine me. I wanted to hide from the nets. They come in red, they would often chase me, to then capture me. A giant net. I had to remember, remember to hide from them, from the nets that had a mind of their own, they knew how to laugh, tease, stick out their gruesome long red tongues, and made fun of me. Now and again, I would try to put my foot down, stand my ground, I refuse to be threatened by them. Still, it felt as though at times it was impossible to escape the fear, the demonic nets, it felt  as though someone or something had a hold on them, invisible hands were manipulating them, they were like marionettes. I thought, clearly “they deliberately hid their identity, but wanted to connect with me, by weaving a web that would slowly confine and trap me, eating up my time, squeeze the life out of me”.

I’m still looking for a place to hide. Especially, since, at a time like this I needed to find a way to dampen the unexplained fear that sometimes causes my legs to shake uncontrollably. The world has suddenly become more difficult to understand and more unstable compared to what I’m used to since the day I came into this world. The world is now more like these nets. All around me the overwhelming selfishness in every pair of wary suspicious eyes. They climbed on top of each other. The lingering sardonic faces, the hate. In front of me, they growl, they bicker, they threaten each other, and I’m sick of it. Sometimes carelessly I would shrug off such laden sound-sadness in blows awaken my heart, naturally once all that I may feel were stripped away painstakingly slowly in the most pathetic pitiful way possible from my very core, to then perish completely.

This afternoon, I have no need for my stylish white washed walls, nor did I need the unearthly lights I used to adore.  I wanted my vision to focus on the yard where we hung our laundry, where resides an ancient wood stove blackened in layers of smoke and ash. (still blackened and charred with layers of smoke). It made me think about the tiny storage my mother housed everything in at the very back of the house. As it turned out, all the small things are the things which truly count. They are more of a sure thing than those sharp pointy nets constantly trying to entrapped me and my world.

But because it is what it is, it was impossible for me to escape it.

Back against the mountain. From the veranda where I’m standing, I could see the entire city. Dusk was long gone, and night had taken over. But tonight everything was surreal in my eyes. Sadness ruled. They stretched their legs, throwing nets all over the valley, and those oblivious to the world or rather deliberately oblivious. Home, a temporary place housing life and death. What’s there at all for people to show off or be boastful and excited about. The sad, pale and sickly condition was evident on their faces. Presently, the imposing noise and chaos piling on top of each other, the noisy sound of funeral pipes in the alley by our house, the vivid dreariness against the spine of the mountain.

Time has washed away so many years, the nets continued to hold on tightly, manipulating, confining me. Now and then they would change their tactic, change the conditions. Nothing, but whitewashed walls merging over each other periodically deceiving the tenants in them. They push their way into my field of vision, into my heart, slipping and crawling on my lips like the endlessly exploding droplets of salty sea water night after night without rest returned over the choking, crashing, overwhelming waves. Waves could be as choked up as pain is choked up latching onto the lapel on your shoulders, the sticky mess latching onto every fibre, with no way of ever being completely removed. My memories, sometimes, were like the dreams where people climbed on top of each other onto these flimsy trees bending with the wind in a storm only to wrap themselves in mourning shrouds, only to sink into the chasm of night.

Someone was telling me to go to sleep.

I lowered my head. Remained silent. Whoever it was will eventually get sick of it and stop.

I couldn’t breathe if, they: these pits of darkness refuse to completely die, these phantom entities refuse to disappear, or simply pull back into a corner somewhere even for a moment. I refuse to sleep if it’s still dark outside, and the rain persists in these lullabies in light of the soul within these tumulus. I will not sleep, as long as the echoes of desperate cat cries continue to persist in the valley. 

The sounds of the funeral pipes right by the side of our house dragging on and on with the rhythmic beating of rain on the tin roof, out on the veranda. I sat with my legs crossed, listened, it was like an incantation of prayers from the forest and every sombre home caved in by city lights.

Someone was telling me to go to sleep, again.

They don’t know about the nets. They were preoccupied with installing public speakers on every electrical pole to remind people to go to sleep. I decided to stay up the entire night, and see, what those stubborn nets had instored for me, how they intend to poke and prod me. Again the man reminded me to go to sleep. It was clear, the same man had been telling me to go to sleep, no one else but him. Yet, sometimes present and sometimes hidden were these shadows of a man screaming into my ears in a familiar deep voice. The nets didn’t know how to talk. The sound of the funeral pipes continues to drag out its agonising melodies. I can not close my eyes. Dead people must close their eyes. The dead with eyes open were clearly,  rather scary.

I could hear my father mumbling alone by the stairways in the dark: “the night sky is like an overwhelming net”.  I jumped, as someone screamed into my ears telling me to go to sleep. This time, I could no longer bear the agonising pull of something that was shapeless and intangible in the dark. I was eager for the morning light. Maybe dawn might bring with it an escape from the annoying silence in the night.

Four days, five days, six days, seven days, the wailing of the funeral pipes trailed along the foot of the mountain, right by our house. Perhaps, the living can’t let go of the dead. Or maybe, the living wants to forever hold onto the nostalgia of the slowly rotting corpse inside the coffin? Perhaps, they never want to bury death.

The valley seemed to retreat deeper into the earth as the stars began to appear as though they were the makings of a giant net. I still could not close my eyes at night. Thus, I would constantly find myself earnestly waiting for the sunrise. Our house was at the centre of the valley, like an animal bait that had slipped through a magical net of the night. Like the odd breeze escaping through the gaps in the metal frames of the window sill. Sometimes, it is the heralding of change. Pulling my shoulders back, my head was heavy, the blood pumping through my temples felt like the synchronised slamming of a hammer. The ache resounded in a single ring of a bell. Outside at the gate, a gate painted in the sombre hues of an afternoon storm, I saw the flashing strips of lighting. Perhaps, they will tear to shreds the nets, as well as the clumps of clouds at the end of the path that leads to a dome over the gate of light.

