Thơ Con Cóc và NHỮNG VẤN ĐỀ KHÁC by NGUYỄN HƯNG QUỐC

Waiting for the train. Photography by Nguyễn Thị Phương Trâm

Tôi đồng điệu quá với khúc này trong tác phẩm Thơ Con Cóc và NHỮNG VẤN ĐỀ KHÁC của anh Nguyễn Hưng Quốc. Anh viết tiểu luận như thơ:

“The leisure aptitude of literature, like that, is not just an escape from the sadness of daily life, but like life, it is an adventure into an imaginary world where the human ego can be both themself and someone else. In this aspect, literature enhances and enrich a person’s life. And this very aspect is the proof of the unique shining allure of literature: where a person can truly be free. People can enter, leave, be a part of the journey. Here begins perhaps, is the taste of something like heroin in literature.”

Đọc đã tai. Dịch ra ngôn ngữ của tôi đã thành, đã gấp đôi. Vì vậy mà tôi như anh, mê văn chương?

Dịch thơ, tôi chỉ “thích” vào vai của ai? Sống cuộc đời của ai? Trong đó ít nhất phải có một chút đồng điệu mới ra thơ.

Tôi nhớ, trước đại dịch, tôi đã dịch một bài thơ của nhà văn Thận Nhiên, tôi có xin lưu lại, nhưng anh đã nói – không phải là thơ hay. Tôi đã tôn trọng ý của anh và không dịch nữa.

Tôi đã thích vào vai của tác giả, nhưng họ không muốn, đó là quyền lợi riêng của họ. Như ngược lại, khi tôi phải dịch thơ của ai tôi không thích?

Life imitates art, văn chương như cuộc đời. Sống không có sự tôn trọng, thật là khó sống.

Nguyễn Thị Phương Trâm

“Chức năng giải trí của văn học, như vậy, không phải chỉ có nghĩa là một sự thoát ly ra khỏi hiện thực buồn tẻ, đơn điệu của đời thường để phiêu lưu vào thế giới tưởng tượng mà còn có nghĩa là một cách nhân bản ngã để con người, trong cùng một lúc, có thể là mình, có thể là người khác. Chính ở khía cạnh này, văn học được coi là có tác dụng làm cho đời sống con người phong phú hơn, giàu có hơn. Và cũng chính ở khía cạnh này, chúng ta thấy đẹp đặc điểm nổi bật của văn học: đó là nơi cho phép con người hoàn toàn tự do. Mọi người có thể vào, ra, có thể nhập cuộc. Chất ma túy của văn chương có lẽ phần nào xuất phát từ đó.”

Nguyễn Hưng Quốc

[Chương 8: Đọc thơ và đọc cái-đọc-thơ]

Ảnh: Cuộc du hành của Bella, tôi chụp.


Là một lời nói dối với chính bản thân hay là cách tôi xem những tác giả tôi đã đọc một cách công bằng hơn, khi tôi đã nghĩ tác giả đã chết mỗi lần tôi đọc thơ của họ, vì The Death of the Author, tiểu luận của Roland Barthes?

Nhưng khi tôi đọc xong khúc ở dưới trong tác phẩm của THƠ CON CÓC và Những Vấn Đề Khác của anh Nguyễn Hưng Quốc, tôi đã có một cảm giác thật là xấu hổ, hơn một tuần, tôi thấy mình không đọc vượt nó ở chương 7, và tôi đã đọc đi đọc lại mãi với những sự bất ổn không rõ ràng:

“Coi ý định của tác giả như là một cái gì ở ngoài tác phẩm và là tiêu chuẩn để đánh giá sự diễn dịch của người khác không những là một sự phi lý mà còn là một sự phi lý dốt nát: nó phủ nhận sự tồn tại của chính tác phẩm.” 

Cuộc sống là một sự nghịch lý. Tôi xấu hổ vì một phần là sự dốt nát của mình, phần lớn hơn là sự tự cao kiêu ngạo của chính bản thân ngoài sự tự hào là mình luôn biết mình là ai. Sự tự hào cao cả nhất của tôi là cách sống thực tế. Sống thực tế thì phải luôn đối mặt với sự yếu tố và sức mạnh của bản thân, để không bị blindsided, là một sự tự lừa dối bản thân. Sống ảo không phải là một cách tôi muốn đối phó với cuộc sống. 

Anh Lê Vĩnh Tài đã có một nhận xét không sai, tôi đã là một người kiêu ngạo. Tôi đã nắp sau lưng anh Roland Barthes để xem tác giả như là một con thú trong rừng. Vì tôi luôn quý loài thú hơn con người. Vì chúng sống luôn chân thành với bản chất của mình. 

Tôi thích lang thang hơn là ngồi một chỗ hóng mây. Vì vấn đề con người là tâm đắc lớn lao nhất của cuộc đời tôi.

Tôi xem họ nhốt trong những cái lồng như chim hót cả ngày, hay đang bay từ cành này sang cành khác tương tác với bầy đàn. 

Làm thơ là đem linh hồn của mình ra rao bán, dụ người đọc. Thơ mà không có hồn, hay yếu hồn thì làm sao tác giả có thể để lại hay dành riêng sự ám ảnh đó cho người đọc? 

Sự ám ảnh sẽ thành một sự tâm đắc của người đọc. Vậy người đọc nhớ đến bài thơ hay tác giả? Vậy người đọc có cần vần để nhớ đến tác giả hay bài thơ không?


Đọc sách là một cách học ngôn ngữ hay nhất.

Những năm đầu tiên ở Úc, chị em chúng tôi xem phim John Wayne, Tom and Jerry và anh Tarzan đu cây rồi cuối cùng hiểu chị Jane. Anh Tarzan chỉ ngón tay cái vào ngực và thốt ra vài chữ:

– Me Tarzan, you.. Jane.

