A poem in Vietnamese by Lê Vĩnh Tài
Translator: Nguyễn Thị Phương Trâm
Photography: Nguyễn Thị Phương Trâm

When she asks you: what do you want from poetry? Perhaps it is her way of warning you about what you can / cannot get from poetry.
And you believe she’s wrong.
We have lied to ourselves when we believe we’ve found the right way to read a poem. Critics spend their whole lives reading, explaining, and writing (try to write) does not mean they will find a poem ultimately pleasurable. You thought: they “chewed and swallowed” the poem? And they were satisfied. They “sipped and swallowed” the poem? And they were satiated.
Facing a blank page, you find yourself needing a kind of “literature” that is yours. But all it brings you is suspicion. Trying to find what is “new” is also just as important as trying to find a way to refresh what is “old”. But when the poem is “different”, it brings with it complications. Who will be at your side to shoulder such complications?
We find a way to portray what is “new”, we have to return to “structure”, and “structure” since it’s the reason that it’s “old”. If we were to ponder the manifestation of “nihilism” then “the material” is what will give us something concrete enough for us to “understand”. When we continue to write poetry, we continue to live and believe that life is a creation of literature. We are content because we believe poetry isn’t something out of reach, it’s hidden in each and every corner across the city, and it may unexpectedly show up at any given time and place.
When we hear about an immortal poet, it just means we’re being locked in a library, to finish an essay for our masters for instance. The library, the silence reminds you of a cemetery? And you believe the dead will rise again when you knock and open the door to their poem? Since a poem (is their consciousness) when it’s printed on paper, it becomes tangible, and the reader (you) appears, and the words once more have a new life? (while the words are mere symbols, they will never die?)
You do believe in a second life for the vernacular? You remember a poem, and you are appreciative of his pain. Anxiously hope that he will gain the best of accolades you could ever imagine? But in reality, there’s no such accolade, since the rhymes you remember your middle-aged teacher recited, were merely your flesh and blood.
A poem is only a poem. It’s real, and it has been written down usually rather roughly. We use faith as a ruse to lie to ourselves, our memories lie to us, and the mistakes of all those accolades.
What we are passionate about is an obsession from childhood. When our childhood comes back to us in a flood, we’re obsessed with growing old, now, that is poetry.
But the poem, when we question it, the poem has no answer. When someone has no answer, you know that they’re dead. Hence in truth, the poem is dead. We’re being dramatic since our main aim in life is to live in a delusion. When you see a bunch of poetry on your bookshelves at home, you think you’ll die before you read all of it. But when someone gives you their book of poems, you’re not brave enough to refuse them: sorry, I already have a copy at home.
Since you believe that all poetry deserves to be read. We must accept that fairy tales will now have little appeal in a nuclear age. Since the vernacular is constantly evolving. A mother’s kiss is different from the kiss of a wife is it not?
The aspect of its beauty is different. “She is like the dark” differs how much from “She’s like dark wine.”
Plenty of poets have lived with fear and used fear as a “mode” for their creation. As the fear in them rises, the poet is moved by the fleeting moment, drifting like a river. Perhaps the poet is afraid of being forgotten. Since running around in a poet’s head: a poem is (is not) written by a great poet or not, in actuality depends on the hard work of critics. Hence his (the poet) job is to simply know when to form the next line.
For example:
a poem is/is not
written by a great poet
or not,
in actuality depends on the critic.
And then suddenly there’s a poem.
And “reform” is when he explains why he didn’t start a new line because he wanted to elevate not dampen the merit of the poem. If you were to step on stage in your childhood, he would “define the poetry” for you, so that after listening to it, you won’t be able to work out what poetry is all about.
We can define the scent of wine and coffee, define the red and yellow colours, define anger and resentment, define dusk and dawn, and define love and national pride. Then why would need him to define poetry?
Since we all know where to find poetry. When it turns up, people feel that they are touched by poetry, the tingling beneath the layers of their skin.
khi nàng hỏi: anh mong đợi gì ở thơ? có lẽ nàng muốn cảnh báo cho bạn những gì có thể mong đợi / không mong đợi – từ thơ.
và bạn nghĩ nàng đã sai.
chúng ta đã tự lừa dối bản thân, khi tin mình sẽ khám phá ra cách đọc thực sự một bài thơ. ngay những nhà phê bình dành cả đời để đọc, phân tích, viết (hay thử viết) cũng chưa chắc là mình đã tận hưởng một bài thơ. bạn nghĩ: họ có từng “ăn” một bài thơ? và no bụng. họ có từng “uống” một bài thơ? và hết khát.
mỗi khi đối mặt với một trang trắng, bạn lại cảm thấy mình phải tìm lại “văn chương” cho chính mình. nhưng rồi nó chỉ mang lại cho bạn sự nghi ngờ. việc khám phá ra một cái “mới” cũng quan trọng như việc tìm ra cách thể hiện khác cho một cái “cũ”. nhưng khi bài thơ “khác”, nó chỉ mang lại cho bạn những rắc rối. ai sẽ chia sẻ những rắc rối đó cùng với bạn?