I was half dreaming when I heard the familiar voice of a man calling me from the kitchen. Last night, as it turned out, I was tucked away in a dark corner of my mother’s room and had fallen into a long sleep full of lucid dreams of people going crazy, they were trapped inside the nets of their own making. The council’s speakers at the end of our street were again making an announcement. They make these announcements without fail, usually a short message early in the morning, only to remind those who have just returned from work to go to sleep.

August 2021

Truyện ngắn                       

Mắt lưới 

Tôi bắt đầu nhìn thấy nó ở khắp mọi nơi. 

Những chốn tôi đã từng dừng chân trú ngụ hoặc chỉ tạm thời thăm viếng dăm ba thời giờ nào đó rảnh rỗi. 

Lần này, tôi lại phải khẳng định thêm nữa, rằng nó không phải là giấc mơ hoặc thứ tưởng tượng chập chờn trong trí não. Tôi đã nhìn thấy nó. Rõ ràng, không một chút mờ ảo, khuất tất. Nó sống động hệt như hình ảnh ba chiều. Tôi không nhìn nó bằng mắt. Nó nằm trong não. Tôi nghĩ, nên tập nhìn mọi thứ xung quanh mình bằng não thay vì mắt thường. Não, hẳn sẽ sáng suốt hơn. Nhưng rồi, tôi không còn nhìn thấy nó nữa. Nó đã rời bỏ tôi. Nó đã biến mất khỏi trí não đầy mộng mị của tôi. Nó rời bỏ tôi không một chút thương xót. Những mắt lưới xanh xao, kết nối bầu trời và các vũ trụ song song hiện thể. Những mắt lưới hiển hiện đằng sau cánh cửa vừa mở toang ra nơi lòng biển mà tôi nhận thấy.  

Rồi, bất giác, tôi trở nên chán ghét việc phải suy tưởng về chúng, những mắt lưới lạc lõng đu bám ẩn hiện trên các đốt ngón tay xương gầy uốn lượn, vươn ra tứ phía chỉ để bíu với một niềm tin vô hình về sự hiện hữu của chính mình. 

Tôi, quyết, sẽ rời bỏ những mắt lưới, để nghĩ nhiều hơn về những giấc mơ. 

Hẳn nhiên rằng, tôi phải thường xuyên nghĩ về những giấc mơ. Bởi, một lẽ xác đáng, tôi biết, đó cũng là một thế giới. Giữa tôi và chúng luôn có sự kết nối rất đỗi gũi gần, quen thuộc khó lòng tách rời. 

Tôi bắt đầu mơ về nó. 

Khi tất cả mọi giác quan của tôi chìm dần vào những cơn mê, nó xuất hiện, chĩn chện cười cợt trêu đùa với tôi. 

Thỉnh thoảng, nó biến mất một cách lạ lùng, khiến tâm trí tôi hỗn độn như mớ bòng bong rối loạn, không rõ hình thù, màu sắc. 

Tôi nghĩ đến việc ghét bỏ mọi giấc mơ. 

Những giấc mơ thường chết đột ngột như khi nó đến không cần báo trước. Tôi chẳng còn nhìn thấy nó nữa. Sau một vài cơn va quệt nhẹ với các loại tường. Chúng, những bức tường dựng lên sừng sững ngăn cách tôi và nó; tôi và giấc mơ; tôi và cả chính tôi nữa. Kẻ siêu nhiên lẩn nấp, khuất dạng phía sau những giấc mơ đã bị ảo hóa bởi rất nhiều hình khối, thanh âm giả trá. 

Tôi cần nó xuất hiện đều đặn trong giấc ngủ của mình. Dù rằng, chỉ là một góc tối vụn vặt. Ai đó thường tìm cách thì thào những lời khó hiểu vào tai tôi, trước khi tôi chợp mắt: “mày cần một góc tối. mày cần phải chui ngay vào cái góc đó và ẩn nấp”. Khả dĩ, tôi chiều lòng và quyết định lắng nghe những lời ám thị đó bên tai mỗi đêm, cũng bởi tôi cần, rất cần đến cái góc tối ấy. Tôi phải tìm ra nó, để hỏi một vài câu ngớ ngẩn: “Vì sao, nó có mặt trên thế gian này?”

Một địa điểm không thể tối hơn được nữa so với bầu trời đêm nay. Tôi cần nó xuất hiện và nhốt tôi vào đó. Tôi muốn chạy trốn những mắt lưới. Chúng có màu đỏ, chúng thường xuyên chơi trò vờn đuổi, rồi sau, chụp xuống đầu tôi một cách bất ngờ. Chiếc lưới khổng lồ. Tôi nhớ, mình luôn phải tìm cách chạy trốn chúng, cái mắt lưới biết cười, biết nhễu nhại nhếch mép hoặc thè lưỡi dài ngoẵng đỏ lòm huênh hoang. Thi thoảng, tôi tự trấn an rằng, sẽ chẳng bao giờ sợ chúng. Ấy thế, tôi vẫn cảm thấy thật khó lòng rời bỏ nỗi sợ hãi này, bởi những mắt lưới quỷ ám, chúng, hình như vẫn đang bị cầm nắm, điều khiển bởi một vài bàn tay lấp lửng, vô hình. Tôi thử nghĩ, hẳn là “những kẻ bí ẩn giấu mặt, vẫn thường xuyên tìm cách kết nối với tôi, bằng cách chơi trò đan bện những sợi tơ nhền nhện hòng thít chặt và ràng buộc không – thời gian của riêng tôi lại với nhau, khiến tôi nghẹn thở”. 