Chiều về sau giờ học bốn chị em chui đầu vào cái hộp có hình, canh đúng giờ trước khi ba má về rồi tắt nó đi. Đủ thời gian cho bộ máy không còn nóng nữa không thì bị ăn đòn.

Không có TV, chúng tôi chui đầu vào những cuốn sách tranh. Đói chữ chúng tôi đọc tiểu thuyết. Từ thư viện gần nhà đến thư viện ở trường. Trường nào cũng đã ghi tên của bốn chị em chúng tôi.

Quên ngôn ngữ của mẹ nhưng ít nhất hiểu ngôn ngữ của một người quốc tịch Úc.

Chị em chúng tôi nuốt chữ như hơi thở. Nuốt luôn những tác phẩm khoa học và toán học và văn học.

Sáng đọc những con chữ của anh Nguyễn Hưng Quốc , dò Gu gồ từng chữ, cuốc hay quốc, rơi như nước mắt.

Chữ đã nuôi chị em chúng tôi.


“Đọc thơ là một cách đối thoại” với tác giả, suy nghĩ này đã là kết luận của tôi khi bắt đầu dịch thơ.

Dịch nhiều tác phẩm của một tác giả đã thành một mối quan hệ bất ngờ. Nhiều mối quan hệ tôi lại rất ngại và không muốn. Nhất là những người thiếu sự trưởng thành và tính cách bao dung.

Đọc gần hết chương năm của Thơ Con Cóc và NHỮNG VẤN ĐỀ KHÁC, tôi không còn một chút hối tiếc nào về công việc đọc tác phẩm này của anh Nguyễn Hưng Quốc trong giờ hiện tại.

Thứ nhất, là vì những gì tôi đã khám phá qua hành trình học tiếng việt và dịch thơ đã là hành trình của riêng mình. Vừa ý nghĩa vừa sâu sắc hơn qua những sự cô đơn và thất bại.

Thứ hai là, bây giờ tôi mới hiểu tại sao anh Nguyễn Hưng Quốc không dịch thơ. Cảm giác cả vạn phiên bản của một bài thơ thật là phức tạp. Tôi hiểu những điều này trước thì có lẽ tôi sẽ không có đủ can đảm để dịch thơ học tiếng việt.

Thứ ba thì như tôi vẫn nghĩ xưa giờ tôi đã chưa đủ kiến thức để hiểu tác phẩm của anh.

Ngày ngày tôi càng tin thứ định mệnh mà người ta cứ hay phát ngôn bừa bãi.


Anh Nguyễn Hưng Quốc trong những cuộc đối thoại qua messenger, không nhiều, nhưng lại đủ. Vì chúng tôi chưa bao giờ hiểu lầm nhau.

Nhưng tôi là một người sinh ra với bản chất hoài nghi, không hiểu thì tôi hỏi thẳng để kiềm chế sự suy diễn, kiểu – keep it simple stupid. Ngoài thơ của anh, đối với tôi luôn luôn vẫn là sự bất ngờ khi tôi đọc các bài tiểu luận của anh là sự đồng điệu.

Tôi đọc y như tôi đang được lắng nghe.

Khi tôi đọc thơ, tôi chẳng bao giờ nghĩ đến nhà thơ, những cảm xúc đó là của riêng tôi. Ngoại lệ là thơ Lê Vĩnh Tài, có thể là vì tôi đã dịch quá nhiều tác phẩm của anh.

Tôi không tiếc, nhưng tôi phải thừa nhận rằng, nếu tôi đọc tác phẩm “Thơ Con Cóc và Những Vấn Đề Khác” sớm hơn thì hành trình học tiếng Việt của tôi sẽ dễ hơn chăng? Như từ “về” trong khúc kết của Chương 4 đã xác nhận sự nghi ngờ của mình.

Tôi sẽ dịch lại từ “về” = homecoming.

Ta về

thơ Tô Thuỳ Yên

Tiếng biển lời rừng nao nức giục
Ta về cho kịp độ xuân sang

Ta về một bóng trên đường lớn
Thơ chẳng ai đề vạt áo phai…
Sao bỗng nghe đau mềm phế phủ?
Mười năm, đá cũng ngậm ngùi thay

Vĩnh biệt ta mười năm chết dấp
Chốn rừng thiêng im tiếng nghìn thu
Mười năm, mặt xạm soi khe nước
Ta hoá thân thành vượn cổ sơ

Ta về qua những truông cùng phá
Nếp trán nhăn đùa ngọn gió may
Ta ngẩn ngơ trông trời đất cũ
Nghe tàn cát bụi tháng năm bay
.
Spring will be my homecoming
By the roaring sea
Earnest call of the trees

My homecoming will be a looming
Dark shadow across the highway
Shredding at the seams of my cloak will be
Poetry, the sudden panic and pain?
A decade where the rocks too, could feel the ache

Farewell to my dead gone ten years
Sacred trees and solitude of a thousand autumns
A trickling decade of regression
A primate dangling from the trees
On bent knees

My homecoming through the lagoons and deep troughs
Against the East wind my furrowed brow
Through the corrosion of time stunned by how
Nothing had changed, nothing did I gain


“một trong những nguyên nhân khiến ngành phê bình Việt Nam cứ ở mãi trong tình trạng ấu trĩ và què quặt là, do rất thiếu tự giác..”

Cả một cường quốc thơ thiếu tự giác chứ không chỉ riêng ngành phê bình, tôi đọc một lúc tôi thấy ngán. Khi nhà thơ tự lừa dối bản thân mình, bạn không nghĩ nó sẽ bị lộ ra trong thơ ư?

Nhưng vô vọng thì chưa hẳn, thế hệ của con tôi dần dà càng ngày càng giàu tự giác hơn.

Millennials are known for their self-love revolution.