nếu chúng ta nghĩ cách diễn đạt “mới” một điều gì đó, chúng ta sẽ quay lại vấn đề “hình thức”, và “hình thức”, tự nó là một vấn đề đã “cũ”. nếu chúng ta nghĩ về sự biểu hiện của “hư vô” thì “cụ thể” mới mang lại cho chúng ta một điều gì đó, để còn “hiểu”. khi chúng ta tiếp tục làm thơ, chúng ta tiếp tục sống, và cứ nghĩ rằng cuộc sống được tạo nên từ thơ ca. chúng ta yên tâm khi nghĩ rằng thơ không xa lạ, nó ẩn nấp quanh góc phố, nó có thể ập đến với chúng ta bất cứ lúc nào.
khi chúng ta nghe về một nhà thơ bất tử, thì hóa ra chúng ta đang bị nhốt vào một thư viện, để làm một luận văn, như thạc sĩ chẳng hạn. thư viện, sự im lặng của nó có làm bạn nghĩ đến một nghĩa trang? và bạn tin những người đã chết có thể tái sinh, có thể sống lại khi bạn mở bài thơ của họ ra? vì một bài thơ (là ý thức) khi in lên giấy đã thành một loại vật chất, và rồi người đọc (là bạn) xuất hiện, và các từ ngữ được bạn cho sống lại? (trong khi các từ ngữ vốn chỉ là các ký hiệu, bản thân nó không bao giờ chết?)
bạn tin vào sự phục sinh của ngôn ngữ? bạn nhớ đến một bài thơ, bạn cảm ơn vì nỗi đau của ông ta. bạn hồi hộp, bạn hy vọng ông ta sẽ giành được giải thưởng mà bạn nghĩ là xứng đang và cao quý? nhưng thực sự không có giải thưởng nào, vì những vần thơ ngày còn đi học bạn nghe ông thầy giáo già đọc, chúng chỉ là thịt và máu, của bạn.
một bài thơ chỉ là một bài thơ. nó có thật, và đã được viết ra nhiều khi rất cẩu thả. và sau đó chúng ta tự lừa dối mình bằng niềm tin, bằng sự đánh lừa của ký ức, bằng sự nhầm lẫn của các giải thưởng.
giữa những đam mê của chúng ta, có một mê muội của tuổi thơ. khi tuổi thơ quay lại, mê muội của tuổi già bất chợt xảy ra, đó là thơ.
nhưng một bài thơ, khi chúng ta hỏi, nó không biết trả lời. khi ai đó không còn biết trả lời, bạn biết người đó đã chết. nên thật ra, bài thơ đã chết. chúng ta đang kịch tính hoá, vì mục đích chính của chúng ta là ảo tưởng. khi bạn nhìn một đống thơ trên giá sách ở nhà mình, bạn nghĩ là mình sẽ chết nếu phải đọc hết mớ sách đó. nhưng khi một ai đó tặng thơ cho bạn, bạn vẫn không dám dũng cảm nói rằng: xin lỗi, tôi đã có một cuốn như vậy ở nhà rồi.
vì bạn biết mọi bài thơ đều đáng đọc. chúng ta phải chấp nhận những câu chuyện thần thoại sẽ không còn lung linh trong thời đại bom nguyên tử. vì ngôn ngữ, nó luôn thay đổi. nụ hôn của mẹ khi hôn con trai khác như thế nào với nụ hôn mà mẹ và cha hôn nhau?
vẻ đẹp đã khác. “nàng như đêm tối” khác như thế nào với “nàng như ly rượu tối.”
nhiều nhà thơ đã sợ hãi, và lấy sợ hãi làm “mốt” cho sáng tác của mình. khi cảm giác sợ hãi trỗi dậy, nhà thơ thấy mình đang xê dịch và phù du, trôi như dòng sông. có lẽ nhà thơ í sợ mình bị lãng quên. vì nhà thơ í cứ nghĩ rằng: một bài thơ có phải (không phải) do một nhà thơ vĩ đại viết ra hay không, chính là nhờ phần lớn vào công lao của các nhà phê bình. nên việc của ông í (nhà thơ) chỉ là lo xuống dòng.
ví dụ:
bài thơ có phải / không phải
do một nhà thơ vĩ đại
viết ra hay không,
chính là do các nhà phê bình.
vậy là đã xong một bài thơ.
và “cách tân” là khi ông í giải thích việc không xuống dòng chỉ làm phong phú thêm chứ không làm giảm giá trị của một bài thơ. nếu được lên sân khấu trong ngày thơ, ông í sẽ “định nghĩa thơ” cho bạn, để sau khi nghe xong, chúng ta cũng không biết thơ là gì.
chúng ta có thể định nghĩa được mùi của cà phê và rượu, định nghĩa được màu đỏ và màu vàng, định nghĩa được sự tức giận và hận thù, định nghĩa được bình minh và hoàng hôn, định nghĩa được tình yêu và cả tình yêu nước. vậy tại sao chúng ta lại cần ông í định nghĩa thơ?
vì ai cũng biết tìm thơ ở đâu. khi nó đến, người ta cảm nhận được sự chạm vào của thơ, cảm giác râm ran của thơ trên thịt da mình.

Lê Vĩnh Tài, the poet and translator born in 1966 in Buon Ma Thuot, Daklak, Vietnam. The retired doctor is still a resident of the Western Highlands and a businessman in Buon Ma Thuot.
Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.