Tôi vẫn đang tìm kiếm những nơi có thể cho tôi được quyền trốn nấp. Vì, ít ra, vào lúc này tôi sẽ bớt được những cơn hãi hùng sợ sệt mơ hồ vô lí, khiến đôi chân tôi thi thoảng run lên bần bật. Thế giới bỗng trở nên khó hiểu và bất an hơn những gì tôi biết từ khi mới mở mắt chào đời. Thế giới như những mắt lưới chằng chịt. Xung quanh tôi, sự ích kỉ ngập tràn trong từng con mắt liếc dọc liếc ngang. Họ ngấm nguýt nhau. Họ nheo mắt nhìn nhau một cách cà khịa, ghét bỏ. Họ gầm gừ, đe dọa lẫn nhau mỗi ngày trôi qua đến phát chán trước mặt tôi. Những lần tôi hờ hững lạnh lùng, với nỗi buồn ngập sâu và dậy sóng một cách hồn nhiên trong lòng mình là khi mọi cảm giác đều lặng lẽ chuồi khỏi tâm hồn tôi và lần lượt tắt ngóm, chết dần chết mòn đến thê thảm. 

Chiều nay, tôi không cần cái không gian sang trọng đủ đầy trong căn phòng quét vôi trắng, và phản chiếu bởi ánh đèn màu mờ ảo mà tôi yêu thích nữa. Tôi quyết định hướng ánh mắt mình về phía sân phơi, nơi có chiếc bếp lửa đun củi từ thời tối tăm mù mịt khói. (đến bây giờ vẫn tối tăm mù mịt khói). Tôi nghĩ về góc phòng mẹ dùng làm kho bé nhỏ chỉ để vừa vài chiếc thùng carton ở cuối dãy nhà này. Hóa ra, trong những thứ lớn lao, bấy lâu nay tôi vẫn thường ngẫm ngợi, lại có sự tồn tại của những điều nhỏ bé rất cần thiết. Chúng an toàn hơn nhiều so với cái mắt lưới sắc nhọn đang cố tình vây bủa xung quanh tôi và thế giới này.

Nhưng, chính vì vậy, lại khiến tôi không thể nào thoát khỏi cái mắt lưới ấy. 

Phía sau ngọn núi. Đứng từ lan can này, tôi có thể nhìn thấy hết thành phố. Chiều xuống tự lâu lắm rồi, và đêm đã bắt đầu làm cái công việc thay thế. Nhưng, đêm nay, tất thảy đều ảo mờ trong đáy mắt tôi. Những âm u lên ngôi. Chúng xoạc cẳng, vung tất thảy các mắt lưới khổng lồ ra thâu tóm toàn bộ thung lũng, và thân phận của rất nhiều kẻ mù lòa hoặc cố tình mù lòa. Những mái nhà chỉ là nơi neo buộc tạm thời cho sự sống và cái chết. Có gì để người ta hào hứng khoa trương khoe khoang sự ốm yếu, nhợt nhạt hiển hiện trên khuôn mặt xám ngoét kia. Ngay lúc này, giữa hàng đống thanh âm bộn bề, hỗn tạp, tiếng kèn đám ma bên hông nhà tôi, sát sườn núi càng rõ rệt, thê lương. 

Thời gian trôi đi khá nhiều năm lắm rồi, vậy mà cái mắt lưới ấy vẫn bám riết, ám ảnh và trói buộc tôi không chịu buông rời. Thỉnh thoảng chúng chơi trò xoay chuyển không gian. Nhưng, thật ra cũng chỉ là những bức tường vôi áp vào nhau hòng lừa đảo mỗi người trong căn nhà này từng khoảnh khắc. Chúng len lỏi vào mắt tôi, vào tim tôi, trườn bò lên môi tôi như những giọt mặn từ biển khơi bắn tung tóe không ngơi nghỉ mỗi đêm khuya về khi lên cơn nghẹn sóng. Sóng cũng mắc nghẹn như nỗi đau mắc vào vai áo, dính nhèm nhẹp lên từng sợi vải chẳng thể nào tẩy xóa đi được. Kí ức của tôi, có khi chúng như những giấc mơ tôi đã từng thấy người ta thay nhau leo lên các nhành cây yếu ớt ngoài cơn bão chỉ để buộc chùm khăn tang trong đêm sâu thăm thẳm. 

Ai đó vừa nhắc tôi đi ngủ. 

Tôi cúi đầu. Im lặng. Hẳn là người nhắc tôi đi ngủ sẽ chán ngay thôi. 

Tôi chẳng thể chợp mắt nếu như, chúng: cái đêm sâu thăm thẳm này không chịu chết phứt đi, cái đám hình nhân ảo ảnh này không chịu biến mất đi, hoặc là giả vờ nấp lén đâu đó trong chốc lát thôi cũng được. Tôi sẽ không ngủ, nếu ngoài kia trời vẫn tối, mưa vẫn à ơi ru hời các linh hồn nằm dưới mộ cỏ. Tôi sẽ không ngủ, nếu sau thung lũng này vẫn nhập nhoạng tiếng bọn mèo hoang khóc la thảm thiết. 