“Nếu phê bình là sự tự vấn của sáng tác, lý luận sẽ là sự tự vấn của phê bình.”

Diễn dịch:

“If the critic responsibility is to nurture creativity, then what nurtures the critic would have to be logic.”

“If a mother responsibility is to nurture her children, then the stratagem of her skills relies on logic and reasoning.”

Life imitates art. Or is it the other way around.

Sketch & photography by Nguyễn Thị Phương Trâm

Tôi sống hình như trên một hòn đảo một mình, nếu không lo chuyện cơm áo thì tôi ngủ. Tôi đã chấp nhận từ nhỏ là sẽ không có ai có đủ khả năng để hiểu mình ngoài bản thân.

Sự cô đơn đó dạy cho tôi cách sống với nỗi buồn.

Cả khi yêu tôi cũng đã chấp nhận sự cô đơn của nó.

Từ nhỏ tôi đã hay khóc, và khi tôi khóc phản ứng của người đối diện thường chẳng liên quan gì đến tôi. Họ đã khẳng định ra lý do tại sao tôi khóc.

Tại sao họ không nghĩ như bài thơ con cóc.

– It is what it is and it’s not what you think it is.

Tôi khóc tại vì tôi buồn, nó chỉ nhiêu đó.

– C’est la vie/such is life.


Congratulations to my niece, Dr. Lam. Photography by Bác sĩ Lâm Ngọc Hoàng.

Kiến thức văn học chuyên môn của tôi quá kém, xem như là một tờ giấy trắng.

Tôi ngồi ngắm những cuốn sách của anh Nguyễn Hưng Quốc với những cảm xúc vừa kích thích vừa hồi hộp lẫn lộn với những sự đe doạ là tôi không sứng đáng.

Sự thật của một tờ giấy trắng vừa dễ thương vừa đáng tội nghiệp.

Nhưng khi bạn đã cắn vào ngôn ngữ của Nguyễn Hưng Quốc rồi thì bạn có thể bỏ nó xuống được không. Bạn nhỏ nước miếng, bạn vừa muốn để dành vừa muốn nuốt cho hết những con chữ cùng một lúc vì bạn sợ người khác sẽ dành miếng ăn của bạn. Đó là cảm xúc của tôi trong những năm dịch thơ ba dòng của anh Nguyễn Hưng Quốc.

Sau gần ba mươi năm Thơ Con Cóc và Những Vấn Đề Khác đã phát hành tôi mới có đủ kiến thức để đọc và dịch?

“Học văn dư tập, nghĩa là tác phẩm được hoàn thành trong những thì giờ thừa còn lại sau khi đã làm tròn các bổn phận đối với xã hội.” Trích từ Thơ Con Cóc và NHỮNG VẤN ĐỀ KHÁC by NGUYỄN HƯNG QUỐC.


Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.

WE ARE MORE COWARDLY THAN A LIFETIME AS SILKWORMS | Trương Đình Phượng

Wind turbines, photography by Tien Bac Dang

A poem in Vietnamese by Trương Đình Phượng
Translator: Nguyễn Thị Phương Trâm
Photography: Tien Bac Dang

WE ARE MORE COWARDLY THAN A LIFETIME AS SILKWORMS

CHÚNG TA HÈN HƠN CẢ KIẾP TẰM

But will we still have the strength
spin silk around a given fate that adores
ghouls

Ignoring our wandering souls
forever searching
for an identity like flies scrounging
for grains of dried rice from last night’s dinner

Will we have enough strength to write as writers
when coursing through our veins is water
not blood
conceivable to be human

Shut our mouths
cry quietly like sand crabs
through endless cold
lonely winters

Tired eyes searching for what
amid the blood chilling dying light
carry the lonely hearse in our heart

We live our lives more afraid than silkworms
afraid to spit silk to our last breath
silently we deteriorate
fall away from our desiccated bones
in a land with nothing
but blinding
fog

chúng ta
liệu còn đủ sức nhả tơ
trước vòng quay số phận
và bàn tay thời đại yêu ma

hãy để mặc linh hồn chúng ta
lang thang tìm kiếm chính mình
như con ruồi đói
đi tìm hạt cơm khô đánh rơi từ chiều hôm trước

liệu chúng ta còn đủ sức viết
khi cả máu chúng ta vắt ra
cũng chỉ là nước lã
trong nhận thức người đời

ngậm miệng và khóc
âm thầm như con còng gió
suốt những mùa đông
triền miên giá lạnh và vắng lặng

hỡi những ánh mắt đã quá ư mệt mỏi
chúng ta dõi nhìn về đâu
giữa hoàng hôn tràn đầy huyết lạnh
mỗi lòng người là một chuyến xe tang

chúng ta hèn hơn cả một kiếp tằm
không dám nhả tơ cho đến tàn hơi thở
lặng câm sống chờ phút giây phân rã
trên xác khô xứ sở mù lòa

2019


Trương Đình Phượng, the poet and writer born in 1984, currently lives in Nghệ An, Việt Nam.

Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.

Verses of poetry brushes her hair each night | Trương Đình Phượng

A poem in Vietnamese by Trương Đình Phượng
Translator: Nguyễn Thị Phương Trâm
Art: Đinh Trường Chinh

Verses of poetry brushes her hair each night
came evening I would try to sleep as I climb her hair
but her throbbing pulse
pulls at my heartstrings
I’m restless
in contrast to the abandoned garden
beneath the startled moon
a winter moon as dreamy as pearly watery eyes
stripped from the corneal membranes

her voice is pitiful and sad
trickles down the gutter of my soul
asleep thousand year old moss
piercing thick layers of clouds
the sudden brilliance
I could detect the smell of austerity
phosphorescent wings
escaping from unruly hands

through so many miles of sentiment
strings of tearful journeys
but failed to build a multidimensional facade
of all the hungry souls craving for their homeland

came evening
on her hair
I’m curled up like a caterpillar
gnawing, savouring the mysterious flowers full of longing
the paths through her heart
full of thorny shrubs and foliage

I bathe in her pool of blood
my tears mixing with the grim reapers’ urine
creating an eternal balm
on the sacred shrine of hatred.