Tiếng kèn đám ma bên hông nhà tôi vẫn khò khè kéo rê theo tiếng mưa rơi rả rích trên mái tôn, rớt xuống hiên. Tôi khoanh chân ngồi nghe, như nghe tiếng kinh cầu của núi rừng và của từng nóc nhà u ám dưới những bóng đèn đủ màu nhấp nháy phía thành phố. 

Ai đó lại tiếp tục nhắc tôi đi ngủ. 

Họ thì biết làm sao được về những cái mắt lưới này. Họ luôn luôn tìm cách bắc loa ở các cột điện và nhắc nhở mọi người đi ngủ. Tôi quyết định thức trắng đêm, để xem, những cái mắt lưới bướng bỉnh kia còn định giở trò gì hòng quấy nhiễu giễu cợt tôi như ý muốn của chúng. Người đàn ông ấy lại vừa nhắc tôi đi ngủ. Rõ ràng, người đã nhắc tôi đi ngủ luôn luôn là ông ấy, chẳng phải ai khác. Vậy mà, tôi lại nhìn thấy những cái bóng lúc ẩn lúc hiển hét toáng vào tai tôi át hẳn giọng trầm của người đàn ông quen thuộc. Chẳng có cái mắt lưới nào biết nói. Tiếng kèn đưa đám tiếp tục kéo rê lê thê giai điệu não nề. Tôi không thể nhắm mắt. Người chết thì phải nhắm mắt. Chết mà không nhắm mắt, hẳn đáng sợ lắm. 

Lại tiếng ba tôi lẩm bẩm một mình ngay lan can cầu thang tối: “bầu trời ban đêm như tấm lưới bủa vây”. Tôi giật mình, bên tai tôi lại vang vọng tiếng ai đó nhắc nhở tôi đi ngủ. Lúc này, tôi không thể nào chịu đựng được sự rền rỉ bám riết dai dẳng của cái thứ vô hình đằng sau bóng đêm ấy nữa. Tôi mong trời sáng. Có lẽ khi trời sáng, sẽ mang lại một chút ít cảm giác vượt thoát khỏi những bức bối lặng lẽ của đêm. 

Bốn ngày, năm ngày, sáu ngày, bảy ngày, tiếng kèn đám ma vẫn thổi ò í e dưới chân núi, ngay bên hông nhà tôi. Có thể, kẻ sống quá tiếc thương mà không chịu di dời kẻ chết rời khỏi thế giới này. Hoặc giả, kẻ sống muốn hoài niệm mãi mãi với những xác thịt đang dần dần thối rữa trong chiếc quan tài? Có lẽ, họ sẽ chẳng bao giờ chịu chôn cất cái chết. 

Thung lũng chìm sâu hơn khi những vì sao bắt đầu nhấp nháy như những mắt lưới khổng lồ. Tôi vẫn không thể nào chợp nổi mắt vào ban đêm. Vì vậy, tôi luôn mong mỏi bình minh lên. Căn nhà của tôi lọt thỏm chính giữa thung lũng, như một con mồi vừa lọt vào những mắt lưới của bầu trời ảo diệu. Khe sắt từ các khung cửa sổ len lỏi vài ngọn gió. Có khi, nó chính là dấu hiệu của một sự đổi thay. Tôi so vai lại, đầu nặng trĩu, máu chạy hai bên thái dương tưởng chừng ai đó cầm búa gõ từng nhịp. Buốt như một tiếng chuông. Bên ngoài cánh cổng sơn màu sẫm tối của buổi chiều mưa, tôi nhìn thấy những tia sét. Có thể, chúng sẽ xé toạc cái mắt lưới ấy, kể cả chân mây phía cuối con đường rẽ lối đến mái vòm của chiếc cổng ánh sáng. 

Tôi mơ màng nghe tiếng người đàn ông quen thuộc đang gọi từ phía cửa nhà bếp. Hóa ra, đêm qua, tôi đã lẻn vào góc phòng tối của mẹ và đánh một giấc dài chập chờn đầy mộng mị như kẻ mê hoang bị lạc trong mắt lưới của chính mình. Những chiếc loa phường chễm chệ ngay đầu phố nhà tôi, đến hẹn lại lên. Chúng thường xuyên chăm chỉ phát một bản thông báo ngắn mỗi sáng sớm, chỉ để nhắc nhở mọi người về việc đi ngủ. 

Trần Băng Khuê

Trần Băng Khuê, born in Vietnam in 1982, lived for a period in Auckland, New Zealand. A talented writer and an aspiring artist who currently lives and work in Huế, Vietnam.

Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.

There were only two people in isolation | Lê Vĩnh Tài

ma by Đinh Trường Chinh

A short thriller in Vietnamese by Lê Vĩnh Tài
Translator: Nguyễn Thị Phương Trâm
Art: Đinh Trường Chinh

“Short stories are tiny windows with vast, wonderful views. This short story offers an emotional and suspenseful view of an estate and two people in isolation. The reader is immediately drawn into the mysterious setting. Who are these two characters and what are their motives? A simple narrative with intriguing dialogue. The ending is definitely unexpected.” Terveen Gill

I was at her doorstep on a Sunday morning, an estate at the end of a fading colourless dirt road leading into town. Completely dissipated was the mist, leaving the enormous courtyard frozen in an eerie icy chill.

She sat hugging her head. Lifted her head only to greet me as I entered.

“We are more than happy to have you join us in isolation,” she addressed me in her usual fractious manner.

She pulled out a piece of pork belly from the cooler. The piece she has left to rest in the cooler for the last ten hours as instructed. She can no longer recall the owner of the recipe for the marinade. It was written on a scrap piece of paper, the words now smudged and illegible.