I want to simply ignore
groaning and moaning
hand in hand take her for a stroll by the blue ocean
an endless walk through the oblivious shadows of palm trees
wait for the virgin moonlight
to light up our way toward a peaceful tumulus
leave behind
humanity’s obsession with the barter of blood and bone.
——
2023

Trên tóc nàng thi ca mỗi tối
buổi tối tôi leo lên tóc nàng và cố ngủ
nhưng nhịp tim thổn thức của nàng
khiến tiếng lòng tôi không thể nằm yên
trái thời gian lộp độp
trong vườn vắng
dưới vầng trăng còi cọc mùa đông
mơ hồ như những viên thủy nhãn
bị tước ra từ những màng giác mạc

tiếng ca của nàng
não nề và bi thiết
chảy tràn xuống máng xối hồn tôi
những cọng rêu ngủ quên từ vạn kỷ
xuyên qua lớp mây mù
và trở nên rực rỡ
tôi ngửi thấy mùi khổ hạnh
như chất lân tinh
bay ra từ những búp tay phiền tủi

chúng tôi đã đi qua bao nhiêu dặm đường cảm xúc
chuỗi hành trình chứa chan hồng lệ
mà chưa thể mạc nên khuôn mặt đa chiều
của những vong hồn đói khát quê hương

buổi tối
trên mái tóc nàng
tôi cuộn tròn như loài sâu
gặm nhấm mùi những đóa khao khát u huyền
những con đường chạy qua trái tim nàng
với đầy rẫy loài cây gai nhọn

tôi tắm trong bể máu của nàng
nước mắt của tôi hòa trộn nước tiểu của những tay thần chết
tạo thành thứ dầu vĩnh cửu
trên linh thờ hoang miếu hờn căm.

tôi muốn bỏ ngoài tai
những âm thanh rên xiết
cầm tay nàng dạo quanh bờ đại dương xanh
miên man những bóng dừa khờ dại
và chờ đợi ánh trăng thuần khiết
dẫn lối cho chúng tôi vào huyệt mộ bình yên
bỏ mặc phía sau lưng
loài người mải mê trò buôn xương bán máu.

2017


Trương Đình Phượng, the poet and writer born in 1984, currently lives in Nghệ An, Việt Nam.

Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.

AN EPIC REQUIEM FOR ALL THE POSSIBLE PATHS & ALLEYWAYS | Trương Đình Phượng

A poem in Vietnamese by Trương Đình Phượng
Translation by Nguyễn Thị Phương Trâm
Photography: Tien Bac Dang


AN EPIC REQUIEM FOR ALL THE POSSIBLE PATHS & ALLEYWAYS

VERSE ONE

1.

our time
struggling with the moments
our home turning into a sea of blood
suppressing the path
towards the desire for freedom

mothers using their hair to weave
a hammock of affliction
the cries
to the last teardrop
mourning the spent springtime
their children had to sacrifice
paid with deceit

fathers taking off the service uniform on their back
to cover up the fresh grave
burying the aspirations of their youth
through the tears light a stick of incense
for the lost faith
in a dungeon at the centre of a paradise
sketched out by rubber tires…

2.


shutting them down
to then opening them back up
these despicable horizons
those playing the roles of saints and angels
squeezing every drop of blood out of their fellow human being
stretching the truth
bearing the cross
bridging the program for future genocide

shutting them down
to then opening them back up
the infinite bitterness
jam packed sardine cans of injustice
executioners
behind each sanctified smile is a dagger

Phu Quoc, Vietnam by Tien Bac Dang

3.


the poems
emptied of tears
emptied of the hiccups and tantrums
the afternoon light
covering up meadows of broken spirits
hollowed eye starving displaced souls
deteriorating like mulch between our toes
beneath our feet

murders of crows
coming home to the millionth tombstone
whose mournful words are those
oh land and country…


4.


these are the days
like spinning silk threads, the bitterness
tightly binds our fate
caught between freedom and imprisonment
our enslaved soul
caught in a rapid of pointless dreams
our way home each day is lined with trees
on their knees
against a grey wind
streetlights spasmodically coming on
like bouts of wheezy coughs
the sidewalk quietly bleeding
our homes hid under the eaves
eaves faced down
staring at an endless silence
called fate…

VERSE TWO


1.


August
the street is a portrait of sadness
subterfuge with enslavement
enclaves of thirst and depravity
homeless children
grubby fingers scrounging for survival
in and out of mountains and mountains of garbage
with the stench of August
resentment displayed like barbwires in the sky
the tired eyes
through the trellis, through cracks in the door, the windows
staring blankly at the dying light
oozing an obstinate bloody hue.
preordained lectures day and night over the megaphone
the constant declarations
sleepy ukase


2.



Who are you at such a young age
to have made a name for yourself
in this world
who are we
amidst this storm
this century
a century in endless darkness
a century of undefined truths
a century of worshipping ghosts in kasaya
our gods for sale
oh those youth who had made a name for themselves
who are we
are we mere dust
mere shadows
living spectres
blood of a nation
day after day unceasing
and all we could do is laugh, we laugh brightly burying
what storm there may be brewing inside
beneath all possible mediocre dreams and aspirations
ignoring the night taking over the whiteness of our eyes?
ignoring the piling debt
overwhelmed by budding ideals of who we are supposed to be
a game of cutting our losses
what roots thereof in the hands of hypocrites
allowing our neighbours to poison our waterway
our home in the name of hospitality..

hey kid
where are you going
can you not feel the hate
right there at the pad of your feet!

the road you have decided to take
this afternoon
tomorrow
an infinite path of pain
like a dangling rope around your neck
steep still in the innocent blood of your birth…

3.