“What do you think?” she asked.

“Looks good,” I replied, even though the piece of meat looked like human flesh, all wrinkly.

“It doesn’t smell great, right?”

“It looks fine,” I reassured her.

She grabbed a kitchen knife, and began to slice the meat.

The knife was so blunt it was impossible to make the smallest cut, “shit”, she snapped, “I can’t cut anything with this.”

I  rarely hear her swear. I can but recall her mainly singing từ công phụng, with a smile on her face as she tidied up around the house.

I asked her since I had wondered myself, how many Sundays has it been since the day she had started this meat cutting ritual? How long will she keep this up? How many Sundays have gone by, how many pieces of pork belly? Her children are now all grown up, and her husband’s ashes have been scattered on the estate around the lake.

She said: “Look, I can cut into it now, except the slices are not as fine as I’d normally like them.”

Since her husband’s death, she would regularly make the rounds to shut down the estate herself, collecting the donated cans of cold meats and vegetables by the gate. She said: “This is how I survive.”

She continued with another question: “We didn’t accidentally use the meat in the freezer, did we?”

“No”, knowing exactly what she was referring to as I replied, “someone is trying to harm us you think.”

She got up from her chair, retrieved a cigarette from the carton on the kitchen table, “Are you thinking of taking over the estate?” She asked.

I frowned: “What?”

“This place is like your second home,” she said. “Don’t worry, it’s just a silly thought in my head. I’ve not slept for a week.”

After she was done with the grilled meat, she also wanted a few slices of cucumber. 

“I’m craving bì today.” She is probably thinking of cơm tấm bì sườn(steamed broken rice served with shredded pork skin in roasted ground rice, grilled pork chop, and a slice of pork mince frittata).

I nodded: “I prefer chicken.”

She snapped, “You can still eat chicken if that’s what you want but all I can think about now is the pork mince frittata.”

That was when she sliced her wrist, the knife slipped off the pork belly cutting into her soft wrist as smoothly as it would her pork mince frittata.

The knife ended up on the kitchen tile.

“What happened?” I asked.

The blood spurted from her wrist as though it was coming out of a hose. She looked down, and stared at her numb wrist.

“I think I’ve cut my wrist,” she said quietly.

“It’s okay”, I reassured her, “Let me help you.”

She shook her head. “You just need to find me a bandage.”

Quickly, I left the kitchen to look for a bandage. Her house was scattered with carton boxes full of what only heaven knows. But in her bedroom was an object that really caught my eye. It lay across her bed. A rifle nearly as long as the mattress.

Perhaps it’s her husband. It was well known that he was a hunter. There was a single flashing of a bullet shell in the room. Why did she take the gun out of its box and leave it on her bed? By the time I returned to the kitchen, her wrist had stopped bleeding, no longer needing bandaging. I watched her as she continued to slice the pork belly. Not knowing how much pain she had endured. All these years by her side, I have never truly got to a point where I could fully grasp the extent of her pain. She dropped to the ground onto her knees, still holding onto the knife.

“Come”, she beckoned.

She hugged me as tightly as she thought it was possible.

Within the estate in isolation, there were only two people, but there were three urns of ashes, because after some time, they found the third urn that used to contain her husband’s ashes…

[August 2021]

KHU CÁCH LY CHỈ CÓ HAI NGƯỜI

Vào sáng Chủ nhật, tôi đến chỗ của nàng trong một trang trại đất bạc màu ở cuối con đường đi vào phố huyện. Sương đã tan hết, cả một khoảng sân lớn đang rùng mình.

Nàng đang ngồi với hai tay ôm đầu. Nàng ngước lên khi tôi bước vào.

“Rất vui khi bạn đến tham gia khu cách ly cùng chúng tôi,” nàng nói với vẻ mặt cau có như thường lệ.

Nàng lấy một miếng thịt heo từ ngăn đá. Nàng đã ướp lạnh nó mười giờ theo một công thức để chế biến. Nàng không nhớ người đã nghĩ ra công thức ướp. Nó được viết tay trên mẩu giấy cũ đã bị nhòe và bây giờ khó ai có thể đọc được.

“Bạn thấy nó thế nào?” nàng hỏi.

“Tốt thôi,” tôi nói, mặc dù miếng thịt lúc này giống như một miếng da người, nhăn nheo.

“Nó không thơm, phải không?”

“Không sao đâu,” tôi nói.

Nàng lấy ra một con dao, bắt đầu cắt thịt.

Con dao cùn đến mức nàng không cắt được, “chó thật”, nàng nói, “em hết muốn cắt cái gì nữa.”

Nàng ít khi chửi rủa điều gì. Tôi vẫn nhớ những lần nàng đi quanh phòng với một động tác nào đó, hát từ công phụng và sau đó mỉm cười.

Tôi tự hỏi nàng đã thực hiện nghi lễ cắt thịt này trong bao nhiêu ngày Chủ nhật? Nó sẽ được kéo dài cho đến khi nào. Trong bao nhiêu ngày Chủ nhật đã qua, nàng đã cắt bao nhiêu miếng thịt? Cho đến tận bây giờ, khi những đứa con nàng đã lớn và chồng nàng cũng đã thành một hủ tro được rải quanh bờ hồ trang trại.

Nàng nói: “bạn xem này, bây giờ em đã cắt được, chỉ có điều không được mỏng cho lắm.”

Từ khi chồng nàng chết, nàng thường xuyên đóng cửa trang trại, chấp nhận những mẩu thịt đông và các món rau củ đóng hộp. Nàng nói: “Nó giúp cho em sống sót.”