They sucked dry
the daylight
they sucked dry
the night sky
they sucked dry
the sea
they sucked dry
the trees
shaking hands
in exchange for construction
hanging the people
out to dry

each dawn
upon the sandy beaches
smooth and soft like one’s lover’s hair once upon a time
now scattered with bloated dead fish
boats flipped upside down
precarious in the embrace of tortured waves
silently weeping
silently mourning an era of peace..

the anthem of devotion to our motherland
in time
a song for a forgotten era without a voice

oh fatherland of four thousand years
oh those long nights destined upon the wings of a stork
a crane

our mother’s single flame
inside a tent for how many seasons
precarious faith and hope
turned into lonely
wings of fireflies
searching for meaning upon each and every embankment
roaming like the wind…

who shall return us to a path
pungent with the scent of warm mud
gosh the tumulus of our childhood
cold for so long is the smoke of those incense

to again cry
like a child
smile
welcoming mother’s nipple

but oh where
my beloved child
the green lawn
where we may lay down and admire
blue skies
and infinite
dying autumn light
left is an irritating sun setting
upon the citadel of our soul…

oh dear love are we nothing
but driftwood
drifting through life in a flood
homes sadly
washed away
along with the rising tides
oh the cries
sound echoes in the infinite darkness
the unjust infinite cries of the dead?

VERSE 3

1.


home
by definition
a birdcage
where the people want their say
home
by definition
a place
where we preen our feathers
smooth and shiny
ignoring the hopeless cries
all around us
tearing out the love in one’s heart
a tireless machine
stamping out the spirit in one’s soul
the roofs of our home
the precarious cover of one’s life..

2.


home are the days
blood is shed through the pores of the trees harvested
conscience dissolving into ash
the homeless birds
looking for each other in the dusty dying light
street vendors
callus worn hands
wrapping the songs of their homes in each parcel
wandering feet in the dark
without a home

3.


home
the accumulation of the days
lined with barbwires are the paths towards home
verses demanding light
crushed beneath the feet of those in power

home
the endless call for a springtime through the trees
nothing but tears
drifting along are the tired lost souls

the smell of death and destruction
blooming on their sanguine lips…

dawning
upon the homes without a pulse
should have been like ants
dead, dry, curled up in an angry corner
a childhood lost and adrift in a river of delusions

4.


home
the idea of separation
the heart and the motherland are divided into halves
the unhealable scars
silently aches
each time they commemorate
“children from the same mother
made each other bleed”

5.


home
a huge stage
the people are the cast
naked
exposed
bearing the whipping
shouting the slogan
“glory in place of hate”
home
children
hiding their hate
behind content smiles

cries oh
so sad
quietly echoes through the night
searching for cries of the same fate
finding
four walls dense with silence…

6.


home
lonely eyes
beyond a winter sea
infinite cold sand
a future
humus bones
in the wind
drifting through life
flying for how many lifetimes
to never escape
the hand of fate

Phu Quoc, Vietnam by Tien Bac Dang

VERSE 4

1.



how long is this tale
years, a lifetime, until we are dust
the world, an animal farm, faith, and hope
crimes against humanity
in a battle that is gone but still ever so present
safeguarding our motherland
until when
the women
starved of procreation
rising
through time from darkness
until when
the hollow empty heads
display of deceit
on a stage with each ticket
the price of a life?

until when
the poets
will not just reside
in light of a bloody sun of a dying day
chewing on soulless words
like children
chewing on bubble gum
in an infinite darkness
blind bats
afraid of the call of their own people!

under a starry night
in a damp cage
sheep resting their heads on piles of manure and urine
dreaming of grass meadows
and thought they are flying

on a wintry path
lined with trees stripped bare to the bone
quietly trying to shrink into oblivion
the sap of spring is throbbing with life
within a pitiful darkness
an ant patiently tends to a flame
waiting for a future
on a tumulus called life

there’s still us
us the withering flower petals
strewn across the paths
through a cemetery of the past
night after night
setting our pathetic spirit free
along with the breeze
scented with the smell of our tears
our cries
indiscriminate from the sound of crickets
holding onto their stifled breaths..

2.



Should we cry so much
motherland
our homes
shouldn’t be ripped apart
strangled by debt
the lawless law of the jungle
dished out from their calculating hands

they tax
in the name of national pride
they tax
by dividing and conquer
they tax
even our hearts
they tax
even our spirits ….

we should actually
step into the light
we should actually
lift our heads high

but instead
we shoulder
the darkness
stuff our heads
with lies and crude deception…

actually
we should as bosses
take care, nurture
bend our backs
serve the servants

we will be
infinitely the babies in cradles
waiting for them to spoon feed us
like the way we had pined for our mother’s breast
they forbid the questions
they forbid the challenge of any
future
they want us on our knees
they want us to keep our mouths shut
they want us to poke our eyes out
throw them away into the bushes

we are living
or are we already dead?
no one has the courage to look for the answer
we are like
dogs beaten and cornered
wagging our tails

we have but
one way
stay quiet and wait for our turn
to die
while those we love are served up to
the two-faced gentlemen


3.



Motherland
Thy sombre eyes
budding mist
falling across the land
taking your last breath
before the rising sun
MMotherland
Thee liken to a discarded woman
chased out of her home
distraught and pregnant
on a landing by a river of pain
Thee breathless and tired waiting for a ferry
amidst a wintry night
nothing but the echoes of numbing waves
in time with the numbing sound of Thy heart heart
Motherland
Thee
verging on tears watching
Thy body parts are torn apart
sold off
Thy arms by Thy side
defenseless
welcoming Thy death by the minute
through the ridiculous laughter of Thy children

Motherland
who will shed a tear in Thy name now
or in the coming days
when all Thy children
knows only
how to shove the remains of their Father
into the mud
feet trying to escape
the alleyways of gutlessness
darkness
and the FUTURE
like a star
burning at the foot of the horizon?

June 2023


BI CA : NHỮNG CON ĐƯỜNG



KHÚC 1



1.


thời đại chúng ta
dằng dặc tháng năm
quê hương hóa thành biển máu
nhấn chìm con đường
dẫn về miền khát vọng tự do

những bà mẹ lấy tóc mình
tết chiếc võng đau thương
chắt đến giọt nước mắt
sau cùng
than khóc những đứa con
đã hi sinh cho những mùa xuân
ngập tràn dối trá



những người cha cởi chiếc áo nhà binh
đắp lên nấm mồ
vùi chôn khát khao thời trẻ
rưng rưng thắp nén nhang
cho niềm tin lầm lạc
giữa ngục thất thiên đường
bánh vẽ…



2.


khép lại
chỉ để mở ra
những chân trời khốn khổ
những tên sắm vai thiên sứ
vắt máu đồng loại
điểm tô lời hứa
vác thánh giá
bắc cầu cho chương trình
diệt chủng tương lai

khép lại
chỉ để mở ra
vô hạn cay đắng
chi chít
bất công
những tên đao phủ
giấu dao găm dưới nụ cười thánh thiện


3.


.
những bài thơ
không còn đủ nước mắt
để nấc lên nỗi uất hờn
buổi chiều
miên man phủ lên những cánh đồng tâm hồn
lầm lũi những đôi mắt bòn mót khát khao
dưới chân rạ mùn

lũ quạ hoang về đậu trên triệu nấm mồ
thao thiết
lời ai điếu non sông…


4.



đó là những ngày
nỗi đắng cay như những vòng tơ
thít chặt số phận
giữa ranh giới tự do và tù hãm
chúng ta đày đọa tâm hồn
giữa dòng sông ngập tràn giấc mơ
phù phiếm
con đường mỗi ngày chúng ta đi
về
chỉ còn những hàng cây
cúi đầu trong gió xám
phố phường bật lên từng cơn hen suyễn
những vỉa hè âm thầm rỉ máu
những mái nhà úp mặt
vào vô biên câm nín
phận người…



KHÚC 2



1.


tháng tám
khuôn mặt phố phường
hằn thêm những nỗi buồn nô dịch
những mái đời cằn cỗi khát khao
lũ trẻ vô gia cư
mòn tay bòn mót miếng ăn
từ những bãi rác trương mùi
tháng tám
thù hận chăng đầy như gai thép
những đôi mắt bơ phờ sau cửa hẹp
ngơ ngẩn ngó trời chiều
đang chảy tràn sắc máu tai ương.
tiếng loa phóng thanh
ra rả suốt đêm ngày
những bản tin tuyên truyền, ru ngủ


2.



Ôi những người mang danh tuổi trẻ
chúng ta là ai
trong cõi đời này
chúng ta là ai
giữa cuộc gió mưa
chúng ta là ai giữa thế kỷ này
thế kỷ triền miên bóng tối
thế kỷ mù lòa chân lý
thế kỷ yêu ma đội áo cà sa
bán buôn thần Phật
hỡi những người mang danh tuổi trẻ
chúng ta là ai
hay chỉ là cát bụi
hay chỉ là những chiếc bóng
vật vờ sống tạm
máu non sông
mỗi ngày không ngừng chảy
mà chúng ta chỉ biết cười tươi
chôn hoài bão
trong ham muốn tầm thường
mặc bóng đêm đè lên muốn tròng mắt?
mặc muôn ngàn gánh nợ
đổ lên đầu những mầm non vừa nhú
chúng ta là ai
giữa trò chơi mất còn
nòi giống
trước bàn tay lòe loẹt màu thánh thiện
ngầm thả xuống dòng sông quê hương
thứ chất độc “ láng giềng”…
kìa em nhỏ
em đi về đâu đó
có nghe dưới mỗi bước chân
em qua
sôi sục căm hờn !
con đường em đi chiều nay
con đường em đi ngày mai
con đường em đi dài mãi
những nỗi đau
như chiếc dây thòng lỏng
lởn vởn trên mái đầu
còn nhuốm máu ngây thơ…


3.


chúng hút cạn
ngày xanh
chúng hút cạn
đêm vàng
chúng hút cạn
biển khơi
chúng hút cạn
rừng tươi
bắt tay nhau
xây lên những công trình
lửng lơ treo cái chết trên đầu
nhân dân
mỗi ban mai
trên bãi cát dài mượt mà như mái tóc tình nhân
ngày xưa
giờ chỉ còn những cồn xác cá
những con thuyền úp mặt
vào bàn tay những con sóng bị thương
lặng lẽ khóc
lặng lẽ đưa tang những năm tháng thanh bình…


khúc ca về tình yêu đất mẹ
mỗi ngày
càng bớt đi người hát



tổ quốc bốn ngàn năm
đêm dài vẫn cấu chặt bờ vai những đời cò
kiếp vạc
ngọn đèn mẹ thắp
trong túp lều bao nhiêu mùa
lắt lay hi vọng
đã hóa thành những cánh đóm
cô đơn
tìm mình suốt triền đê
bằn bặt gió giang hồ…
ai trả chúng ta về
con đường quê nồng nàn bùn đất
ôi nấm mộ tuổi thơ
nhang khói lạnh lâu rồi!
giá được khóc
một lần như đứa trẻ
rồi nhoẻn cười
khi thấy bầu vú mẹ
nhưng em thân yêu ơi
còn đâu
bãi cỏ xanh
nơi chúng ta nằm xuống
ngắm màu trời xứ sở
những buổi chiều mùa thu
biêng biếc
giờ chỉ còn sắc hoàng hôn nhức nhối
trên thành quách tâm hồn…
này em thân yêu
có phải chúng ta
chỉ là những cành củi mục
lênh đênh
giữa dòng sông đời giữa mùa bão lũ
ngậm ngùi nhìn những mái nhà
bị cuốn
trôi đi
và những tiếng khóc than
vang trong màn đêm vô tận
như tiếng những hồn ma
bất tử hàm oan?