Câu hỏi tiếp theo của nàng là: “Chúng ta không vô tình sử dụng món thịt đông lạnh, phải không?”

“Không,” tôi nói ra vẻ hiểu biết, “có ai đó ám hại chúng ta.”

Nàng đứng dậy, rút một điếu thuốc, “Bạn nghĩ rằng bạn muốn sở hữu trang trại này a?” Nàng hỏi.

Tôi nhíu mày: “Cái gì?”

“Đây là ngôi nhà thứ hai của bạn rồi,” nàng nói. “Đừng bận tâm, nó chỉ là những suy nghĩ kỳ quặc của em. Cả tuần nay em không ngủ.”

Khi làm xong món thịt nướng, nàng muốn có thêm mấy lát dưa leo.

“Em nghĩ rằng hôm nay em thèm cả bì nữa.” Chắc nàng nhớ món cơm tấm bì sườn.

Tôi gật đầu: “Tôi thích thịt gà hơn.”

Nàng càu nhàu, “Bạn cứ ăn thịt gà nếu bạn muốn nhưng em đang nghĩ đến bì chả.”

Đó là khi nàng tự cắt vào cổ tay mình, con dao trượt ra khỏi miếng thịt và lướt trên cổ tay mềm mại như bì chả của nàng.

Con dao rơi xuống sàn.

“Chuyện gì xảy ra thế?” Tôi hỏi.

Máu phun từ cổ tay nàng như vòi. Nàng cúi xuống, nhìn cánh tay mình đang tê liệt.

“Em nghĩ em đã tự cắt cổ tay mình,” nàng nói nhẹ nhàng.

“Không sao đâu,” tôi nói, “Tôi có thể giúp.”

Nàng lắc đầu. “Bạn chỉ cần lấy cho em một miếng băng keo.”

Tôi lao ra khỏi bếp, đi tìm miếng băng keo. Nhà nàng đầy những chiếc hộp giấy các-tông mà chúng chứa đựng những thứ có trời mới biết. Nhưng có một thứ đập vào mắt tôi khi tôi đi vào phòng ngủ của nàng. Nó nằm trên giường nàng.

Một khẩu súng dài gần bằng tấm nệm.

Có lẽ đó là của chồng nàng. Anh ta nổi tiếng là một thợ săn. Một vỏ đạn lấp lánh trong phòng. Không biết sao nàng lại lấy súng ra khỏi hộp và để nó trên giường.

Khi tôi quay lại bếp, tay nàng đã cầm máu nên không cần băng bó nữa. Tôi nhìn nàng đang cắt thêm thịt. Cũng không biết là nàng đau đến mức nào. Bao nhiêu năm bên cạnh nàng, tôi vẫn chưa bao giờ biết nỗi đau của nàng đến mức nào.

Nàng quỳ xuống, tay vẫn cầm con dao.

“Đến đây,” nàng nói.

“Chuyện gì vậy?” Tôi hỏi.

Nàng ôm lấy tôi, siết chặt lại hết mức có thể.

Vậy là trong khu cách ly dù chỉ có hai người nhưng có ba hủ tro, vì sau này người ta lại tính luôn cả hủ tro của chồng nàng…


Lê Vĩnh Tài, the poet and translator born in 1966 in Buon Ma Thuot, Daklak, Vietnam. The retired doctor is still a resident of the Western Highlands and a businessman in Buon Ma Thuot.

Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.

In this way, I managed to rescue the words | Nguyễn Văn Thiện

A short story in Vietnamese by Nguyễn Văn Thiện
Translator: Nguyễn Thị Phương Trâm 

Can one write with a vacant mind? I’m not the only one confronted with this atypical dilemma. A wide and varied vernacular after a time could self-destruct. They, the vowel consonants, and all the accents dots, and commas presently are threatened with destruction.

In the ghoulish colour of dusk, the letters lay scattered inanimate like bones in a tragic national exhibit of famine. 

There are fewer people at this late hour in the afternoon, all the right words without a home, like derelict tombstones in a graveyard. The blood thirsting opportunist, enslaving the vernacular with tempers of swords and daggers.. 

But they, the meaningful words in the vernacular, are equipped with weak limbs!

Hence even in their echoing formidable pleading, undecidedly they die. The letters killed in mass graves of Cholera piled on top of each other. The letter A is on L, I with a busted head, accent “?” curled up, Y legs wide open, blood oozing between the thighs.

Crazy!

I picked up each letter soaked in blood, in the middle of my palm, and the sickly sweet stench of blood hit my nostrils. How can we save them, and help them regain their lively, inspirational grace? I’m not some warlock; I’m a country boy, an outsider to the realm of literature reserved for those more proficient. I was powerless, as the words were ripped apart and molested. 

I begged: Hey, wake up, don’t die!

I cried: Hey, please stop dying!

The letters still didn’t move. They were gone.

I was paralysed like some poor child powerless watching his doll pulled apart, legs, arms, head. I thought: if I had the voodoo to raise the dead! But the Gods, Buddha, and all the saints were long gone in blessing us with their presence on this tiny rude planet. My dreams never eventuate. The shadow of dusk fell silently on each grain of sand wrapped in death. Arduously I picked up each limb, piecing one at a time together. The moon rose without warning, its light exposing the extensive decay, like the flame from a lighthouse. I thought: Maybe wait till the moon is a bit higher, to light the land adequately, I will again try to revive them quietly.