KHÚC 3



1.


quê hương
theo một nghĩa nào đó
chỉ là nơi giam cầm những cánh chim
tranh đấu cho tự do
quê hương
theo một nghĩa nào đó
chỉ là nơi
chúng ta chăm chút cho bộ lông của mình
bóng mượt
mặc xung quanh đồng loại kêu gào
nỗi tuyệt vọng
xé nát những trái tim
như những chiếc máy xúc
hả hê vùi dập linh hồn
những mái nhà
che chắn những mảnh đời bé nhỏ..


2.


quê hương là những ngày
máu trào ra từ những hàng cây bị đốn
và lương tri dần hóa tàn tro
những con chim mất tổ
dáo dác tìm nhau dưới sắc chiều mù
người hát rong
gói lời bài ca xứ sở
bằng đôi tay trầy xước
những bước chân bơ vơ về qua lòng đêm
lay lắt những mảnh đời không chốn nương thân


3.



quê hương

là những ngày
hàng hàng thép gai chăng ngang con đường về nhà
những bài thơ kêu đòi ánh sáng
bị giẫm nát dưới bàn chân của bầy lũ bạo quyền
quê hương
ngày xuân gọi hoài tên loài cây hạnh phúc
chỉ thấy nước mắt
dật dờ trôi qua, những nhân ảnh vô hồn
hương diệt vong
nở rộ trên những viền môi hi vọng…
buổi sáng
những mái nhà không còn tĩnh mạch
lẽ phải như bầy kiến
nằm chết khô dưới góc tường cáu xỉn
tuổi trẻ chơ vơ bên dòng sông hoang tưởng



4.


quê hương
là sự chia cắt
trái tim đất mẹ thành hai nửa
những vết sẹo chẳng thể gắn hàn
cứ âm thầm nhức nhối
mỗi khi người ta hả hê
kỷ niệm ngày “ những đứa con cùng một mẹ
làm cho nhau đổ máu”


5.



quê hương
là một sân khấu lớn
và nhân dân là lũ diễn viên quần chúng
không mặc áo quần
trơ tấm lưng trần
hứng chịu đòn roi
mồm hô to khẩu hiệu
“vĩ đại thay sự khốn nạn”
quê hương
những đứa con
ngụy trang nỗi căm hờn
bằng nụ cười an phận
những tiếng kêu
buồn bã
lặng lẽ vang trong đêm
tìm tiếng lòng đồng vọng
chỉ thấy
bốn bề chất nghẹn lặng im…
!


6.



quê hương
những đôi mắt cô đơn
hơn biển khơi mùa đông
vô biên cát lạnh
tương lai
nhúm xương mùn
bay theo gió
bay một đời
bay hết vạn kiếp người
vẫn chẳng thoát khỏi bàn tay
số phận


KHÚC 4


1.


chúng ta phải viết đến bao giờ
câu chuyện
năm tháng, đời người, cát bụi
thế giới , chuồng trại, niềm tin, tội ác
trong trận chiến mất còn
giữ gìn đất mẹ
đến khi nào
những người đàn bà
bị cưỡng đoạt chức năng sinh sản
vùng lên
từ triền miên tháng ngày tăm tối
đến bao giờ
những cái đầu rỗng tuếch
thôi hồn nhiên hát vang
bài hát ngợi ca quỷ dữ
đến bao giờ
những đôi mắt
không còn
ngu ngơ xem hoài buổi diễn
vở kịch dối gian , lường gạt
với giá mỗi vé là một mạng sống ?
đến bao giờ
những kẻ mang danh nhà thơ
không còn ngồi
dưới buổi chiều sắt máu
nhai mớ chữ vô hồn
như những đứa nhóc nhai chiếc kẹo cao su
giữa vô biên bóng tối
như lũ dơi câm
ghê sợ tiếng gọi bầy!
dưới bầu trời sao
trong chiếc chuồng ẩm ướt
những con cừu gối đầu lên mùi phân và nước tiểu
mơ về đồng cỏ
và chúng ngỡ mình đang bay
trên con đường mùa đông
những hàng cây bị tước xương, da
vẫn âm thầm ấp ủ
dòng nhựa của mùa xuân trần trề mạch sống
từ hốc hang tăm tối
con kiến nhỏ kiên trì nhen ngọn lửa đợi chờ
ánh ban mai về
trên nấm mồ sự sống
còn chúng ta
như những cánh hoa tàn
rải đầy lối đi
trong nghĩa địa lãng quên
đêm đêm
thả linh hồn đớn đau
theo mùi gió
hòa lẫn tiếng khóc mình
vào tiếng dế cầm hơi…


2.


lẽ ra
chúng ta không phải khóc nhiều như thế
trên đất mẹ
những mái nhà của chúng ta
lẽ ra không bị tước đi
như con nợ bị xiết cổ
đã có quá nhiều điều luật rừng rú
được ban ra từ bàn tay bọn chúng
chúng đánh thuế
một bài ca yêu nước
chúng đánh thuế
một lời nói xẻ chia
chúng đánh thuế
cả những trái tim
chúng đánh thuế
cả những linh hồn ….
lẽ ra chúng ta
phải bước ra ánh sáng
lẽ ra chúng ta
phải ngẩng cao đầu
nhưng chúng ta
phải đeo vác trên vai
bóng tối
phải nhồi nhét vào đầu
những phỉnh lừa thổ tả…
lẽ ra
chúng ta những ông chủ bà chủ
phải được chăm sóc, nâng niu
thì chúng ta phải nai lưng
hầu hạ những tên đầy tớ
chúng ta
vĩnh viễn chỉ là những đứa trẻ nằm nôi
chờ chúng ban cho miếng ăn
như chờ sữa mẹ
chúng cấm chúng ta hỏi
chúng cấm chúng ta tranh đấu
cho ngày mai
chúng bắt chúng ta quỳ gối
chúng bắt chúng ta ngậm miệng
chúng bắt chúng ta tự móc tròng mắt
ném vào vào bụi rậm
chúng ta đang sống
hay chúng ta đã chết?
chẳng ai dám tìm câu trả lời
chúng ta
như những con chó
bị ăn đòn quá nhiều
riu ríu vẫy đuôi
chúng ta
chỉ có một con đường
duy nhất
lặng im và đợi chờ cái chết
chúng ta chỉ có một
nghĩa vụ duy nhất
rút máu mình
và những người ruột thịt
dâng lên mồm những gã lưu manh


3.


quê hương
đôi mắt Người buồn
như những nụ sương
rụng suốt canh trường
và trút hơi thở cuối cùng
trước giây phút bình minh
quê hương
Người như người đàn bà bị xua đuổi
ra khỏi căn nhà của mình
lê tấm thân tàn với chiếc bào thai
lầm lũi dọc bờ sông cay đắng
Người khắc khoải đợi chờ
một chuyến đò
giữa đêm mùa đông
nhưng chỉ có tiếng sóng tái tê dội lại
hòa nhịp tim Người tê dại
quê hương
Người
ngậm ngùi nhìn
thân thể mình bị xẻ từng phần rao bán
hai tay Người buông rũ
đón nhận cái chết từ từ
trong tiếng cười hả hê
của những đứa con…
quê hương
ai khóc Người hôm nay
và cả ngày mai
khi những đứa con của Người
chỉ biết
vùi xương cốt ông cha
xuống bùn lầy
uốn gối tôn thờ
ma quỷ ngoại bang…
đến bao giờ
những cánh tay
xé nát bùn lầy
những bàn chân
lao ra khỏi con ngõ hèn
tăm tối
và TƯƠNG LAI
như vì sao
cháy rực phía chân trời ?

(Khởi thảo cuối 2018 hoàn thành mùa thu năm 2019)


Trương Đình Phượng (source: the poet’s social media page)

Trương Đình Phượng, the poet and writer born in 1984, currently lives in Nghệ An, Việt Nam.

Nguyễn Thị Phương Trâm, the blogger, poet, and translator, was born in 1971 in Phu Nhuan, Saigon, Vietnam. The pharmacist currently lives and works in Western Sydney, Australia.

Vietnamese Art and Literature Beyond Borders | Nguyễn Thị Phương Trâm

Literature is the accumulation of the human mind and spirit in the written word. Hence art invariably is no different to literature in another form other than words. It is the reason I love reading, the reason I love art. Surrounding myself with art and literature, I am myself.

I am thoroughly enjoying this book of literary science.

It surprised me.

Thank you anh #nguyenhungquoc

Nguyễn Thị Phương Trâm

October 17, 2023

#songngutaitram #literatureandpolitics #socialistrealism #NguyenNgocTuan #nguyenthiphuongtram

Vietnamese Art and Literature Beyond Borders

Chúc mừng Nguyễn An Lý .

Congratulations to An for making it on The Longlist of The 2023 Warwick Prize for Women in Translation

Cảm ơn em, vì chị được vui cùng em, và được tự hào vì em.

Thank you An, for your hard work, and thank you for giving Vietnamese women a voice. You are the quiet inspiration for a nation in my heart.

Nguyễn Thị Phương Trâm

October 21, 2023

#songngutaitram #literatureandpolitics #socialistrealism #NguyenNgocTuan #nguyenthiphuongtram

Source: 2023 Longlist warkick.ac.uk

Here’s some brutal honesty. | Nguyến Thị Phương Trâm

No different to elitists, those who are good translators do not need accolades, their work is their reward, they live it. Those who believe they are gods succumbs to mere popularity(the comrade’s way), they are slaves to fame “Do you know who I am!”..

So many people who have sold their soul for so little. They do not understand the word integrity.

But, each to their own. Just fuck off and leave me alone. I don’t need that kind of shit around me. If you want to intimidate me. Grow a pair of balls first or at least have talent. Otherwise piss off and do not waste my time.

Who ever wants to tell me to “calm down” can just as well FUCK OFF! I’m not 5 and neither are you. GROW THE FUCK UP! MY CHILDREN DID. TAKE ALL THE FUCKEN SCREEN SHOTS YOU WANT.

Honesty is not a sin. But what is sinful is a man who has no talent and loves paying for sex. 🙂

No Longer Human by Osamu Dazai | Nguyễn Thị Phương Trâm

The last time I was that excited about a novel was more than a year ago, and it was Pachinko by Min Jin Lee.

I am spoiled by another recommendation by my daughter, No Longer Human by Osamu Dazai. The sincerity and honestly of the protagonist’s voice left me with renewed hope in humanity.

“God, I ask you. Is trustfulness a sin?”

I wonder if both Pachinko and No Longer Human have been translated into Vietnamese?

I mostly feel sad for those who could never get access to such incredible writing. And to be in the end at the mercy of the translators who they mostly revered with reverence as Gods. Like so with these gods bestow windows to their imprisoned subjects to unbetold magical worlds.

English is just another language like any other, it just happened to be a useful one.

Don’t be a slave to these gods..

Ah, again, I am talking to myself. But if I can not be honest with myself then with whom?

God, I ask you. Is honesty a sin?

Because I know to most, betrayal is not.

Ozamu Dazai