Have you noticed the way TV presenters express themselves? Each word is pronounced with a subtle emphasis on surprise and excitement. Each sound curls up smoothly like rolls of exhaling cigarette smoke. The vernacular is like a dancer, swaying, strutting. They’re exploited by the ambitious and corrupt. The whole community swaying, along with those paid lips, made slavery of the words. Not only does society suffer, but the vernacular itself must endure!

In the meantime, new sufferance has brought down upon bullhead youths (trẻ trâu*), their nature from the get-go chewed up, gnawed, twisted out of shape to an unrecognisable state. Their free-form sentences, backward, without accents, mixed icons, tricks, and maiming literature, assaults the mind, and causes the death of many letters in every message, in each comment online, in every spelling exercise, and composition. My mother’s tongue is my first language, yet, reading their text over and over again, what they wanted to say was impossible to understand.

For example, “I’d like to pepper in the fact that *I* make myself uwu 🙂 i-i know face, but u no i don’t no name 🤧🤧🤧 U ejelous kk bye.”

Now, they lay like a mountain of skulls left behind after a genocide. The moonlight illuminate my forehead. I held each frozen body, lending my lips to pass warm air into them. Their chest began to rise and fall again. They’re still alive.

Sunlight dissipating the mask of the night gave back to the planet its lush shades of green. A bear glanced at us in passing, its eyes filled with love, and left a little sweet milk. A colony of bees stopped by to check on us and left an ounce of honey. An army of ants building their nest stopped running around, to make sure we could enjoy the creamy golden eggs they’ve left for us. The vernacular slowly woke up as I fed each word with the bear’s milk, honey, and eggs. They opened their mouths, swallowed, and tried all they could to pull themselves up. Just like that, one day after the other, then the day after that..

Now the words are doing better, healthier.  Y leading A, L is leaning on H, K with a cane, accents “?” learning to meditate, learning to walk, talk and laugh. Their echoing laughter bounced off, resounding in far-off horizons.

[Edited July 2022]

*Modern colloquial: young, stubborn/bullhead

[July 2018]

Bằng cách đó, tôi đã cứu được các con chữ

Làm sao viết được bằng một cái đầu trống rỗng? Câu hỏi kỳ quái này chắc chắn không chỉ mình tôi gặp phải lúc này, mà rất nhiều người khác nữa. Ngôn ngữ, sau một chặng đường dài phát triển, đã đến lúc suy tàn. Chúng, những nguyên âm phụ âm và các thanh các dấu có dấu hiệu cận kề cái chết.

Trong bóng chiều nhập nhoạng sắc màu ma mị chúng ngồi vạ vật như những bộ xương trưng bày trong bảo tàng về một nạn đói khủng khiếp nào đó của dân tộc…

Những người tử tế đã ít dần đi trong buổi xế chiều này, những con chữ tử tế cũng không còn chỗ trú ngụ, như những pho tượng nhà mồ chơ vơ trong nghĩa địa hoang vu. Những kẻ cơ hội và say máu khoác lên mình các ký tự một mớ trang sức gươm dao và bắt chúng khom lưng oằn mình chịu đựng. Mà chúng, bọn chữ nghĩa ấy thì chân yếu tay mềm!

Rồi chúng, những nỉ non, vang rền, hùng hồn, nhấm nhẳng…chết. Chúng chết hàng loạt như mắc phải vi rút dịch tả, và nằm đè lên nhau. Chữ A đè lên chữ L, chữ I bị sứt đầu, dấu ? nằm co quắp, chữ Y dạng chân ra, máu chảy giữa hai đùi…

Khủng khiếp!

Tôi nhặt những thi thể chữ đẫm máu, đặt lên giữa bàn tay, nghe mùi cái chết tanh xông lên mũi. Làm sao để chúng sống lại, vui đùa, hoan hỉ, dịu dàng như cũ? Không phải là một phù thủy tài ba, tôi chẳng qua là một gã nhà quê đứng bên ngoài cánh đồng văn chương vốn chỉ dành cho những tay chơi cự phách. Tôi ngậm ngùi bất lực khi chữ nghĩa bị phanh thây và cưỡng hiếp mà bất lực.

Tôi lay gọi: Này, dậy đi thôi, đừng chết!

Tôi khóc to: Này, thôi đừng chết nữa!

Lũ chữ vẫn không nhúc nhích. Chúng chết thật rồi…

Như cậu bé nhà nghèo ngồi nhìn những chú búp bê thân thương bị vặt tay bẻ cổ và giẫm bẹp dí, không biết làm sao. Tôi nghĩ: Ước gì mình có phép màu khiến cho người chết có thể sống lại! Nhưng Bụt, Phật và các thánh thần đã từ lâu không còn vãng lai cõi trần chật hẹp và hỗn láo. Điều ước mãi mãi không thành hiện thực. Chiều đổ bóng âm thầm trên nền đất cát còn vương vãi thịt da và hình bóng của cái chết. Tôi tẩn mẩn nhặt từng mẩu tay chân thịt da các ký tự ghép vào nhau. Trăng đột ngột hiện ra chiếu ánh hào quang xuống mặt đất hoang tàn, như một ngọn hải đăng rạng ngời trong mắt người đi biển. Tôi nghĩ: Hay chờ trăng lên cao chút nữa, soi thật sáng chỗ này, tôi sẽ âm thầm làm một cuộc cải tử hoàn sinh…

Bạn có khi nào để ý đến cách diễn đạt của những nhân vật mặt mày sáng láng trên các kênh truyền hình không? Những con chữ được nhả ra từ tốn, nhẹ nhàng, khi phấn khởi, lúc băn khoăn trăn trở, khi nhấn mạnh, khi kéo dài ra… Những âm vực uốn lượn lên bổng xuống trầm như khói thuốc. Lúc ấy, ngôn ngữ đang đóng vai những diễn viên múa, uốn éo, làm dáng. Chúng bị làm tình làm tội bởi con người, những con người đầy tham vọng bá quyền vào tráo trở. Cả cộng đồng uốn éo theo những bờ môi đĩ thõa khiến ngôn ngữ cũng bị đọa đày. Không chỉ có con người khổ, chữ nghĩa cũng khổ lây, thật đấy!

Trong khi đó, ở vào một hoàn cảnh khổ đau không kém, những ký tự thoát khỏi rào chắn răng lưỡi của lũ trẻ trâu, các ký tự lại bị nhai, bị cắn, bị vặn cho méo mó không còn ra hình dáng ban đầu. Chúng tha hồ hành hình chữ nghĩa, chúng viết lộn ngược, viết không dấu, viết tắt có chèn hình, làm đủ trò nhào lộn khiến cho chữ nghĩa bị què cụt, thậm chí là chấn thương sọ não, chết hàng đống trong các tin nhắn, các phản hồi trao đổi trên mạng, thậm chí trong các bài tập chính tả, làm văn ở trong lớp học. Đến nỗi, cùng sống chung một thời đại, cũng sử dụng tiếng mẹ đẻ làm ngôn ngữ chính, mà tôi, đọc đi đọc lại nhiều lần vẫn không tài nào hiểu được chúng muốn nói gì…

Ví dụ: cáj mắt ngu ngu hợhợ :-q smile

aj tkươq iem like + tkả heart đê.ránk tốj wua ckúc ngẩu nqon nèk hjhj tốj ấm nká cả nkà…

Bây giờ thì, chúng nằm đây, lăn lóc như sọ người sau nạn diệt chủng. Mà trăng thì vẫn sáng trên đầu. Tôi ôm lấy từng cơ thể lạnh ngắt, rồi ghé miệng truyền hơi ấm vào. Những vòm ngực bắt đầu phập phồng trở lại. Thì ra chúng vẫn còn thoi thóp, chưa chết hẳn.

Ánh mặt trời lột hết những mặt nạ đóng thế đêm qua, trả lại nguyên vẹn tươi xanh trên trái đất. Một chú gấu đi qua dừng lại nhìn chúng tôi, ánh mắt trìu mến chứa chan rồi bước đi, để lại một ít sữa ngọt ngào. Bầy ong mật bay qua, dừng lại hỏi han, trước khi bay tiếp đã để lại một ít mật ngọt lành. Bầy kiến đang xây tổ, dừng lại nhìn chúng tôi, và sau đó để lại những trứng kiến vàng ươm béo ngậy. Tôi lấy sữa gấu mật ong và trứng kiến bón cho lũ chữ vừa tỉnh lại. Chúng há miệng ra nuốt lấy và gắng gượng ngồi dậy. Cứ thế, ngày này, qua ngày khác, những tháng ngày bất tận.

Giờ thì lũ chữ đã khỏe hơn, chúng đang hồi phục từng ngày. Chữ Y dắt chữ A, chữ L tựa vào vai chữ H, chữ K chống gậy, dấu ? tập ngồi thiền… chúng đang tập đi, tập nói tập cười. Tiếng cười nói xôn xao cả một khoảng trời mênh mông…

Nguyễn Văn Thiện
Born: 1975
Home town: Anh Sơn – Nghệ An
Master in Comparative Literature and Critical Theories
Currently a high school teacher, and a prolific writer.
Editor of Chư Yang Sin (Đắk Lắk) Art and Literary Journal.

Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.

the scent of old books | Lê Vĩnh Tài

the Strand NYC. Photography: Nguyễn Thị Phương Trâm

A poem in Vietnamese by Lê Vĩnh Tài
Translator: Nguyễn Thị Phương Trâm

you
squeezed the poetry out of me
crushed
my poor soul…

the scent of old books
liberated
the scent of dry grass
succeeded were the misty rain
and all the idols
steeped in memories
like opening a dusty old book

in a house that welcomes the waves
and eyes closing
absence of conflict
that even the spirits were burned
flew away
as an arid scent

a journey
towards nothingness
where there were no beds
where the dog and humanity
settled silently on the ground

where it’s adrift
in eternal life and death

where the scent now
turned into smoke
from a pile of burning hay
watchful of a departing
childhood…

(November 2021)

bạn
ép những bài thơ tràn ra khỏi tôi
đè bẹp linh hồn tội nghiệp
của tôi…

mùi thơm giấy cũ
một mùi thơm tự
do từ đám cỏ khô
sau khi mưa phùn
và các thần tượng
ngấm vào trong ký ức
như mở lại cuốn sách đầy bụi

trong ngôi nhà chào đón những con sóng
và đôi mắt khép lại
với sự vắng mặt của bất hòa
ngay cả những linh hồn cũng bị đốt
và bay đi như một
hương thơm khô

trên hành trình
đi đến hư không
không có cái giường nào
nơi con chó và con người
vẫn đang ngủ trên mặt đất

nơi mà nó bồng bềnh
trong cuộc sống và cái chết vĩnh cửu

nơi mùi thơm bây giờ đã
trở thành mùi khói
trong ngọn lửa rơm
ngồi nhìn
thơ ấu ra đi…

Lê Vĩnh Tài, the poet and translator born in 1966 in Buon Ma Thuot, Daklak, Vietnam. The retired doctor is still a resident of the Western Highlands and a businessman in Buon Ma Thuot.

Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.